Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Một số giải pháp bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.48 KB, 11 trang )

1

MỞ ĐẦU
Bảo đảm nguyên tắc "tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân" là
nội dung cơ bản nhất của dân chủ xã hội chủ nghĩa, thừa nhận quyền tự do, bình
đẳng của cơng dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực và được thể chế
hóa thành các quy định mang tính pháp lý, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành
của Nhà nước. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính
sách đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội, từng bước phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, nhờ đó đã đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Tuy vậy, nhìn chung, quyền làm chủ của nhân dân chưa được coi trọng
đúng mức, còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, cửa
quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân chưa được đẩy lùi, khơng
ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức, dân chủ không đi liền với kỷ luật
và pháp luật, cơ chế và pháp luật bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân chưa được cụ thể hoá đầy đủ.
Vì vậy, để hiểu sâu hơn về một số vấn đề liên quan đến quyền làm chủ
của nhân dân, em xin chọn nội dung “Một số giải pháp bảo đảm quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân ở nước ta hiện nay” làm hướng nghiên cứu của mình.


2

NỘI DUNG
1. Lý thuyết chung về chủ quyền nhân dân và cách thể hiện
Trong lý thuyết về chủ quyền nhân dân, khái niệm chủ quyền nhân dân
được hiểu là trong một quốc gia, nhân dân là người nắm giữ quyền lực một cách
chính đáng và nhân dân là nguồn gốc của mọi quyền lực chính trị. Hiện nay, các
nhà chính trị học trên thế giới đều thừa nhận lý thuyết về chủ quyền nhân dân
của nhà tư tưởng người Pháp J.J.Rousseau (thế kỷ 18) vẫn là nền tảng tư tưởng


cơ bản cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước của các nước. Chủ
quyền nhân dân là một bộ phận không thể thiếu của các học thuyết về Hiến
pháp. Tư tưởng chỉ đạo của Học thuyết chủ quyền nhân dân được thừa nhận
rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới. Hiến pháp của các nước, dưới các hình
thức khác nhau đều khẳng định nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước.
Chủ quyền nhân dân cao hơn quyền lực nhà nước, chi phối quyền lực nhà nước,
là cơ sở hình thành và đảm bảo sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Hiến pháp của hầu hết các nước, dưới các hình thức khác nhau đều khẳng
định, Nhân dân là nguồn gốc của mọi quyền lực, trong đó có quyền lực nhà
nước. Sự khẳng định này thể hiện ở 3 khía cạnh:
- Nhân dân là chủ thể xây dựng hiến pháp và hiến pháp phải được Nhân
dân trực tiếp phê chuẩn.
- Tuyên bố chủ quyền thuộc về Nhân dân hoặc tất cả quyền lực Nhà nước
thuộc về Nhân dân.
- Thể hiện nguyên tắc, cách thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước.
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chủ quyền nhân dân, phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân
Việc xác lập quyền lực nhà nước của nhân dân trong việc lập hiến ở nước
ta từ những năm đầu khai sinh nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay là
một quá trình nhất quán. Hiến pháp đã xác định rõ cơ chế kiểm soát quyền lực
Nhà nước của nhân dân.


3

Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nên Nhân dân phải
kiểm soát được quyền lực nhà nước, đó là một nguyên tắc. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta (sửa đổi, bổ sung năm 2011) đã xác định
kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở

nước ta. Đây là sự bổ sung mới về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước.
Nguyên tắc này là cơ sở Hiến định để các cơ quan nhà nước về lập pháp, hành
pháp và tư pháp phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm, quyền hạn được nhân dân
giao cho, đồng thời cũng là cơ sở đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực sự
thuộc về Nhân dân.
Với nhận thức đó, Điều 4 Hiến pháp sửa đổi 2013 đã bổ sung: "Đảng
Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân,chịu sự
giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định
của mình"; Điều 9 bổ sung: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của
chính quyền Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Điều 10: “Công đoàn… tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước”.
Nguyên tắc Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước trong
Hiến pháp 2013 cịn được thể hiện thơng qua một số sửa đổi, bổ sung về chức
năng nhiệm vụ quyền hạn, bảo đảm cho sự phân công, phối hợp và kiểm soát
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp có hiệu lực và
hiệu quả. Theo đó, Điều 69 Hiến pháp quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước.


4

3. Một số giải pháp đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân

Trong điều kiện hiện nay, để phát huy mọi nguồn lực đẩy nhanh sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; củng cố và tăng cường sự thống nhất
trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa vững mạnh; giữ vững ổn đinh chính trị tạo tiền đề đẩy mạnh sự phát
triển tồn diện của đất nước địi hỏi phải đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân, và để thực hiện được điều này cần tập trung vào thực hiện tốt các giải
pháp sau:
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất thật
sự là công bộc của dân.
Cán bộ là gốc của công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Đảng ta là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, vì
thế "các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là cơng bộc
của dân,... việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải
hết sức tránh" - Hồ Chí Minh. Hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới,
Đảng chủ trương cần đào tạo đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước có đạo đức
cách mạng, phẩm chất, năng lực và phong cách công tác gần dân, hiểu dân, học
dân; là người am hiểu chính sách, pháp luật, có liên hệ mật thiết với nhân dân; là
người có tinh thần trách nhiệm, bao dung, thật sự là công bộc của dân, thật sự
tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân biết hưởng quyền dân
chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm.
Để đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất thật sự là cơng bộc
của dân địi hỏi phải làm tốt việc đẩy mạnh việc tự phê bình và phê bình trong
tất cả các cơ quan hành chính các cấp; xây dựng chế độ trách nhiệm đối với các
cơ quan quản lý cán bộ các cấp; xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát của nhân
dân đối với cán bộ, công chức; thực hiện tốt các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, đánh giá, luân chuyển, sắp xếp, bố trí, điều động cán bộ; mỗi cán bộ,
công chức phải gương mẫu đi đầu trong thực hiện đường lối, chủ trương của



5

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; gương mẫu trong đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, trong rèn luyện và nâng cao tinh thần trách
nhiệm của mình trong thực thi công vụ xứng đáng là "công bộc " của nhân dân
sẽ là động lực, là điều kiện quan trọng để đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh
bạch, thể hiện đúng ý chí, lợi ích, nguyện vọng và quyền lực của dân, thực sự
bảo vệ được các quyền của công dân.
Trong Nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước và công dân đều phải thừa
nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp luật tư sản khơng phải là pháp luật
của tồn dân, khơng thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của toàn
dân mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng, quyền lợi và quyền lực của một bộ
phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp tư sản.
Trong khi đó, pháp luật xã hội chủ nghĩa là pháp luật của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân thể hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích và quyền lực của
nhân dân lao động hợp với quy luật, với sự vận động và phát triển của thực tiễn
khách quan chứ khơng phải là ý chí, nguyện vọng, lợi ích và quyền lực chủ quan
của từng cá nhân cộng lại. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khn
khổ pháp luật. Đó chính là những giá trị mà xã hội có, xã hội cần, xã hội ủng hộ
được thừa nhận chung. Có hệ thống pháp luật và pháp chế hoàn chỉnh, là điều
kiện quan trọng để nhân dân kiểm sốt quyền lực và đội ngũ cơng bộc của mình,
để tạo điều kiện thuận lợi cho những cơng bộc thực sự của dân phát huy được
vai trị, trách nhiệm trong phục vụ nhân dân và để đào thải những công bộc đi
ngược lại quyền lợi của nhân dân, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội, cuộc sống
n bình, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Điều này thể hiện tính nhân
văn, nhân đạo sâu sắc của hệ thống luật pháp thuộc Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật phải
tuân thủ việc bảo đảm sự phù hợp giữa ý chí chủ quan với tồn tại khách quan;

bảo đảm dân chủ, pháp chế, khoa học; bảo đảm tính cụ thể, khả thi, hiệu quả của
các quy định trong văn bản pháp luật; bảo đảm sự phù hợp giữa pháp luật quốc


6

gia với luật pháp quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia ký kết hoặc gia nhập; bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xây dựng, hoàn thiện và tổ chức
thực hiện pháp luật.
Ba là, nâng cao vai trò giám sát của nhân dân đối với quyền lực Nhà
nước.
Quyền lực Nhà nước là quyền lực của nhân dân, do nhân dân ủy quyền và
nhân dân phải có quyền giám sát nhà nước. Sự giám sát của nhân dân đối với
quyền lực Nhà nước là vấn đề đặc biệt quan trọng, là tất yếu trong tiến trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, bảo đảm
nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước. Nó thể hiện bản chất tốt
đẹp của chế độ chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa, là phương thức mở rộng dân
chủ và phát huy quyền làm chủ nhân dân ở nước ta hiện nay.
Mục đích của giám sát nhằm bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân
dân trong quá trình tổ chức, hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan đại diện
quyền lực, của các cơ quan chấp hành và hoạt động của các cơ quan tư pháp, để
tìm ra những bất cập nhằm hồn thiện cơ chế, thể chế, hình thức giám sát hướng
tới xây dựng Nhà nước trong sạch, minh bạch, hiệu lực và hiệu quả nhằm phục
vụ nhân dân tốt hơn.
Trong những năm qua, sự giám sát của nhân dân đối với quyền lực Nhà
nước đã góp phần quan trọng trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị, kinh tế
- xã hội. Tuy nhiên, sự giám sát của nhân dân đối với quyền lực Nhà nước chưa
đạt được những kết quả mong muốn, chưa phát huy hết được vai trò to lớn của
nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước. Trên thực tế còn nhiều bất cập,
bức xúc trong nhận thức, tính chủ động, sáng tạo, tính chính trị của nhân dân,

phương thức nhân dân thực hiện quyền giám sát còn nhiều lúng túng. Để khắc
phục tình trạng đó cần phải thực hiện nhiều giải pháp, cả về hệ thống chính trị
nói chung và quyền lực Nhà nước nói riêng, năng lực làm chủ quyền lực Nhà
nước của nhân dân. Cần xây dựng cơ chế đồng bộ thực hiện quyền lực của dân;
cơ chế minh bạch, công khai về quyền lực Nhà nước.
Bốn là, giải quyết tốt vấn đề quyền và nghĩa vụ công dân.


7

Điều 51 Hiến pháp 1992 quy định: "Quyền của công dân không tách rời
nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân
phải làm trịn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ
của công dân do Hiến pháp và luật quy định". Như vậy, cầu nối giữa Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội chính là việc giải quyết vấn đề quyền và
nghĩa vụ công dân, là việc thực thi pháp luật, thực hiện quyền dân chủ và cơng
khai trong xã hội. Bởi vì, chỉ khi nào người dân tự ý thức được quyền cũng như
nghĩa vụ cơng dân của mình thì lúc đó dân chủ hóa mới được thực thi trong xã
hội và xã hội mới thực sự trở thành xã hội dân sự.
Trong diều kiện xã hội ở nước ta hiện nay, nhiệm vụ giáo dục cho người
dân hiểu và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ công dân của họ chủ yếu thuộc về
Nhà nước và các đoàn thể xã hội. Nhà nước phải có trách nhiệm trong việc nâng
cao sự hiểu biết, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật của người dân, giúp và
tạo điều kiện cho họ rèn luyện thói quen sống, làm việc theo hiến pháp và pháp
luật; đồng thời, giúp họ tự ý thức được các quyền cá nhân nói riêng, dân chủ nói
chung, làm cho họ tự giác và chủ động tham gia vào các hoạt động xã hội, đặc
biệt là đời sống chính trị của đất nước; gắn với thực hiện dân chủ hóa đời sống
xã hội cần phải tiến hành cơng khai hóa hoạt động của các cơ quan quyền lực
Nhà nước, đặc biệt là về mặt tài chính và cơ chế hoạt động. Nhà nước cần tổ
chức một hệ thống truyền thơng đại chúng đa dạng, chính xác, rộng rãi, cập nhật

và có định hướng để giúp cho người dân nắm bắt được một cách đúng đắn và
kịp thời những thông tin cần thiết. Có như vậy, người dân mới có cơ sở để thực
hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình đối với Nhà nước, đối với xã hội.
Năm là, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với
Nhà nước.
Trong hệ thống chính trị ở nước ta, Đảng là hạt nhân lãnh đạo, Nhà nước
là tổ chức cốt yếu để thực thi quyền lực của nhân dân. Đảng có vai trị lãnh đạo
Nhà nước và nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện mục
tiêu nhiệm vụ cách mạng. Công tác lãnh đạo bao gồm nhiều nội dung, trong đó
có vấn đề xây dựng bản thân đảng chính trị ở tất cả các cơng đoạn của q trình


8

lãnh đạo, Đảng đều phải kiểm tra, giám sát. Đó là nhân tố cực kỳ quan trọng bảo
đảm thắng lợi cho cơng tác lãnh đạo nó thuộc về chức năng lãnh đạo của Đảng,
là thành tố quan trọng của công tác xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Khơng
kiểm tra là không lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát kể cả kiểm tra, giám sát
cơ quan nhà nước ở cấp vĩ mô, thông qua hoạt động này để nắm tình hình, để
đơn đốc, thúc đẩy việc thực hiện có kết quả cao các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, chính sách của Nhà nước; phát hiện những thiếu sót lệch lạc trong hoạt
động của Nhà nước để kịp thời uốn nắn những lệch lạc để sửa đổi, bổ sung, hồn
thiện đường lối, cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước; phịng ngừa, ngăn chặn
sự suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, phịng chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí.
Đảng kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước phải thông qua
tổ chức đảng, đảng viên; thường xuyên làm tốt công tác lãnh đạo tổ chức, động
viên quần chúng kiểm tra, giám sát các công việc và hoạt động của Nhà nước;
phát huy mặt tốt, khắc phục mặt yếu kém, đẩy lùi tiêu cực; tăng cường giám sát,

quản lý cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước trên tinh thần kỷ luật và đạo
đức cộng sản. Chỉ có như vậy thì các cán bộ, công chức trong bộ máy Đảng và
Nhà nước mới "tự giác" đặt mọi hoạt động của mình trong tổ chức để tự điều
chỉnh trong lĩnh vực đạo đức để không ngừng "nâng cao ý thức trách nhiệm, hết
lòng. hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân".
Sáu là, nâng cao dân trí. Muốn thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thì
phải nâng cao dân trí để giúp cho nhân dân hiểu biết đúng đắn về chính sách,
pháp luật để thực hiện quyền làm chủ, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp
của mình, đồng thời hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và tham gia kiểm tra, giám sát
việc thực hiện của cán bộ, đảng viên; dân trí được nâng lên thì nhân dân mới có
khả năng, sáng kiến tham gia xây dựng nhà nước, sáng suốt chọn lựa đại biểu,
bổ sung chính sách, luật pháp. Chính vì vậy, cùng với q trình phát triển kinh tế
phải chú trọng nâng cao dân trí.


9

KẾT LUẬN
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính vì
thế, thực hiện có hệ thống các giải pháp trên sẽ góp phần bảo đảm quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực. Là người chủ xã
hội, cho nên nhân dân khơng chỉ có quyền, mà cịn có trách nhiệm tham gia
hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước. Quyền làm chủ của người dân ngày câng được phát huy, sẽ tạo động lực
trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng, củng cố hệ thống chính trị.

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN CHÍNH TRỊ HỌC



10

BÀI THU HOẠCH MƠN: CHÍNH TRỊ HỌC

Đề tài: “Một số giải pháp bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
ở nước ta hiện nay”

Học viên: Lê Thị Thu Trang
Mã số học viên: FF170875
Lớp: Hoàn chỉnh CCLLCT, K68-C06 (2017-2018)

Hà Nội, tháng 01/2018

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH


11

VIỆN KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC

BÀI THU HOẠCH MƠN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Đề tài: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam”

Học viên: Lê Thị Thu Trang
Mã số học viên: FF170875
Lớp: Hoàn chỉnh CCLLCT, K68-C06 (2017-2018)

Hà Nội, tháng 01/2018




×