Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Ve tac gia Pham Duy TonHanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.8 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phạm Duy Tốn</b>


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm


Phạm Duy Tốn


<b>Phạm Duy Tốn (</b>1881 – 25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn
học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Chuyện ngắn Sống chết mặc bay của ông được coi
là truyện ngắn đầu tiên theo lối tây phương của văn học Việt Nam. Ngoài tên thật Phạm
Duy Tốn, ơng cịn viết với các bút danh Ưu Thời Mẫn, Đơng Phương Sóc, Thọ An. Một
trong những người con của Phạm Duy Tốn là nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Duy.


<b>Mục lục</b>



[ẩn]


 1 Tiểu sử


o 1.1 Xuất thân
o 1.2 Làm đủ nghề
o 1.3 Viết văn, làm báo
o 1.4 Làm chính trị
 2 Gia đình và đời tư


o 2.1 Gia đình


o 2.2 Ngoại hình và tính cách
 3 Văn nghiệp


o 3.1 Nhà báo sắc sảo



 3.1.1 Một cây bút xuất sắc


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

 3.2.1 Mở đầu trào lưu văn học mới
 3.2.2 Truyện ngắn Sống chết mặc bay!
 4 Tác phẩm


 5 Tham khảo
 6 Liên kết ngoài


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Tiểu sử</b>



<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Xuất thân</b>



Phạm Duy Tốn sinh tại nhà số 54 đường Felloneau (nay là phố Hàng Dầu), Hà Nội.
Nguyên quán của ông ở làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đơng (nay là huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội). Cha Phạm Duy Tốn là ông Phạm Duy Đạt và mẹ là bà
Nguyễn Thị Huệ.


Trong bài <i>Nói chuyện với Phạm Duy về Phạm Duy Tốn</i> (báo <i>Văn</i> số 169), nhà văn, nhà
báo Vũ Bằng dẫn lời Phạm Duy cho biết ông Phạm Duy Đạt là một ơng chánh tổng, cịn
bà Nguyễn Thị Huệ là "một người ả đầu cũ kỹ nổi tiếng hát hay một thời". Sau khi lấy
nhau, bà Huệ bỏ nghề hát về bán dầu. Cũng theo lời Phạm Duy, nhờ nghề bn bán của
gia đình ơng nội nên "chắc bố tơi cũng được lớn lên trong một hồn cảnh dễ chịu, khơng
bị thơi thúc vì đồng tiền" (Phạm Duy, <i>Viết về bố</i>, báo <i>Văn</i> số 169). Thuở nhỏ Phạm Duy
Tốn học chữ Nho. Sau ông cùng với các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần
Trọng Kim học trường Thông ngôn Hà Nội (Quai de Commerce) ở Yên Phụ và tốt
nghiệp năm 1901.


Sau khi tốt nghiệp, Phạm Duy Tốn được bổ làm thơng ngơn ngạch tịa sứ Ninh Bình rồi
sang Thị Cầu (tịa sứ Bắc Ninh). Lúc ấy ông nổi tiếng là một thông ngôn có bản sắc


riêng. Tuy nhiên, ơng nhanh chóng bỏ cơng việc đúng theo sở học của mình mà khơng rõ
lý do.


Mặc dù có tài liệu nói ơng bỏ việc vì chống đối người Pháp, nhưng theo lời Phạm Duy,
có thể lý do là ở máu phiêu lưu và sự hiếu động của ông. Phạm Duy viết trong bài <i>Viết về</i>
<i>bố</i>: "Theo lời mẹ tơi nói trong lúc răn dạy tơi khi cịn bé thì bố tơi là một người rất đam
mê, nhưng chóng chán. Làm đủ mọi việc nhưng không bao giờ làm hết một việc. Tính
tình đó đã cắt nghĩa được sự hành nghề lung tung của bố tôi trong một quãng đời ngắn
ngủi".


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Làm đủ nghề</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Tiểu luận <i>Phạm Duy Tốn, Journalist, Short Story Writer, Collector of Humorous Stories</i>


(Phạm Duy Tốn, nhà báo, tác giả truyện ngắn, nhà sưu tập truyện cười) của giáo sư John
C. Schafer, đại học Huboldt State cho biết thêm Phạm Duy Tốn cùng Nguyễn Văn Vĩnh
là hai người đã đệ đơn lên chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương xin thành lập
trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Tuy nhiên, trường này bị nhà chức trách đóng cửa vào
năm 1908 vì là nơi tập hợp các trí thức u nước, có khuynh hướng độc lập dân tộc và
chống Pháp.


Sau khi thôi dạy học, ông làm đủ các nghề khác nhau. Đầu tiên là mở một tiệm cao lâu ở
phố Cầu Gỗ, Hà Nội. Theo Phạm Duy, nghề mở tiệm ăn lúc đó nằm trong tay Hoa kiều,
tiệm cao lâu của ông Phạm Duy Tốn là tiệm đầu tiên của người Việt Nam. Tuy nhiên,
tiệm không cạnh tranh được và phải đóng cửa. Ơng lại vay tiền để mở một tiệm vàng tên
là Nam Bảo. Chính vì việc vay mượn này mà sau khi Phạm Duy Tốn mất, vợ ơng, bà
Nguyễn Thị Hịa, đã phải làm lụng suốt đời để trả món nợ cũ của chồng. Tiệm vàng thất
bại, Phạm Duy Tốn lại cùng một số bạn bè đi tìm mỏ ở Quảng Yên, nhưng theo lời Phạm
Duy, "việc tìm mỏ chắc khơng đem lại cho bố tơi những thích thú về tiền bạc hay tinh
thần".



Sau khi thất bại liên tục trên đường tìm sinh kế, Phạm Duy Tốn được một người bạn
Pháp giúp đỡ bằng cách giới thiệu vào làm việc cho chi nhánh của Ngân hàng Đông
Dương (Banque d'Indochine) ở Mơng Tự, Trung Quốc. Ơng ở Trung Quốc khơng lâu, lại
bỏ việc trở về và quyết định theo đuổi nghề mà xưa nay ông vẫn cho là nghề phụ: viết
văn, làm báo.


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Viết văn, làm báo</b>



Giáo sư Schafer trong tiểu luận đã dẫn bình luận với nghề báo và viết lách, Phạm Duy
Tốn "đã tìm thấy tiếng gọi của ông" và ông theo đuổi các hoạt động này đến khi qua đời.
Schafer dẫn một bài trong báo <i>Văn</i> năm 1971 có tựa là <i>Tưởng niệm Phạm Duy Tốn</i> cho
biết Phạm Duy Tốn đã viết cho tất cả 11 tờ báo khác nhau.


Hầu hết các tờ báo đó, như <i>Đơng Dương tạp chí</i> hay <i>Nam phong</i> có trụ sở tại Hà Nội,
nhưng ơng cũng có vào Nam Kì để viết giúp các tờ báo của miền nam như <i>Lục tỉnh tân </i>
<i>văn</i> hay Nông cổ mín đàm. Giáo sư Schafer viết khó xác định chính xác Phạm Duy Tốn
đóng vai trị cụ thể gì trong nhiều tờ báo khác nhau, nhưng những tài liệu từ báo <i>Văn</i> cho
thấy Phạm Duy Tốn đã làm biên tập và trợ lý biên tập cho một số tờ báo, ông cũng viết
xã luận và truyện ngắn. Ơng cịn làm thư ký tịa soạn cho tờ <i>Học báo</i> trước khi nghỉ hưu
vì sức khỏe.


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Làm chính trị</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Thời gian này sức khỏe ơng đã kém đi nhiều và theo Phạm Duy, chuyến đi khiến ông
càng yếu hơn. Phạm Duy Tốn bắt đầu hút thuốc phiện khi biết ông mắc bệnh lao và sẽ
khơng cịn sống được bao lâu. Lúc những bạn bè ở tờ <i>Thực nghiệp dân báo</i> đến thăm ông
bên giường bệnh, Phạm Duy Tốn nói: "Người ta chỉ chết một lần. Tơi đã biết mình sẽ
chết vài năm trước. Bệnh này khơng chữa được. Với tơi chết thì chẳng đáng hy vọng gì,
nhưng cũng chẳng đáng sợ gì".



Ơng qua đời ngày 25 tháng 2 năm 1924 tại nhà riêng ở số 54, đường Felloneau, Hà Nội.


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Gia đình và đời tư</b>



<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Gia đình</b>



Vợ Phạm Duy Tốn, bà Nguyễn Thị Hòa, theo lời Phạm Duy, là con gái một ông đồ ở phố
Hàng Gai. Chị của bà Nguyễn Thị Hịa lấy ơng Ơn Như Nguyễn Văn Ngọc, một nhà
nghiên cứu văn hóa dân gian nổi tiếng. Bà Nguyễn Thị Hịa và ơng Phạm Duy Tốn có với
nhau năm người con, ba trai, hai gái:


 Phạm Duy Khiêm (1908-1974), nhà văn, chính trị gia, từng giữ chức vụ đại sứ
Việt Nam cộng hòa tại Pháp, được trao giải Văn chương Đông Dương (Prix
Littéraire D'Indochine) lần đầu tiên và giải thưởng Louis Barthou của Viện hàn
lâm Pháp


 Phạm Duy Nhượng (1919-1967), nhà giáo


 Phạm Duy Cẩn (1921-), tức nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Duy

<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Ngoại hình và tính cách</b>



Theo lời Phạm Duy thì bố ơng "người gầy gầy, cao, mặt hơi rỗ, tính tình vui vẻ, hay nói
đùa, hút thuốc lá nặng, khơng biết nhạc, không nghe nhạc...", "một người rất đam mê,
nhưng chóng chán. Làm đủ mọi việc nhưng khơng bao giờ làm hết một việc".


Việc thay đổi nghề nghiệp liên tục cũng phản ánh tính tình của Phạm Duy Tốn. Công
việc mở hiệu cao lâu, hiệu cao lâu đầu tiên của người Việt Nam, theo lời Phạm Duy nghe
một người anh họ kể lại, là do tính "háo thắng", "nóng nảy" của ơng.



Về quan hệ xã hội của ông, Phạm Duy viết trong bài <i>Viết về bố</i>: "Qua những bài báo,
những truyện ngắn, nhất là qua tập tuyển <i>Tiếu lâm quảng ký</i> (bút hiệu Thọ An), tôi thấy
bố tơi quả là một người có đầu óc phê bình xã hội, một người sống trong một cái xã hội
mà mình khơng chấp nhận hoặc khơng nhập thế được. Ðời sống làm ăn của cụ đã chứng
minh điều đó: cụ khơng thể nào thành cơng trong một cái xã hội mà cụ thực tâm khước
từ. Cuối cùng cũng chỉ biết dùng cây viết để nói vào cái xã hội mà mình đang sống".


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Văn nghiệp</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>[sửa] Một cây bút xuất sắc</b>


Hồi ký của Phạm Duy cho biết, năm 1913, giai đoạn Phạm Duy Tốn cịn làm việc cho
Ngân hàng Đơng Dương ở Mơng Tự, Trung Quốc, ơng có viết bài gửi về cho tờ <i>Đơng </i>
<i>Dương tạp chí</i>. Có thể ước đốn Phạm Duy Tốn bắt đầu viết báo từ trước đó không lâu.
Các tài liệu khác nhau cho thấy Phạm Duy Tốn từng viết cho các tờ <i>Đông Dương tạp chí</i>


(bút hiệu Ưu Thời Mẫn), <i>Trung Bắc tân văn</i>, <i>Cơng thị báo</i>, <i>Nam phong</i>, <i>Lục tỉnh tân văn</i>,
<i>Nơng cổ mín đàm, (bút hiệu Đơng Phương Sóc), Thực nghiệp dân báo</i>, <i>Đăng cổ tùng </i>
<i>báo</i>, <i>Đông Pháp thời báo</i>...


Schafer, trong tiểu luận đã dẫn, nói tìm hiểu các thành tựu làm báo của Phạm Duy Tốn là
một việc khó khăn vì khó tập hợp được hết các tài liệu tất cả những tờ báo mà ông đã
viết. May mắn là tại đại học Cornell còn lưu giữ một số bản tờ tuần báo <i>Lục tỉnh tân văn</i>


mà Phạm Duy Tốn làm biên tập và viết bài vào giai đoạn 1915. Báo <i>Lục tỉnh tân văn</i> do
một người Pháp là ông Francoise Henri Schneider làm chủ nhiệm và nhận kinh phí từ
chính quyền thuộc địa Đơng Dương. Các bài báo Phạm Duy Tốn viết cho tờ này, theo
Schafer, hầu hết thuộc loại xã luận với nhiều đề tài khác nhau: quan hệ Pháp - Việt, giải
thích tại sao Hoa kiều lại thành công hơn người Việt Nam trong việc kinh doanh, chỉ trích
những người Ấn Độ cho vay nặng lãi ở Nam Kì...



Bài báo thành cơng nhất của ơng có lẽ là bài <i>Hoạn nạn tương cứu</i> viết về trận lũ lụt ở Bắc
Kì vào các tháng 7 và 8 năm 1915 làm 60.000 người thiệt mạng vì chết đuối hoặc bệnh
dịch sau đó. Bài báo mô tả hậu quả của trận lũ và gây xúc động mạnh trong dân chúng ở
Nam Kì dẫn đến việc thành lập một hội từ thiện gây quỹ gửi cho người dân gặp nạn ở
miền bắc.


<b>[sửa] Cuộc bút chiến </b><i><b>Văn minh giả</b></i>


Ngày 4 tháng 11 năm 1915, trong bài xã luận <i>Văn minh giả</i> đăng trên <i>Lục tỉnh tân văn</i>,
Phạm Duy Tốn chỉ trích những kẻ học làm sang theo lối tây nhưng nghèo nàn trong văn
hóa. Bài báo khiến nhiều người miền nam nổi giận vì coi đó là lời ám chỉ họ và một cuộc
bút chiến nổ ra giữa Phạm Duy Tốn ở <i>Lục tỉnh tân văn</i> với biên tập của tờ Nơng cổ mín
<i>đàm </i>Nguyễn Kim Đính và các cây bút Lê Hoàng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt.


Cùng với tâm lý vùng miền, cuộc bút chiến do Phạm Duy Tốn mào đầu nhanh chóng trở
nên gay gắt và lan rộng. Một số học giả miền nam buộc tội trí thức Bắc Kì như Đặng
Thai Mai, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn là tay sai của người Pháp
và báo chí của họ là cơng cụ tun truyền để chống lại quan điểm yêu nước và cách
mạng. Tuy những lời cáo buộc đó khơng phải là hồn tồn vơ lý, nhưng trong thời kỳ sau
cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhiều học giả như Phạm Duy Tốn thật sự tin
tưởng ở việc duy trì mối quan hệ tốt đẹp với mẫu quốc Pháp để học hỏi và khai phá văn
minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

văn minh. Bài báo đề cập rộng đến các vấn đề vai trị và trách nhiệm của báo chí trong xã
hội, cách lựa chọn và đặt đề tài của nhà báo... Sau này, tác giả Hồng Sơn Cơng nhận
định: "<i>Trách nhiệm người làm báo</i> là một trong những bài viết đầu tiên ở Việt Nam bàn
về vai trò, trách nhiệm và đạo đức của người viết báo, được thể hiện dưới dạng nghị luận
với văn phong rất đặc trưng của Phạm Duy Tốn: khôi hài nhưng nghiêm túc, trang trọng
mà thiết tha".



<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Nhà văn hiện thực tiên phong</b>


<b>[sửa] Mở đầu trào lưu văn học mới</b>


Phạm Duy Tốn viết văn khơng nhiều. Tồn bộ văn nghiệp của ông chỉ để lại có bốn
truyện ngắn (xem danh mục tác phẩm), nhưng ông vẫn được đánh giá là một nhà văn có
ảnh hưởng quan trọng với văn học Việt Nam trong thời kỳ đầu hiện đại hóa. Giáo sư
Schafer, trong tiểu luận đã dẫn, cho rằng ông "thử nghiệm một lối văn mới với chủ nghĩa
hiện thực và phương pháp khách quan trở nên phổ biến ở Pháp thơng qua ngịi bút Guy
de Maupassant". Trước đó, văn học Việt Nam cịn xa lạ với những hình thức và cách thể
hiện văn chương hiện đại. Phạm Duy Tốn đã trở thành một trong những người tiên phong
mở lối cho giai đoạn thành tựu rực rỡ của nền văn học Việt Nam cách tân giai đoạn sau
này. Thay vì viết những tác phẩm văn xuôi theo khuôn khổ truyền thống, Schafer nhận
xét ông đã "mở ra cánh cửa sổ đến một thế giới khác, thế giới khơng chỉ bao gồm trí thức
và những tầng lớp trên, mà cả nông dân và những người kéo xe cần lao".


Các nhà phê bình thời bấy giờ thường so sánh Phạm Duy Tốn với Nguyễn Bá Học, một
nhà văn cùng thời cũng viết các truyện ngắn. Truyện của Nguyễn Bá Học, dù cũng được
coi là văn mới, nhưng vẫn được viết theo phong cách trang trọng và cổ điển. Như Thanh
Lãng đã chỉ ra, Nguyễn Bá Học muốn duy trì những nền nếp đạo đức Nho giáo cổ truyền
và cổ súy cho điều đó thơng qua các tác phẩm của mình, cịn Phạm Duy Tốn muốn cải
cách xã hội, nên các tác phẩm của ơng thường có khuynh hướng hịa nhập vào xã hội hiện
thực rất rõ ràng, sâu sắc.


<b>[sửa] Truyện ngắn </b><i><b>Sống chết mặc bay!</b></i>


<i>Sống chết mặc bay! là truyện ngắn đầu tay và nổi tiếng nhất của Phạm Duy Tốn, cũng là </i>
truyện ngắn đầu tiên của nền văn học mới Việt Nam, in trên báo <i>Nam Phong</i> tháng 12
năm 1918. Tác phẩm được giới thiệu một cách ấn tượng với người đọc: Dưới tiêu đề chữ
to MỘT LỐI VĂN MỚI và lời giới thiệu đặc biệt của Phạm Quỳnh, câu chuyện trải dài


suốt ba cột báo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Phạm Duy Tốn cũng đặc biệt thành cơng trong việc mơ tả hai hình ảnh tương phản đối
lập gay gắt: những người nông dân vất vả, hoảng hốt và hoàn toàn tuyệt vọng trước thiên
tai; còn viên quan sở tại an nhàn, hưởng thụ, mặc kệ số phận dân đen: <i>Than ôi! Cứ như </i>
<i>cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu </i>
<i>rầm rập thì đố ai bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu </i>
<i>mn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến mà chẳng động tâm, thương </i>
<i>xót đồng bào huyết mạch...</i>


Bùi Xuân Bào cho rằng Phạm Duy Tốn đã nhái lại truyện <i>Le partie de billard</i> của
Alphonse Daudet xuất bản năm 1873. Tác phẩm này tả lại cảnh viên tướng chỉ huy chơi
bi-a trong khi binh lính dầm mưa dãi gió ngồi mặt trận. Tuy nhiên, giáo sư Schafer
khẳng định nhiều khả năng <i>Sống chết mặc bay!</i> được lấy cảm hứng từ chính những trải
nghiệm của Phạm Duy Tốn với trận lũ lịch sử ở Bắc Kì mà ơng từng mơ tả trong bài báo
nổi tiếng <i>Hoạn nạn tương cứu</i>, chứ không phải là sự sao chép từ văn chương Pháp.
Truyện ngắn <i>Sống chết mặc bay</i> đã được đưa vào chương trình giảng dạy bộ môn văn học
ở cấp giáo dục phổ thông tại Việt Nam.


 bạn đọc cái ghi nhớ trong sách giáo khoa ý, dựa vào đấy và nội dung của văn bản
" sống chết mặc bay" sẽ trả lời đc thôi. sống chết mặc bay cũng k khác "sống chết
kệ mày đâu" =)) quan phụ mẫu có thái độ " sốg chết kệ mày"à, phản ánh thái độ
hiện thực của xã hội ta TK 20, quan phụ mẫu - quan cha mẹ của dân vậy mà coi
mạng dân như cỏ rác, chỉ nghĩ đến mình, khơng lo nghĩ cho con dân


o cách đây 11 tháng


<i><b>0%</b></i><b> 0 phiếu bầu </b>


o 0 Đánh giá: Giải đáp hay


o 0 Đánh giá: Giải đáp tồi
o Báo cáo vi phạm


 by OngDogan
Thành viên từ:
15 tháng 3 năm 2008
Tổng số điểm:
6056 (Cấp bậc 5)


o Thêm vào Danh bạ
o Chặn người này


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

ích kỷ và "sống chết mặc bay". Ở đó tác giả thể hiện nỗi đau, niềm chua xót khi
dân ko có 1 vị quan anh minh, thương dân...


Sống chết mặc bay (Khẩu ngữ): nói thái độ bỏ mặc một cách hồn tồn vơ trách
nhiệm


</div>

<!--links-->


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×