Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận Học Thuyết Giá Trị Thặng Dư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.71 KB, 21 trang )

Mục Lục.

I.Mở đầu.
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Học thuyết giá trị thặng dư là một trong ba đóng góp to lớn của C.Mác đối
với lịch sử xã hội loài người. Trong xu thế kinh tế thế giới dịch chuyển theo hướng
từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, học thuyết giá trị thặng dư vẫn
giữ nguyên giá trị. Bài viết tóm tắt những luận điểm cơ bản của C.Mác về học
thuyết giá trị thặng dư và làm rõ những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế tri thức,
trên cơ sở đó góp phần khẳng định giá trị của học thuyết giá trị thặng dư đối với sự
phát triển của nhân loại nói chung và trong nền kinh tế tri thức nói riêng.

1


Chính vì vậy,em xin chọn đề tài : “Vận dụng phương pháp luận của
học thuyết giá trị thăng dư trong q trình điều chỉnh các quan hệ lợi ích
kinh tế hướng đến xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
2.Đối tượng nghiên cứu.
Việc nghiên cứu các phương pháp, khi gạt bỏ mục đích và tính chất của
chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có thể vận
dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất
lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí
sản xuất.
Với tầm quan trọng như trên, con người phải được trang bị lý luận về
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, đặc biệt là phương pháp luận đó theoquan
điểm của triết học. Để hiểu đúng về phương pháp luận, chúng ta phải hiểu về khái
niệm phương pháp, phương pháp luận, phương pháp hệ; các cấp độ của phương
pháp và phương pháp luận; vai trò của phương pháp luận triết học.Mục đích cuối
cùng là hướng tới xã hội “dân chủ,công bằng,văn minh”


3.Phạm vi nghiên cứu.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên
cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương
thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát
của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các
nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi
trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố nền kinh tế quốc dân là là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2


4.Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp phân tích và tổng hợp chính trị
Phân tích là nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau bằng cách phân tích
chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối tượng. Tổng hợp là liên kết
từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân tích tạo ra một hệ thơng lý thuyết
mới đầy đủ và sâu sắc về đối tượng.
Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết của Đảng.
Phân loại là sắp xếp các tài liệu khoa học theo từng mặt, từng đơn vị, từng vấn
đề có cùng dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát triển Hệ thống hóa là sắp xếp
tri thức thành một hệ thống trên cơ sở một mơ hình lý thuyết làm sự hiểu biết về
đối tượng đầy đủ hơn.
Phương pháp mơ hình hóa
Là phương pháp nghiên cứu các đối tượng bằng xây dựng gần giống với đối
tượng, tái hiện lại đối tượng theo các cơ cấu, chức năng của đối tượng.
5.Kết cấu tiểu luận.
Bài tiểu luận của em gồm hai vân đề chính :



Lý luận của học thuyết Mác Lê Nin về hai phương pháp sản xuất giá trị



thặng dư.
Quan hệ lợi ích kinh tế trên nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Một số khuyến nghị để điều hòa các quan hệ lợi ích kinh tế trên cơ sở các



phương pháp luận của học thuyết giá trị thặng dư.
Do kiến thức và kinh nghiệm chưa nhiều, lại bị hạn chế về thời gian nên bài
làm không tránh khái những khiếm khuyết. Với tinh thần thực sự muốn hiểu biết
thêm về vấn đề này, muốn có nhiều kiến thức thực tế, em rất mong nhận được sự

3


quan tâm, trao đổi và góp ý của các thầy cơ giáo và các bạn để hồn hiện hơn nữa
bài làm cũng như kiến thức của mình.

II.Nội Dung.
CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ.
1.1.Bản chất và nguồn gốc giá trị thặng dư.
1.1.1.Bản chất.
Giá trị thặng dư chính là giá trị do cơng nhân làm th lao động sản sinh ra
vượt quá giá trị sức lao động của họ nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt hết. Đối với
hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải chi vào tư liệu sản xuất và mua sức lao động.

4



Mục đích khi chi tiền là nhằm thu được một số tiền dơi ra ngồi số tiền mà họ đã
chi trong q trình sản xuất. Số tiền dơi ra chính là giá trị thặng dư.
Như vậy phần giá trị dôi ra ngồi giá trị sức lao động do cơng nhân làm thuê
tạo ra và bị nhà tư bản chiếm hết được gọi là giá trị thặng dư.
1.1.2.Nguồn gốc của gia trị thặng dư.
Học thuyết giá trị thặng dư được hình thành trên cơ sở học thuyết giá trị lao động mà trực tiếp là việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa. Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý
nghĩa to lớn về mặt lý luận, đem đến cho lý thuyết giá trị - lao động một cơ sở
khoa học thực sự.
Quy luật giá trị thặng dư ra đời cùng với sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, tồn tại và phát huy tác dụng cùng với sự tồn tại và vận động của nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa.Quy luật giá trị thặng dư chi phối các quy luật kinh tế
khác, như: Quy luật lợi nhuận, quy luật lợi nhuận bình quân, quy luật lợi nhuận
siêu ngạch,…
Quy luật này quyết định tồn bộ q trình phát sinh, phát triển của chủ nghĩa
tư bản, đồng thời đây cũng là nguyên nhân làm cho mâu thuẫn cơ bản và nói chung
tồn bộ mâu thuẫn của xã hội tư bản ngày càng sâu sắc, tất yếu dẫn đến sự sụp đổ
của chủ nghĩa tư bản.
Khi nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác chỉ rõ giá trị thặng dư là
lao động không công của công nhân cho nhà tư bản chỉ được tạo ra trong q trình
sản xuất nhờ tính chất đặc biệt của loại hàng hoá sức lao động. Đồng thời C.Mác
khẳng định rằng: Sản xuất ra giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ
5


nghĩa tư bản. Quy luật giá trị thặng dư đòi hỏi sản xuất giá trị thặng dư ngày càng
nhiều cho các nhà tư bản bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm thuê trên cơ
sở mở rộng sản xuất và phát triển kỹ thuật. C. Mác chỉ ra có hai phương pháp sản

xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối, đồng thời chỉ ra sản xuất giá trị thặng
dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

1.2.Hai phương pháp sản xuất giá trị thăng dư.
Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có tính
chất dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường xun của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản ứng trước tối thiểu,
sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư tối đa; và trong chừng mực
mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động quá sức của những người cơng
nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể hiện ra trong cái nguyện vọng
muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định với những chi phí ít nhất về sức lực và
tư liệu, tức là một khuynh hướng kinh tế của tư bản dạy cho loài người biết chi phí
sức lực của mình một cách tiết kiệm và đạt tới mục đích sản xuất với một chi phí ít
nhất về tư liệu"
Hiện có 2 phương pháp chủ yếu để thu được giá trị thặng dư:


Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.



Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

6


1.2.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được từ việc kéo dài ngày
lao động vượt giới hạn thời gian lao động cần thiết. Ngày lao động kéo dài cịn thời
gian lao động cần thiết khơng đổi dẫn đến thời gian lao động thặng dư tăng lên.

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chính là kéo dài thời gian
lao động thặng dư trong khi năng suất, giá trị và thời gian lao động tất yếu không
đổi. Cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa chính là sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối được sử dụng phổ biến
trong giai đoạn đầu chủ nghĩa tư bản. Đây là thời điểm lao động còn ở trình độ thủ
cơng, năng suất lao động cịn thấp. Lúc này bằng lịng tham vơ hạn, các nhà tư bản
giở mọi thủ đoạn kéo dài ngày lao động nhằm nâng cao khả năng bóc lột sức lao
động cơng nhân làm thuê.
Tuy nhiên sức lực con người có hạn. Hơn nữa vì cơng nhân đấu tranh quyết
liệt địi rút ngắn ngày lao động nên các nhà tư bản không thể kéo dài ngày lao động
vô thời hạn. Nhưng ngày lao động cũng không được rút ngắn đến mức bằng thời
gian lao động tất yếu.
Một hình thức khác của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
chính là tăng cường độ lao động. Bởi vì tăng cường độ lao động cũng tương tự việc
kéo dài thời gian lao động trong ngày nhưng thời gian lao động cần thiết không đổi
1.2.2.Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được từ việc rút ngắn thời
gian lao động tất yếu dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Tăng năng suất lao
7


động xã hội mà đầu tiên là ở ngành sản xuất vật phẩm tiêu dùng làm cho giá trị sức
lao động giảm xuống. Từ đó thời gian lao động cần thiết cũng giảm.
Khi độ dài ngày lao động không đổi, thời gian lao động cần thiết giảm sẽ
tăng thời gian lao động thặng dư (thời gian sản xuất giá trị thặng dư tương đối cho
nhà tư bản). Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là rút ngắn thời gian
lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động. Từ đó tăng thời gian lao
động thặng dư lên trong điều kiện ngày lao động và cường độ lao động không đổi.
1.3.Quy luật giá trị thặng dư.

1.3.1.Nội dung quy luật.
Quy luật sản xuất giá trị thặng dư theo kinh tế chính trị Marx-Lenin là
một trong những quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Nội dung quy luật
này là sản xuất nhiều và ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư bằng cách tăng
cường bóc lột cơng nhân làm th. Nếu quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng
hóa là quy luật giá trị thì quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
là quy luật giá trị thặng dư.
Có thể thấy vì giá trị thặng dư là cội nguồn sinh ra sự giàu có, sung túc vì
xuất hiện giá trị mới, nên để duy trì và phát triển sự giàu có, dơi dư này, giai cấp tư
sản có xu hướng khơng ngừng sản xuất ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, sản
xuất với quy mô ngày càng lớn hơn trước. Những lợi tức, tiền bạc thu được đều
được đưa vào tái đầu tư, tái sản xuất, thuê mua nguyên vật liệu nhà xưởng để vận
hành tạo giá trị thặng dư.
Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản vì
theo kinh tế chính trị Mácxit nó quy định bản chất của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế của xã hội tư bản. Khơng có sản xuất giá
8


trị thặng dư thì khơng có chủ nghĩa tư bản. Theo Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư,
đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ở đâu có sản
xuất giá trị thặng dư thì ở đó có chủ nghĩa tư bản, ngược lại, ở đâu có chủ nghĩa tư
bản thì ở đó có sản xuất giá trị thặng dư. Lênin gọi quy luật giá trị thặng dư là quy
luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.
1.3.2.Ý nghĩa.
Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động
lực thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo sự tồn tại,
thúc đẩy sự vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản đồng thời nó làm cho mọi
mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc.
Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản:



Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động



Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.
Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Với

mục đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, các nhà tư bản cạnh
tranh với nhau, tiêu diệt lẫn nhau để có được quy mơ giá trị thặng dư lớn hơn, tỉ
suất giá trị thặng dư cao hơn.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu
nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Cho nên,
chính Mác chứ khơng phải ai khác, là một trong những người nghiên cứu sâu sắc
về kinh tế thị trường. Thực chất của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hố
phát triển ở trình độ cao. Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và hiện nay gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
9


nghĩa. Mặc dù nền kinh tế thị trường ở nước ta có tính đặc thù của nó, song đã là
sản xuất hàng hố thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng phải nói
đến giá trị và giá trị thặng dư. Điều khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế
khác nhau thì giá trị và giá trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Vì vậy,
việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
nghiên cứu những phạm trù, công cụ và việc sử dụng chúng trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ di sản lý luận của Mác là việc làm có nhiều
ý nghĩa thực tiễn.

Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ, nền sản xuất có tính chất xã hội hố ngày càng cao, mâu thuẫn giữa
tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
ngày càng gay gắt.

10


CHƯƠNG 2 : QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
2.1.Lợi ích kinh tế.
2.1.1.Khái niệm.
Lợi ích kinh tế trong tiếng Anh được gọi là Economic benefits.
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách
quan của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ
thống quan hệ sản xuất quyết định.
Mỗi một con người hay xã hội muốn tồn tại và phát triển thì nhu cầu của họ
phải được đáp ứng. Lợi ích và nhu cầu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Lợi ích
bắt nguồn từ nhu cầu và là cái để đáp ứng nhu cầu, nhu cầu làm nảy sinh lợi ích
2.1.2.Tính chất.
Dù cách phân chia có thể khác nhau nhưng các lợi ích kinh tế bao giờ cũng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: chúng cùng đồng thời tồn tại trong một hệ
thống, trong đó lợi ích kinh tế này là cơ sở, là tiền đề cho lợi ích kinh tế khác.
Chẳng hạn, có lợi ích kinh tế của người sản xuất, thì mới có lợi ích kinh tế của
người trao đổi, người tiêu dùng và ngược lại.
Mặt mâu thuẫn biểu hiện ở sự tách biệt nhất định giữa các lợi ích đó dẫn
đến xu hướng lấn át của lợi ích kinh tế này đối với lợi ích kinh tế khác.
Do đó, nó có thể gây nên những xung đột nhất định, ảnh hưởng tiêu cực đến các

hoạt động kinh tế - xã hội.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, thì các lợi ích kinh tế cũng mang
tính đối kháng, do đó, nó dẫn đến những cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa
11


các giai cấp.Trong thực tế, lợi ích kinh tế thường được biểu hiện ở các hình thức
thu nhập như: tiền lương, tiền công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuế, phí, lệ phí...
2.1.3. Vai trị của lợi ích kinh tế.
Trong hệ thống lợi ích của con người nói chung bao gồm lợi ích kinh tế,
chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội, thì lợi ích kinh tế giữ vai trị quyết định nhất,
chi phối các lợi ích khác.
Bởi vì, nó gắn liền với nhu cầu vật chất, nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất - là
nhu cầu đầu tiên, cơ bản nhất cho sự tồn tại và phát triển của con người, của xã
hội.
Đồng thời, khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì nó cũng tạo cơ sở, tiền đề
để thực hiện các lợi ích khác. Đời sống vật chất của xã hội được phồn thịnh, thì đời
sống tinh thần cũng mới được nâng cao.
Chính vì vậy, lợi ích kinh tế giữ vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất,
là cơ sở, là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của mỡi con người nói riêng, cũng
như xã hội nói chung. Lợi ích kinh tế là động lực của các hoạt động kinh tế, của sự
phát triển xã hội.
Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là chúng ta hạ thấp vai trị của lợi ích
chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội. Nhất là trong điều kiện mở rộng hợp tác, giao
lưu kinh tế với các nước khác, phải quan tâm chú trọng không chỉ đến lợi ích kinh
tế, mà cả lợi ích chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội.
2.2.Các kiểu quan hệ lợi ích kinh tế.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong sự biến đổi của lịch sử,
vai trò động lực của lợi ích được thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau, như: lợi ích
là cơ sở của mọi cuộc đấu tranh giai cấp, mà đấu tranh giai cấp thông qua cách

12


mạng xã hội được coi là động lực trực tiếp của lịch sử, lợi ích là động lực của quần
chúng nhân dân trong các cuộc cách mạng, cải biến xã hội… Xét dưới góc độ sản
xuất vật chất, lợi ích (trước hết là lợi ích kinh tế) là động lực thúc đẩy sản xuất phát
triển, tạo cơ sở nền tảng cho đời sống xã hội.
Tuỳ góc độ xem xét mà ta có thể phân chia thành các nhóm, các loại lợi ích
kinh tế khác nhau sau đây:
- Dưới góc độ khái quát nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tế thành: Lợi
ích kinh tế cá nhân, lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội.
- Dưới góc độ các thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với các thành
phần kinh tế đó.
- Dưới góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh tế của
người sản xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, thông qua hoạt động tìm kiếm lợi ích riêng
của các cá nhân theo nhiều hướng khác nhau đã làm xuất hiện "một số vơ tận
những lực giao nhau, một nhóm vơ tận những hình bình hành, vì sự đan chéo này
mà xuất hiện một hợp lực". Hợp lực đó đã làm cho "lực lượng sản xuất được nhân
lên gấp bội". Lực lượng sản xuất này là cơ sở của mọi biến đổi và phát triển của xã
hội. Đối với các cá nhân "lực lượng sản xuất" ấy biểu hiện như là một lực lượng xa
lạ, ở bề ngồi họ, vì bản thân sự hợp tác đó khơng xuất hiện một cách tự nguyện
mà là một cách tự nhiên, "lực lượng mà do đó họ không thể chế ngự được, và trái
lại, lực lượng ấy hiện đang trải qua một chuỗi những giai đoạn và trình độ phát
triển chẳng những độc lập với ý chí và hành động của lồi người mà trái lại cịn
điều khiển ý chí và hành động ấy".

13



2.3.Phương thức điều tiết lợi ích kinh tế.
Nền kinh tế của một quốc gia sẽ không thể "cất cánh" trừ phi nó có được
nền tảng là một cơ sở hạ tầng vững chắc. Vì thế, nhà nước phải đầu tư cơ sở hạ
tầng, ổn định nền kinh tế vĩ mô của đất nước. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường
là sự bất ổn định do các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế là điều mà
mọi nhà nước đều mong muốn vì nó có lợi cho tất cả mọi người. Do vậy, nhà nước
phải duy trì sự ổn định đó. Nhà nước sử dụng các cơng cụ, chính sách kinh tế vĩ
mơ để điều tiết nền kinh tế, sử dụng ngân sách để tiến hành đầu tư cơng cho các
cơng trình; xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng dựa trên căn cứ và tiêu chí kinh tế
thích hợp nhằm giảm thiểu những gánh nặng chi phí của ngân sách nhà nước và
của nền kinh tế; tiến hành việc kiểm sốt chi tiêu cơng và tiền vay của các tập đoàn
kinh tế nhà nước để duy trì sự ổn định nền kinh tế. Một thực tế hiện nay là các cơ
quan hoạch định chính sách của nhà nước ta phân quyền quá tản mạn nên khó thực
hiện được giải pháp đồng bộ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mơ.
Vì vậy, để bảo đảm việc điều tiết nền kinh tế được hiệu quả, đòi hỏi nhà nước phải
thực hiện những cải cách cơ bản để đơn giản hố bộ máy hành chính và phải tiến
hành quản lý, kiểm soát chặt chẽ đầu tư công. Với tư cách chủ đầu tư, nhà nước
hướng các chương trình đầu tư của mình vào mục tiêu tối đa hố lợi ích của quốc
gia.
Nhà nước sử dụng hệ thống thuế, luật pháp, điều lệ, mức hình phạt, thậm
chí truy tố trước pháp luật nhằm giảm thiểu ơ nhiễm hoặc tạo điều kiện để các tổ
chức xã hội thành lập các quỹ bảo vệ môi trường, môi sinh nhằm giám sát các hoạt
động của các doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường và khuyến nghị các biện
pháp sản xuất bảo đảm yếu tố bền vững. Ngoài ra, nhà nước sử dụng chính sách
quyền sở hữu cơng khai nguồn tài nguyên, bắt buộc các cá nhân, tổ chức sử dụng
nguồn tài nguyên gây ô nhiễm phải chịu chi phí theo giá thị trường. Các khoản
14


thuế hay biện pháp trợ cấp đều được coi là phương thức để nhà nước xử lý những

yếu tố ngoại vi. Do tồn bộ chi phí xã hội có ý nghĩa quan trọng quyết định sự
phân bố tài nguyên một cách hiệu quả, cịn những chi phí tư nhân chỉ quyết định
giá hàng hóa, nên vai trị của nhà nước là tạo ra sự cân bằng giữa cá nhân và xã hội
thông qua việc điều chỉnh sản xuất thừa hoặc tiêu dùng thừa vào chi phí ngoại vi.
Để thực hiện chức năng phân phối, nền kinh tế thị trường đòi hỏi một loạt
thể chế phát triển cao, trong đó có hệ thống luật pháp để chống gian lận bao gồm:
hệ thống có liên quan tới những quyền sở hữu, những điều luật về phá sản và khả
năng thanh toán, hệ thống tài chính với ngân hàng trung ương và các ngân hàng
thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm
ngặt…

15


CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH KINH TẾ
TRÊN CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ.
3.1.Mục tiêu.
Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách
mạng thực sự trong toàn bộ khoa học kinh tế, vũ trang cho giai cấp vơ sản thứ vũ
khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.
Song, ý nghĩa thực tiễn của học thuyết đó khơng phải chỉ là như thế. Ngày
nay, từ quan niệm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết này cịn có ý nghĩa quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, cần nghiên cứu kỹ để thấy được những điểm mới của học thuyết này
trong xã hội ngày nay và vận dụng học thuyết vào công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay
Quy luật giá trị thặng dư không những chỉ vạch rõ mục đích của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt mục đích như:

tăng cường bóc lột cơng nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động, kéo dài
ngày

lao

động,

tăng

năng

suất

lao

động



mở

rộng

sản

xuất.

Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư
bản, đó là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và
giai cấp công nhân.

16


3.2.Giải pháp.
3.2.1.Đối vơi nhà nuóc.
Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của Mác là cần thiết và có lợi cho sự
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là
nước tiểu nông, nghĩa là từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hóa, mặc dù có sản
xuất hàng hóa. Nhưng nền kinh tế nước ta là nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, do vậy “cách tổ chức của kinh tế xã hội” theo kiểu sản xuất hàng hóa cũng
mang tính q độ. Nghĩa là, trong cùng một nền kinh tế vừa có kinh tế hàng hóa vì
lợi ích của Nhân dân, vừa có kinh tế hàng hóa vì lợi ích của tư nhân. Nhưng dù là
nền kinh tế hàng hóa nào thì sản phẩm cũng đều mang hình thức giá trị thặng dư,
mặc dù chúng phản ánh những quan hệ xã hội đối lập nhau. Trong đó, giá trị thặng
dư phản ánh mối quan hệ bóc lột và bị bóc lột vẫn được coi là nhân tố “trợ thủ của
chủ nghĩa xã hội”, “xúc tiến chủ nghĩa xã hội”, là cái “có ích” và “đáng mong đợi”.
Vì thế, cốt lõi của vấn đề là phải tạo điều kiện môi trường cho sự gia tăng khối
lượng giá trị thặng dư toàn xã hội ngày càng lớn, tỷ suất ngày càng cao.
Điều đó cho thấy, trước hết, chính sách áp dụng phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Việc áp dụng lý luận giá trị thặng dư của C.Mác
vào quá trình phát triển kinh tế cho ta thấy: Muốn phát triển được nền kinh tế của
đất nước thốt khỏi tình trạng kém phát triển thì khơng thể khơng tiến hành cơng
cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tăng cường cải tiến khoa học kỹ
thuật, trình độ quản lý, trình độ chun mơn, tay nghề của người lao động, nâng
cao hiệu số sản xuất... Có thay đổi những yếu tố đó thì mới đem lại được năng suất
lao

động


cao

từ

đó

thu

được

nguồn

lợi

nhuận

lớn.

Ngày nay, trải qua thực tiễn, chúng ta ngày càng nhận thức rõ: “Sản xuất
17


hàng hóa khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền
văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng” [4, 97]. Thực tiễn
chứng minh, trong nền kinh tế thị trường thì thành phần kinh tế tư nhân có vai trị
rất to lớn, là động lực lớn cho nền kinh tế.
Ngày nay, từ quan điểm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết giá trị
thặng dư có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu, vận dụng học thuyết này ở nước ta
trở thành một việc làm cần thiết.
3.2.2. Đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế hang hóa.

Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù nền kinh tế hàng hóa ở nước ta có những đặc trưng riêng của nó, song đã là
sản xuất hàng hóa thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng phải nói
đến gái trị và giá trị thặng dư.
Điều khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau thì giá trị và
giá trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Do vậy, việc nghiên cứu tính phổ
biến và tính đặc thù của nền sản xuất hàng hóa tư bản, nghiên cứu những phạm trù,
quy luật và việc sử dụng chúng trong nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa từ di
sản lý luận của Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
Ngày nay, từ quan điểm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết giá trị
thặng dư có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu, vận dụng học thuyết này ở nước ta
trở

thành

một

việc
18

làm

cần


thiết.


Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc
dù nền kinh tế hàng hóa ở nước ta có những đặc trưng riêng của nó, song đã là sản
xuất hàng hóa thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến
gái trị và giá trị thặng dư. Điều khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác
nhau thì giá trị và giá trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Do vậy, việc
nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nền sản xuất hàng hóa tư bản, nghiên
cứu những phạm trù, quy luật và việc sử dụng chúng trong nền kinh tế hàng hóa tư
bản chủ nghĩa từ di sản lý luận của Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa thực tiễn ở
Việt Nam hiện nay.

19


III.Kết Luận.
Mỡi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế cơ bản phản ánh mối
quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo C. Mác, quy luật
giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Khơng có sản xuất gái trị thặng dư thì khơng có chủ nghĩa tư bản.Nội dung
của quy luật giá trị thặng dư là sản xuất nhiều và ngày càng nhiều hơn giá trị thặng
dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường bóc lột cơng nhân làm th.
Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động
lực thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo sự tồn tại,
thúc đẩy vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản; đồng thời nó làm cho mọi mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ
nghĩa




bản

bằng

một



hội

cao

hơn.

Quy luật giá trị thặng dư khơng những chỉ vạch rõ mục đích của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt mục đích như:
tăng cường bóc lột cơng nhân làm th bằng cách tăng cường độ lao động, kéo dài
ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.

Giáo trình Những nguyên lý của chủ nghĩa Mac – Lenin, Bộ giáo dục và
Đạo tạo, NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015


2.

Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lenin. Phần 1 của tác giả
Nguyễn Minh Tuấn

3.

Bộ giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam (dành cho sinh viên Đại học, cao đẳng khối không chuyên
ngành Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2013

4.

Giáo trình Lí luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Trường đại học Luật Hà
Nội, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017

5.

Lê Văn Lực, Trần văn Phòng (đồng chủ biên), Một số chuyên đề về Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lenin (tập 1), NXB Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2008.

21



×