Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam theo tinh thần nghị quyết đại hội XII của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.19 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
Ngay từ khi Đảng ra đời (1930) để lãnh đạo cách mạng; trong cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng đã nhất quán chủ trương, đường lối trong giai đoạn
cách mạng giải phóng dân tộc phải xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân
dân mà mục tiêu cốt lõi của nó là “Độc lập dân tộc, người cày có ruộng” và thực
hiện quyền phổ thơng đầu phiếu trong lĩnh vực chính trị. Khi chuyển sang giai
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở kế thừa nền dân chủ nhân dân
đã có, phải tiến hành ngay việc xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm phát huy
dân chủ trong mọi tổ chức, hoạt động; đặc biệt là quyền làm chủ của nhân dân,
bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Dân chủ trở thành ngọn cờ quy
tụ, tập hợp sức mạnh của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động
tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh xố bỏ áp bức, bóc lột, thiết lập nên chính
quyền của giai cấp cơng nhân, đem lại quyền tự do, dân chủ cho quảng đại quần
chúng nhân dân lao động. Tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định xác định:
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở
mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải
được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.
Vì vậy, để hiểu sâu hơn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, em xin chọn nội dung “Phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”
làm hướng nghiên cứu của mình.


NỘI DUNG
1. Quan điểm về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta
luôn hướng tới, quyết tâm biến nó thành hiện thực. Đại hội XI của Đảng đã


khẳng định mục tiêu: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một
xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ...”. Trong đó có hai điểm mới quan trọng được bổ sung và phát triển so với
Nghị quyết Đại hội X của Đảng: Một là, đưa cụm từ dân chủ lên trước cụm
từ công bằng, văn minh. Hai là, khẳng định đặc trưng quan trọng của xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do nhân dân làm chủ, thể
hiện rõ bản chất của chế độ xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Trong văn kiện Đại hội XII, sự nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa của việc phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được thể hiện ở chỗ, Đảng ta bổ sung
thêm cụm từ “dân chủ xã hội chủ nghĩa” vào tiêu đề Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội XII của Đảng.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa còn là động lực của sự phát triển đất nước, là
nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; bởi lẽ, khi nhân
dân đã nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ và thực sự
phát huy quyền dân chủ thì đó sẽ là nguồn sức mạnh to lớn cho sự phát triển đất
nước. Mở rộng dân chủ là một trong những quan điểm phát triển được Đảng ta
nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020(1) ; còn trong Báo
cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 2020, quan điểm phát triển được Đảng ta nhấn mạnh với yêu cầu cao hơn: “Phát
huy mạnh mẽ quyền dân chủ của người dân trong hoàn thiện và thực thi pháp
luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm quyền con người,
quyền công dân”.
Trong tư duy lý luận của Đảng ta, vấn đề không dừng lại ở quan niệm về
dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà điều quan trọng hơn là tiếp tục thực hành, phát


huy dân chủ, nghĩa là phải tạo được bước chuyển căn bản từ nhận thức đến hành
động. Để đạt được mục tiêu xây dựng xã hội thực sự dân chủ, Đại hội XII xác
định rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất

cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc
sống của nhân dân”(3). Phương thức, cơ chế thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa
là nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, mà trọng
tâm là “thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”, như văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra. Dưới nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ thể của quyền lực, là người thực hiện quyền
lực; đa số nhân dân lao động có quyền và được bảo đảm các điều kiện cần thiết
để tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Trong việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải bảo đảm
cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc tổ chức, lập ra bộ máy nhà nước, vào
việc quản lý các công việc của Nhà nước, quyết định các cơng việc trọng đại của
đất nước; đồng thời, có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức
và cá nhân khác được trao những quyền hạn nhất định để quản lý một số công
việc của Nhà nước. Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm các quyền con người,
quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người.
2. Đánh giá về thực hành, phát huy dân chủ trong những năm qua
Về thành tựu thực hành, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội XII
của Đảng nhận định: qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng dân
chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy. Cụ thể như sau:
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương,
đường lối của Đảng mà cịn được thể chế hóa và bảo đảm thực hiện thông qua
Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Trên phương diện xây dựng,


hồn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về thực hiện dân chủ, Đại hội XII đánh
giá: “Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp
luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ

của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được
xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới
được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền cơng dân
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách
nhiệm đối với xã hội”.
- Từ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về thực hành, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đến việc hiện thực hóa chúng
trong thực tế xã hội phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của nhân dân về các
quyền dân chủ của mình. Chẳng hạn, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn quy định và bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền được biết
các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội của mình ở cơ sở, quyền
được bàn và quyết định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định và quyền được giám sát. Trong những năm qua, nhân dân ở cơ
sở đã thực hiện, phát huy tốt các quyền đó, bởi họ có nhận thức khá đầy đủ về
những quyền dân chủ. Đó cũng là cơ sở thực tiễn để Đảng ta nhận định: “Ý thức
về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của
nhân dân, ý thức về dân chủ trong xã hội được nâng lên. Việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tiến
bộ”.
- Việc thực hành dân chủ đã và đang tạo động lực thúc đẩy, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, kiểm
tra, giám sát các hoạt động của Nhà nước nói chung, của các cấp chính quyền
nói riêng; khắc phục tệ nạn quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, xa rời quần
chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ, cơng chức nhà nước; đóng góp tích cực
vào việc cải cách hành chính; góp phần xây dựng bộ máy chính quyền các cấp
trong sạch, vững mạnh; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân


dân; đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chung của đất

nước. Đại hội XII của Đảng đánh giá: Quyền làm chủ của nhân dân được phát
huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân
chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng,
chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng
các loại ý kiến khác nhau.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, Đại hội XII của Đảng cũng
thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong thực hành, phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm qua: Nhận thức về dân chủ trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân cịn hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm
chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. “Quyền
làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi,
việc thực hiện dân chủ cịn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi
dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu trên là do, ở một
số nơi, các cấp ủy, chính quyền cịn xem nhẹ vai trị của việc thực hành dân chủ
nên cơng tác lãnh đạo chưa sâu sát, sự chỉ đạo cịn mang tính hình thức, đối phó;
đội ngũ cán bộ, đảng viên, cơng chức chưa nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm
của mình trong việc triển khai các biện pháp thực hiện dân chủ nên chưa tận lực,
tận tâm; người dân thiếu hiểu biết về các quyền dân chủ, cơ chế thực hiện dân
chủ nên chưa chủ động, tích cực tham gia quá trình này. Đại hội XII của Đảng
chỉ rõ: Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân: Hệ thống
pháp luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và các điều kiện để thực thi dân chủ, quyền
làm chủ của nhân dân cịn thiếu và chưa đồng bộ. Khơng ít cấp ủy đảng, cơ quan
nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa là tấm gương về phát huy dân chủ trong xã
hội.
3. Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa
Về phương hướng.



Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội XII của Đảng đã khẳng
định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng
của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân
dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan
đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh
luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp
luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”(8). Nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa mà Đảng ta hướng tới xây dựng và hoàn thiện là nền dân chủ rộng rãi,
mang tính tồn diện, được thực hiện thơng qua hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa, trước hết là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không
ngừng mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thu hút nhân
dân lao động tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm phục vụ cho lợi
ích của đại đa số nhân dân lao động và bảo đảm quyền làm chủ của họ cả về mặt
pháp lý cũng như trên thực tế. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là phương hướng,
cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
vì Nhà nước đó sẽ bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Về các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể.
Nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong những năm tới, Đại hội
XII của Đảng xác định:
Thứ nhất, “Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện
dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện”. Dân chủ trực tiếp là hình thức mọi cơng
dân trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình một cách bình đẳng, khơng
phân biệt giới tính, lứa tuổi, thành phần xuất thân, địa vị xã hội... Đây là hình
thức hữu hiệu tạo cho nhân dân, với tính cách là chủ thể tối cao và duy nhất của
quyền lực nhà nước, khả năng tham gia một cách tích cực và chủ động vào các

hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.


Theo quy định của Hiến pháp hiện hành, hình thức dân chủ trực tiếp được thực
hiện bằng các phương thức: chế độ bầu, bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu hội
đồng nhân dân; chế độ gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri của đại biểu Quốc hội, đại biểu
hội đồng nhân dân; quyền công dân tham gia thảo luận các vấn đề chung, quan
trọng của đất nước và của địa phương; biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng
cầu ý dân. Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân thực hiện quyền dân chủ
thông qua các cơ quan đại diện của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, đại diện cho nhân dân. Dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện đều là hình thức của chế độ dân chủ, có quan hệ gắn bó hữu
cơ với nhau. Đại hội XII của Đảng khẳng định: Phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa phải luôn đặt trong mối liên hệ và gắn liền với thực hiện quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013;
gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội.
Thứ hai, “Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”. Muốn để “dân biết”, điều cốt yếu đầu tiên là phải cung
cấp thông tin cho nhân dân; việc cung cấp thông tin phải chân thực, kịp thời và
cơng khai. Có cơng khai thì mới có dân chủ, vì cơng khai là một trong những
điều kiện tiên quyết để thực hành dân chủ. Bản chất của Nhà nước ta là nhà
nước dân chủ, nên cơng khai là một địi hỏi tất yếu, khách quan, là một biểu hiện
quan trọng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
“Dân bàn” là xu hướng tất yếu sau khi nhân dân đã được cung cấp thông
tin đầy đủ, công khai. Với tinh thần “lấy dân làm gốc”, các cơ quan nhà nước và
chính quyền các cấp phải biết lắng nghe các ý kiến của quần chúng nhân dân,
nắm bắt dư luận xã hội trong nhân dân một cách nghiêm túc, phân tích nội dung
các ý kiến của nhân dân một cách khoa học để nắm bắt chính xác, kịp thời tâm
trạng, tình cảm, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Muốn thực hiện tốt
phương châm “dân bàn”, phải tạo các điều kiện thuận lợi (phương tiện, diễn đàn,
cơ chế) để nhân dân có thể nói lên suy nghĩ thật của mình, được bày tỏ quan

điểm, chính kiến về những vấn đề mà mình đang quan tâm, vì lợi ích hợp pháp,
chính đáng của họ và vì sự phát triển chung của mỗi địa phương, của đất nước.


Chính quyền các cấp khơng được phép thờ ơ trước những sáng kiến của quần
chúng nhân dân để tránh tình trạng sáng kiến của người dân trong chế độ dân
chủ trở thành đặc quyền của một thiểu số người với mục tiêu vụ lợi.
“Dân làm” cần được hiểu chủ yếu theo nghĩa “Dân làm” là hiện thân của
sự chuyển hóa từ “tư tưởng đã thông suốt” thành những hành động, việc làm cụ
thể của nhân dân. Từ chỗ được cung cấp thông tin một cách công khai, trung
thực, kịp thời, thơng qua bàn bạc, trao đổi ý kiến để tìm ra tiếng nói chung,
người dân sẽ tự giác tuân thủ, thực hành các quyền dân chủ theo quy định của
pháp luật.
Bên cạnh đó, Nhà nước phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện
việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và của
cán bộ, công chức, viên chức nhà nước được trao những quyền hạn nhất định để
quản lý, điều hành một số công việc của Nhà nước.
Thứ ba, “Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát
huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã
hội”(11). Đảng ta là đảng cầm quyền và sự cầm quyền đó luôn được đặt trong
mối liên hệ mật thiết với nhân dân; vậy nên, thực hành, phát huy dân chủ trong
Đảng phải luôn đi trước, tạo khuôn mẫu, mực thước cho nhân dân noi theo.
Trong giai đoạn hiện nay, việc phát huy dân chủ trong Đảng để phát huy đầy đủ
dân chủ trong xã hội lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì cịn có một
bộ phận cán bộ, đảng viên tuy có nhận thức đúng, đầy đủ về thực hành, phát huy
dân chủ nhưng chỉ là trên lý thuyết, cịn trên thực tế, nhận thức đó chưa biến
thành hành động thực tế, nói khơng đi đơi với làm.
Thứ tư, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đi liền với việc đề
cao trách nhiệm công dân và bảo đảm giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội, không
được tách rời, đối lập giữa thực hành dân chủ và kỷ cương, pháp luật. Nhân dân

không nên tụ tập đông người, khiếu kiện vượt cấp, gây mất an ninh, trật tự và
chống đối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem xét,
giải quyết theo quy định của pháp luật. Nếu cá nhân nào có hành vi vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân, lợi dụng dân chủ để gây mất an ninh, trật tự, an


tồn xã hội thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 331 Bộ luật
Hình sự năm 2015: “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy dân chủ phải đi liền với
tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương
và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ
hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và
quyền làm chủ của nhân dân”. Điều đó khẳng định bản chất dân chủ thực sự của
Nhà nước ta./.

KẾT LUẬN


Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển đất nước, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa , bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Dân chủ phải được thực hiện trong cuộc sống thực tế ở từng cấp và trên tất
cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và phải
được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Cách mạng Việt Nam
từ khi có Ðảng lãnh đạo, bất kỳ ở giai đoạn lịch sử nào, dân chủ vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng. Nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa cần
xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì đây là một mục tiêu quan
trọng của cách mạng. Khơng có dân chủ thì khơng có chủ nghĩa xã hội. Chủ

nghĩa xã hội mà không thực hiện quyền dân chủ rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống với quảng đại quần chúng thì chỉ là chủ nghĩa xã hội hình thức.
Từ khi ra đời, Đảng ta ln dày cơng tìm tịi, sáng tạo, khơng ngừng đổi
mới nội dung và hồn thiện phương thức lãnh đạo của mình đối với Nhà nước
nhằm làm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh và thực sự là cơ quan quyền
lực, là công cụ biểu hiện ý chí, nguyện vọng, thực heiẹn và bảo vệ quyền làm
chủ thực sự của nhân dân. Để kiên trì bảo vệ và xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên quyết khắc phục những yếu
kém, mặt khác phải kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
quyết tâm đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta tiến lên giành
nhiều thành tựu hơn nữa để xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay là nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


(1),(2),(17),(19). Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.8. Nxb Chính trị quốc gia. H,
2011. Tr.226; 326; 294; 293;
(3). Hồ Chí Minh: Sđd, t.9. tr.175
(4),(5), (6),(7),(13), (21). Hồ Chí Minh: Sđd, t.10. tr.17;375; 258; 329;
(8),(14),(15),(16) . Hồ Chí Minh: Sđd, t.12. tr.563; 411; 367; 601-602;
(9), (20). Hồ Chí Minh: Sđd, t.11. tr.441; 238
(10). Hồ Chí Minh: Sđd, t.3. tr.1-2
(11). Hồ Chí Minh: Sđd, t.7. tr.361
(12). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, tập 12, Nxb
Chính trị quốc gia. H. 2011, tr. 435
(18). Hồ Chí Minh: Sđd, t.14. tr.374-37

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC



BÀI THU HOẠCH MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Đề tài: “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng”

Học viên: Lê Thị Thu Trang
Mã số học viên: FF170875
Lớp: Hồn chỉnh CCLLCT, K68-C06 (2017-2018)

Hà Nội, tháng 01/2018

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC


BÀI THU HOẠCH MƠN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Đề tài: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam”

Học viên: Lê Thị Thu Trang
Mã số học viên: FF170875
Lớp: Hoàn chỉnh CCLLCT, K68-C06 (2017-2018)

Hà Nội, tháng 01/2018




×