Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Hiệu quả giáo dục sức khỏe về tự theo dõi huyết áp và tuân thủ điều trị cho người bệnh tăng huyết áp tại các trạm y tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.01 MB, 138 trang )

.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TIÊU CẨM ANH

HIỆU QUẢ GIÁO DỤC SỨC KHỎE VỀ TỰ THEO DÕI
HUYẾT ÁP VÀ TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ CHO NGƢỜI BỆNH
TĂNG HUYẾT ÁP TẠI CÁC TRẠM Y TẾ

Ngành: ĐIỀU DƢỠNG
Mã số: 8720301

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƢỠNG

Hướng dẫn Khoa học: PGS.TS. BS. ĐỖ VĂN DŨNG
GS.TS. LORA CLAYWELL

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

.


.

LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu, kết quả trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa có cá
nhân nào cơng bố trong bất kỳ cơng trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

TIÊU CẨM ANH

.


.

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Nghĩa của chữ viết tắt

Chữ viết tắt
BHYT

Bảo hiểm y tế

BV

Bệnh viện

ĐT

Điều trị

ESH


European Society of Hypertension (Hiệp hội tăng
huyết áp châu Âu)

GDSK

Giáo dục sức khỏe

HA

Huyết áp

HAMT

Huyết áp mục tiêu

ISH

International Society of Hypertension (Hiệp hội
tăng huyết áp thế giới)

JNC

Joint National Committee (Liên Ủy ban Quốc gia
Hoa Kỳ)

NVYTTB

Nhân viên y tế thôn bản

QL


Quản lý

TBMMN

Tai biến mạch máu não

THA

Tăng huyết áp

TYT

Trạm y tế

TT-GDSK

Truyền thông – Giáo dục sức khỏe

WHO

World Health Oganization – Tổ chức Y tế Thế
giới

YTNC

Yếu tố nguy cơ

.



.

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Danh mục các chữ viết tắt

i

Mục lục

ii

Danh mục bảng

iii

Danh mục sơ đồ

iv

Đặt vấn đề

1

Chƣơng 1. Tổng quan tài liệu


4

1.1 Một số vấn đề về tăng huyết áp

4

1.2. Thực trạng quản lý tăng huyết áp

17

1.3. Khung lý thuyết của nghiên cứu

35

Chƣơng 2. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu

37

2.1. Đối tượng nghiên cứu

37

2.2. Thời gian nghiên cứu

37

2.3. Địa điểm nghiên cứu

37


2.4. Phương pháp nghiên cứu

38

2.5. Các biến số và chỉ số nghiên cứu

38

2.6. Tiêu chí đánh giá chỉ số nghiên cứu

39

2.7. Phương pháp thu thập số liệu

40

2.8. Phương pháp xử lý số liệu

41

2.9. Phương pháp khống chế sai số

42

2.10. Đạo đức trong nghiên cứu

42

Chƣơng 3. Kết quả nghiên cứu


43

3.1. Kết quả đánh giá trước can thiệp

43

3.1.1. Đặc điểm người bệnh trong mẫu

43

3.1.2. Kiến thức và thực hành theo dõi huyết áp

46

.


.

3.1.3. Thực hành dùng thuốc hạ áp

52

3.1.4. Thực hành tuân thủ điều trị

53

3.2. Kết quả đánh giá sau can thiệp

54


3.2.1. Kiến thức và thực hành theo dõi huyết áp

54

3.2.2. Thực hành dùng thuốc hạ áp

68

3.2.3. Thực hành tuân thủ điều trị

69

3.3. Đánh giá kết quả can thiệp

71

3.3.1. Sự thay đổi về kiến thức và thực hành theo dõi huyết áp

71

3.3.2. Sự thay đổi về thực hành dùng thuốc hạ áp

81

3.3.3. Sự thay đổi về thực hành tuân thủ điều trị

83

Bàn luận


85

Kết luận

103

Đề xuất – Kiến nghị

106

Tài liệu tham khảo
Phụ lục

.


.

DANH MỤC BẢNG
Tên bảng

Trang

Bảng 1.1 Phân độ tăng huyết áp theo WHO/ISH năm 2003

4

Bảng 1.2 Phân độ tăng huyết áp theo JNC VII năm 2003


5

Bảng 1.3 Phân độ tăng huyết áp theo Quyết định số 3192 /QĐ-BYT

5

ngày 31/8/2010
Bảng 1.4. Thay đổi lối sống trong điều trị tăng huyết áp *

10

Bảng 1.5 Phân tầng nguy cơ tim mạch

12

Bảng 3.1. Tóm tắt một số đặc điểm nhân khẩu học

43

Bảng 3.2. Thời gian phát hiện tăng huyết áp

45

Bảng 3.3. Các bệnh mắc kèm theo

45

Bảng 3.4. Kiến thức về theo dõi huyết áp hằng ngày

46


Bảng 3.5. Quan niệm về điều trị tăng huyết áp

48

Bảng 3.6. Thực hành về theo dõi huyết áp hằng ngày

50

Bảng 3.7. Tỷ lệ NB dùng thuốc hạ HA và được nhắc nhở uống thuốc

52

Bảng 3.8. Phân loại mức độ tuân thủ điều trị của NB

53

Bảng 3.9. Kiến thức về theo dõi huyết áp hằng ngày sau can thiệp

54

Bảng 3.10. Quan niệm về điều trị tăng huyết áp sau can thiệp

57

Bảng 3.11. Thực hành về theo dõi huyết áp hằng ngày sau can thiệp

62

Bảng 3.12. Tỷ lệ NB dùng thuốc hạ HA và được nhắc nhở uống thuốc


68

sau can thiệp
Bảng 3.13. Phân loại mức độ tuân thủ điều trị của NB sau can thiệp

69

Bảng 3.14. Sự thay đổi kiến thức về theo dõi huyết áp hằng ngày

71

Bảng 3.15. Sự thay đổi quan niệm về điều trị tăng huyết áp

73

Bảng 3.16. Sự thay đổi về thực hành về theo dõi huyết áp

77

Bảng 3.17. Sự thay đổi về thực hành dùng thuốc hạ HA và được nhắc

81

.


.

nhở uống thuốc

Bảng 3.18. Sự thay đổi về tuân thủ điều trị của NB

83

.


.

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

Tên sơ đồ, bản đồ

Trang

Sơ đồ 1.1 Khung lý thuyết của mơ hình chăm sóc mãn tính (CCM)

36

Biểu đồ 3.1. Sự thay đổi kiến thức về theo dõi huyết áp hằng ngày

73

Biểu đồ 3.2. Sự thay đổi quan niệm về điều trị tăng huyết áp

77

Biểu đồ 3.3. Sự thay đổi về thực hành về theo dõi huyết áp

81


Biểu đồ 3.4. Sự thay đổi về thực hành dùng thuốc hạ HA và được

83

nhắc nhở uống thuốc
Biểu đồ 3.4. Sự thay đổi về tuân thủ điều trị của NB

84

.


.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng huyết áp (THA) là một vấn đề sức khỏe phổ biến ở cộng đồng, có
xu hướng ngày càng tăng mặc dù đã có nhiều biện pháp can thiệp. Trong
những năm gần đây, tăng huyết áp đã trở thành nguy cơ gây bệnh tật và tử
vong hàng đầu trên phạm vi toàn cầu. Năm 2014, Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) cơng bố tỷ lệ chung trên tồn thế giới là 22%, có xu hướng tăng ở các
nước đang phát triển, tỷ lệ ở người da đen cao hơn các sắc tộc khác[8]. Tại
Việt Nam năm 2014, tỷ lệ tăng huyết áp chung trong toàn dân số là
22,2%[60], theo kết quả điều tra quốc gia năm 2015 thì tỷ lệ tăng huyết áp ở
nhóm 30 – 69 tuổi là 30,6%[34]. Tăng huyết áp khơng được kiểm sốt chặt
chẽ sẽ gây nhiều hậu quả nghiêm trọng cho người bệnh như tai biến mạch
máu não, nhồi máu cơ tim, suy tim, suy thận, mù lòa và tử vong, gánh nặng
cho gia đình và xã hội.
Ở Việt Nam, Chương trình phịng chống tăng huyết áp trong cộng đồng
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2012, với mục tiêu là phát hiện

sớm tăng huyết áp, xây dựng mơ hình quản lý tăng huyết áp tại tuyến cơ sở,
50% số người tăng huyết áp được phát hiện sẽ điều trị đúng phác đồ của Bộ Y
tế,giàm tỷ lệ tai biến và tử vong do tăng huyết áp[33]. Một số can thiệp tại
Việt Nam đã chọn cách tiếp cận như: truyền thông giáo dục sức khỏe, cải
thiện việc phát hiện sớm, tăng cường khả năng tiếp cận điều trị tăng huyết áp
cho bệnh nhân và xây dựng mơ hình quản lý điều trị tại y tế tuyến cơ sở, một
số can thiệp dùng thuốc tập trung lựa chọn các thuốc ít tác dụng phụ, điều trị
người bệnh dựa trên phân tầng các yếu tố nguy cơ tim mạch,… đã mang lại
những cải thiện đáng kể, đặc biệt đã cải thiện tỷ lệ người tăng huyết áp được
chẩn đoán sớm hơn, dễ dàng tiếp cận điều trị tại Trung tâm Y tế (TTYT) và
Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) huyện. Tất cả các mô hình trên đều tác động vào
việc nâng cao chất lượng, hoạt động chủ động từ phía cơ quan và cán bộ y tế.

1
.


.

Nhưng cho đến nay, mơ hình với chiến lược can thiệp tăng cường sự tham gia
của chính người bệnh vào việc tự theo dõi bệnh tật của chính họ tại cộng
đồng, phát hiện dấu hiệu nguy cơ và nâng cao chất lượng tương tác giữa thầy
thuốc và người bệnh vẫn là một cách tiếp cận mới mẻ tại Việt Nam[17].
Chương trình mục tiêu quốc gia phịng chống bệnh THA được triển
khai trên toàn quốc. Trà Vinh là một trong những tỉnh phía Nam được triển
khai khám sàng lọc THA năm 2012. Đặc điểm là vùng sâu, gần biển, có nhiều
tập qn và thói quen ăn uống đặc thù nên mơ hình bệnh tật cũng mang nhiều
nét riêng[7]. Trà Vinh là tỉnh duyên hải thuộc đồng bằng sông Cửu Long, giao
thông đường thủy và kinh tế biển, nơng nghiệp có điều kiện phát triển. Theo
thống kê của Vụ Địa phương 3-Ủy ban Dân tộc và Miền Núi năm 2012, khu

vực Tây Nam Bộ có khoảng gần 1,2 triệu đồng bào Khmer sinh sống, trong
đó tỉnh Trà Vinh chiếm tỷ lệ cao nhất 30,46%. Tổng dân số tỉnh Trà Vinh
năm 2012 khoảng 1.218.400 người, trong đó có 365.520 đồng bào Khmer
(30,0%)[2]. Theo nghiên cứu Cao Mỹ Phượng năm 2006 điều tra trên 1.290
người trên 40 tuổi tại Trà Vinh, tỷ lệ tăng huyết áp là 26,7%[6] Nguyễn Y
Khoa năm 2010 điều tra trên 532 bệnh nhân trên 40 tuổi tăng huyết áp đang
điều trị tại 4 trạm y tế thuộc 4 xã thuộc tỉnh Trà Vinh, tỷ lệ bệnh nhân tăng
huyết áp độ 1 là 44,92%, độ 2 là 22,93%, độ 3 là 7,33%, tỷ lệ bệnh nhân có
huyết áp bình thường là 8,08%. Tỷ lệ bệnh nhân đạt huyết áp mục tiêu là
24,8%[29]. Như vậy tỷ lệ bệnh tăng huyết áp tại tỉnh Trà Vinh đang có chiều
hướng gia tăng. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh Bình về đánh giá hiệu
quả quản lý điều trị người bệnh tăng huyết áp tại trạm y tế xã An Quảng Hữu
năm 2016, qua kết quả quản lý, điều trị 144 người tiền tăng huyết áp và tăng
huyết áp , người bệnh tăng huyết áp với mức huyết áp <120/80 trước và sau
can thiệp là 4,2% và 23,0%. Tỷ lệ tăng huyết áp độ II đo vào thời điểm tháng
9/2016 là 4,1%[2]. Các nghiên cứu tại địa phương chưa hệ thống một cách

2
.


.

đầy đủ và đặc hiệu về tình hình tăng huyết áp của tỉnh. Các mơ hình với
những chiến lược can thiệp tăng cường sự tham gia của chính người bệnh vào
việc tự theo dõi bệnh tật của chính họ tại cộng đồng, phát hiện dấu hiệu nguy
cơ và nâng cao chất lượng tương tác giữa thầy thuốc và người bệnh vẫn chưa
được áp dụng và nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Đặc biệt tại các Trạm
y tế - nơi quản lý những người bệnh tăng huyết áp đang điều trị tại cộng đồng
chưa thực hiện bất kỳ nghiên cứu nào cũng như can thiệp hay ứng dụng các

mô hình can thiệp truyền thơng – giáo dục sức khỏe. Để có cơ sở khoa học
cung cấp thơng tin cho ngành y tế Trà Vinh xây dựng các giải pháp và chính
sách y tế, các chương trình truyền thơng – giáo dục sức khỏe, đem lại hiệu
quả nhằm chăm sóc dự phịng bệnh khơng lây đang có xu hướng tăng, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu: “Hiệu quả giáo dục sức khỏe về tự theo dõi huyết
áp và tuân thủ điều trị cho ngƣời bệnh tăng huyết áp tại các trạm y tế
trên địa bàn tỉnh Trà Vinh” với các mục tiêu cụ thể như sau:
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Đánh giá thực trạng tự theo dõi huyết áp tại nhà và tuân thủ điều trị thuốc
cho người bệnh tăng huyết áp đang được theo dõi và điều trị tại các Trạm Y tế
trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
2. Đánh giá hiệu quả giáo dục sức khỏe về tự theo dõi huyết áp tại nhà và tuân
thủ điều trị thuốc cho người bệnh tăng huyết áp đang được theo dõi và điều trị
tại các Trạm Y tế trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.

3
.


.

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Một số vấn đề về tăng huyết áp:
1.1.1 Định nghĩa tăng huyết áp:
Tăng huyết áp là tình trạng huyết áp (HA) thường xuyên tăng trên mức
bình thường. Theo WHO và Bộ Y tế, tăng huyết áp khi huyết áp tâm thu ≥
140mmHg và/ hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90mmHg[6], [59].
1.1.2. Phân loại tăng huyết áp:
Tăng huyết áp nguyên phát (vô căn) chiếm 90-95%, là dạng khơng tìm

được ngun nhân, được xem là bệnh đa yếu tố, trong đó có sự tương tác giữa
yếu tố di truyền và mơi trường như ăn mặn, béo phì, uống rượu, stress, tuổi,
giới, chủng tộc, thuốc lá, bất dung nạp glucose[9].
Tăng huyết áp thứ phát, tỷ lệ khoảng 5-10%, cần được xác định ngun
nhân vì có thể điều trị khỏi cho người bệnh. Nguyên nhân tăng huyết áp có
thể xếp thành các nhóm chính gồm tăng huyết áp do thuốc, do hẹp van động
mạch chủ, do thận, do nội tiết. Các nguyên nhân khác như thai kỳ, bệnh tạo
keo [9].
1.1.3. Phân độ tăng huyết áp:
Phân độ tăng huyết áp có nhiều thay đổi trong những năm gần đây.
Theo WHO/ISH năm 2003 phân độ tăng huyết áp thành 3 độ[58].
Bảng 1.1 Phân độ tăng huyết áp theo WHO/ISH năm 2003
Phân độ THA

Huyết áp
Tâm thu (mmHg)

Tâm trương (mmHg)

THA độ I

140-159

90-99

THA độ II

160-179

100-109


THA độ III

≥ 180

≥ 110

4
.


.

Liên Uỷ ban quốc gia Hoa Kỳ (JNC) phân độ tăng huyết áp[54] như
sau:
Bảng 1.2 Phân độ tăng huyết áp theo JNC VII năm 2003
Phân độ THA

Huyết áp
Tâm thu (mmHg)

Tâm trương (mmHg)

< 120

< 80

Tiền THA

120 - 139


80 - 89

THA độ I

140-159

90-99

THA độ II

≥ 160

≥ 100

Bình thường

Theo Quyết định số 3192/QĐ-BYT ngày 31 tháng 08 năm 2010 của Bộ
trưởng Bộ Y tế về hướng dẫn chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp, việc phân
độ này giống với những hướng dẫn phân độ tăng huyết áp năm 2003 và 2007
ESH/ESC [5]. Việc phân độ huyết áp bao gồm huyết áp tối ưu, huyết áp bình
thường, tiền tăng huyết áp, tăng huyết áp độ 1, tăng huyết áp độ 2, tăng huyết
áp độ 3. Nếu huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương khơng cùng mức phân
độ thì chọn mức cao hơn để xếp loại[5].
Bảng 1.3 Phân độ tăng huyết áp theo Quyết định số 3192 /QĐ-BYT
ngày 31/8/2010
Phân độ HA
HA tối ưu

HA tâm thu


HA tâm trương

(mmHg)

(mmHg)

< 120



< 80

HA bình thường

120 – 129

và/hoặc

80 – 84

Tiền THA

130 – 139

và/hoặc

85 – 89

THA độ 1


140 – 159

và/hoặc

90 – 99

THA độ 2

160 – 179

và/hoặc

100 – 109

5
.


.

THA độ 3
THA tâm thu đơn

≥ 180

và/hoặc

≥ 110


độc ≥ 140



< 90

* Trong phạm vi nghiên cứu này chúng tôi sử dụng cách phân loại theo
Quyết định số 3192 /QĐ-BYT ngày 31/8/2010.
1.1.4. Triệu chứng của tăng huyết áp:
Hầu hết người bệnh tăng huyết áp thường khơng có triệu chứng và
khơng được phát hiện trong nhiều năm. Đau đầu có thể xảy ra khi huyết áp
tâm thu trên 200mmHg hoặc huyết áp tăng rất nhanh như trong tăng huyết áp
ác tính. Những hậu quả của tăng huyết mãn tính biểu hiện chủ yếu thông qua
các tổn thương của hệ tim mạch, mạch máu não và bệnh động mạch vành[5]
Các triệu chứng rất mơ hồ, thơng thường bệnh nhân có cảm giác nhức
đầu, nhức vùng chẩm, nhiều nhất vào buổi sáng, chóng mặt, đỏ mặt, mỏi gáy.
Nặng hơn nữa, bệnh nhân có thể có triệu chứng của tổn thương cơ quan đích
gồm mắt mờ, chảy máu cam, tiểu máu, đau ngực do thiếu máu cơ tim, các
triệu chứng của thiếu máu não, ngưng thở và đau do bóc tách động mạch chủ,
phình động mạch[5]
1.1.5. Chẩn đoán tăng huyết áp:
Chẩn đoán xác định tăng huyết áp qua trị số huyết áp[5].
Đo huyết áp đúng quy trình: chỉ số huyết áp tâm thu ≥140mmHg
và/hoặc huyết áp tâm trương ≥90mmHg
Và/Hoặc hiện tại đang dùng thuốc điều trị tăng huyết áp.
Và/Hoặc đã được chẩn đoán tăng huyết áp trước đây.
1.1.6. Điều trị tăng huyết áp:
Bao gồm điều trị dùng thuốc và điều trị không dùng thuốc.
Điều trị dùng thuốc Hiện nay có nhiều thuốc điều trị tăng huyết áp, tuy
nhiên theo khuyến cáo JNC VII, năm nhóm thuốc được sử dụng đầu tay là lợi


6
.


.

tiểu, chẹn β, ức chế calci, ức chế men chuyển và ức chế thụ thể angiotensin II.
Việc phối hợp với điều trị khơng dùng thuốc giúp huyết áp kiểm sốt được tốt
hơn[8]
1. Quản lý người bệnh ngay tại tuyến cơ sở (trạm y tế xã/phường) để
đảm bảo bệnh nhân được uống thuốc đúng, đủ và đều; đồng thời giám sát quá
trình điều trị, tái khám, phát hiện sớm các biến chứng và tác dụng phụ của
thuốc.
2. Chọn thuốc khởi đầu: Tăng huyết áp độ 1: có thể lựa chọn một trong
các thuốc sau: lợi tiểu nhóm thiazide liều thấp; ức chế men chuyển; chẹn kênh
calci loại tác dụng kéo dài; chẹn beta giao cảm (nếu khơng có chống chỉ
định).
Tăng huyết áp từ độ 2 trở lên: nên phối hợp 2 loại thuốc (lợi tiểu, chẹn
kênh calci, ức chế men chuyển, ức chế thụ thể AT1 của angiotensin II, chẹn
bêta giao cảm).
Từng bước phối hợp các thuốc hạ huyết áp cơ bản, bắt đầu từ liều thấp,
ví dụ như lợi tiểu thiazide (hydrochlorothiazide 12.5mg/ngày), chẹn kênh
calci dạng phóng thích chậm (nifedipine retard 10mg/ngày), ức chế men
chuyển (enalapril 5mg/ngày, perindopril 5 mg/ngày).
Nếu chưa đạt được huyết áp mục tiêu: Cần chỉnh liều tối ưu hoặc bổ
sung thêm một loại thuốc khác cho đến khi đạt huyết áp mục tiêu.
Nếu vẫn không đạt huyết áp mục tiêu hoặc có tác dụng phụ: cần chuyển
tuyến trên hoặc gửi khám chuyên khoa tim mạch.
Mục tiêu cuối cùng của điều trị tăng huyết áp là giảm tỷ lệ biến chứng

bệnh tim mạch, não, thận và giảm tỷ lệ tử vong. Cần đánh giá bệnh nhân và
xác định bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ nào để quyết định điều trị. Kế hoạch
điều trị bao gồm theo dõi huyết áp và các yếu tố nguy cơ, điều chỉnh lối sống

7
.


.

và điều trị bằng thuốc. Mục tiêu điều trị đạt “huyết áp mục tiêu” và giảm tối
đa “nguy cơ tim mạch”.
“Huyết áp mục tiêu” cần đạt là <140/90mmHg và thấp hơn nữa nếu
người bệnh vẫn dung nạp được. Nếu nguy cơ tim mạch từ cao đến rất cao thì
huyết áp mục tiêu cần đạt là <130/80mmHg. Khi điều trị đã đạt huyết áp mục
tiêu, cần tiếp tục duy trì phác đồ điều trị lâu dài kèm theo việc theo dõi chặt
chẽ, định kỳ để điều chỉnh kịp thời[5]
Điều trị không dùng thuốc: Điều trị không dùng thuốc – điều chỉnh lối
sống là một biện pháp điều trị hữu hiệu khi được sự hợp tác của bệnh nhân
người nhà. Thích nghi với lối sống khỏe mạnh là việc cần thiết để giảm huyết
áp và phòng ngừa các biến chứng tim mạch. Sự thay đổi lối sống được áp
dụng cho tất cả người bệnh.
Giảm ăn mặn: Muối trong khẩu phần ăn nên giảm 100mmol/ngày
(2,4gram muối). 75% được cung cấp từ thức ăn, nên khuyên bệnh nhân tránh
dùng thực phẩm đóng hộp, thức ăn chế biến sẵn cũng như hạn chế sử dụng
nước chấm khi ăn[7].
Hạn chế rượu: Lượng rượu chuẩn có thể uống trong ngày khoảng 15ml
rượu wisky, 150ml rượu vang hoặc 1 lon bia. Lượng rượu khuyên dùng cho
bệnh nhân tăng huyết áp là 60 ml rượu wisky, 300ml rượu vang hoặc 720ml
bia trong 1 ngày[9].

Giảm ăn dầu mỡ: Giảm thức ăn có mỡ bão hịa cholesterol. Các mỡ bão
hịa làm tăng LDL-C, có nhiều trong thịt, mỡ động vật, dầu dừa, dầu cọ. Chất
bão hòa nên < 7% tổng calo ăn vào. Lượng cholesterol nên < 200mg/ngày[7].
Giảm stress: Stress có thể gây tăng huyết áp, tăng nhịp tim. Khuyên
người bệnh có những phút thư giãn trong cuộc sống để giảm căng thẳng: nghỉ
ngơi, đọc sách báo, đi bộ, tập yoga, giúp đỡ người khác.

8
.


.

Tăng hoạt động thể lực: Hoạt động thể lực giúp người bệnh kiểm soát
tốt huyết áp, cải thiện nồng độ cholesterol, duy trì mức đường huyết, tăng oxy
đến não và các cơ quan trong cơ thể. Có thể khởi đầu nếu chưa có thói quen
tập luyện, từ 10 phút đi bộ trong ngày đến 30 phút đi bộ trong ngày. Vấn đề
cơ bản là tăng sự vận động cơ thể, các hoạt động này rất đa dạng như đị bộ,
làm cơng việc nhà, đi thang bộ thay vì thang máy. Tuy nhiên, sự tập luyện thể
lực phải phù hợp với tình trạng sức khỏe bệnh nhân. Các nghiên cứu cho thấy
vậy động thể lực như chạy chậm hay bơi lội giảm được tần suất bệnh tăng
huyết áp từ 28 – 35% trên 12.000 người Hà Lan theo dõi trong 1 năm[7].
Ngưng hút thuốc lá: Đây là biện pháp hữu hiệu nhất và ít tốn kém nhất.
Nhưng thực tế việc bỏ thuốc lá rất khó, trừ khi có sự động viên thường xuyên
của thầy thuốc. Kế hoạch bỏ hút thuốc dần dần và những biện pháp điều trị
thay thế bằng nicotin dưới dạng khác như kẹo gum, dạng dán da, dạng xịt và
dạng hít. Khi bệnh nhân đang tập ngưng thuốc lá, khuyên họ tăng vận động
thể lực và giảm các thức ăn giàu năng lượng để tránh sự lên cân. Bỏ thuốc lá,
tránh xa khói thuốc giúp cải thiện huyết áp, giảm biến cố mạch vành, đột quỵ,
mạch máu ngoại biên[7].

Giảm cân nếu thừa cân: Nên giữ chỉ số khối cơ thể trong khoảng 18 –
22,9 kg/m2. Sự tăng cân làm gia tăng tần suất bệnh tăng huyết áp cũng như
đái tháo đường. Khuyên bệnh nhân thực hiện đều đặn vận động thể lực, dùng
chế độ ăn có năng lượng thấp và có theo dõi cân nặng. Hầu hết các nghiên
cứu ở người tăng huyết áp và béo phì đều cho thấy giảm huyết áp tâm thu
ngay cả ở mức độ giảm cân ít[7].

9
.


.

Bảng 1.4. Thay đổi lối sống trong điều trị tăng huyết áp *
Thay đổi

Khuyến cáo

HA tâm thu
giảm **

Giảm cân

Duy trì cân nặng bình thường (BMI 18,5 – 5 – 20mmHg/
24,9 kg/m2)

10

kg


cân

nặng giảm
Chế độ ăn

Ăn nhiều trái cây, rau và chế phẩm bơ sữa ít 8 – 14mmHg
béo với lượng mỡ bão hòa thấp

Giảm
muối
Hoạt
thể lực

ăn Na < 100mmol/ngày (2,4 gam Na hay 6gam 2 – 8mmHg
NaCl)
động Vận động thể lực đều đặn ( đi bộ nhanh ít 4 -9mmHg
nhất 30 phút/ngày, hầu hết các ngày trong
tuần)

Tiết chế rượu ≤ 2/ngày đối với nam và ≤ 1/ngày đối với nữ 2 – 4mmHg
(30 ml Ethanol, 720ml bia, 300ml rượu vang
hay 90ml whisky
* : để giảm nguy cơ tim mạch toàn bộ, ngừng hút thuốc lá
** : hiệu quả của việc áp dụng các thay đổi trên phụ thuộc vào thời gian và
liều lượng, và có thể rất tốt cho một số người.

10
.



.

1.1.7. Biến chứng bệnh tăng huyết áp:
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng về điều trị
tăng huyết áp cho biết giảm huyết áp từ 10 – 15mmHg sẽ làm giảm 1/3 tai
biến mạch vành và tử vong tim mạch qua 5 năm theo dõi. Tăng huyết áp
thường kết hợp với bệnh mạch vành, bệnh mạch máu não, suy tim và tử vong
sớm. Ngoài ra, tăng huyết áp cũng kết hợp với suy thận, bệnh mạch máu
ngoại biên, phình động mạch chủ, sa sút trí tuệ, rung nhĩ. Những biến chứng
này có ảnh hưởng lớn đến người bệnh, gây tàn phế và trở thành gánh nặng về
tinh thần cũng như vật chất của gia đình bệnh nhân và xã hội [43].
Một số biến chứng chính của tăng huyết áp[43] gồm:
Các biến chứng về tim: Cơn đau thắt ngực, Nhồi máu cơ tim, suy tim
Các biến chứng tại não: Xuất huyết não, nhũn não, bệnh não do tăng
huyết áp
Các biến chứng về thận: Đái ra protein, phù, suy thận
Các biến chứng về mắt: Mờ mắt, xuất huyết, xuất tiết và phù gai thị.
Các biến chứng về mạch máu: Phình hoặc phình tách thành động mạch,
các bệnh động mạch ngoại vi. Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ lớn cho bệnh
tim mạch, 69% bệnh nhân nhồi máu cơ tim có tăng huyết áp, 77% bệnh nhân
bị đột quỵ có tăng huyết áp, 74% bệnh nhân bị suy tim mãn tính có tăng huyết
áp và trong 60% bệnh nhân động mạch ngoại biên có tăng huyết áp [5]. Trong
các nghiên cứu gần đây cũng cho biết, tăng huyết áp tâm thu và tâm trương
đều là những yếu tố nguy cơ cho bệnh mạch vành và đột quỵ, nguy cơ của
huyết áp tâm thu lớn hơn so với huyết áp tâm trương. Ở những người độ tuổi
trên 50, huyết áp tâm thu trên 140mmHg được xem là yếu tố nguy cơ cho
bệnh tim mạch lớn hơn huyết áp tâm trương. Gần đây người ta nhận thấy tăng
huyết áp tâm thu đơn thuần làm tăng nguy cơ nhiều hơn cho bệnh nhân, đặc
biệt là đột quỵ. Hơn nữa, áp lực mạch máu tăng là yếu tố dự báo có giá trị
11

.


.

nguy cơ động mạch vành. Những nguyên nhân có thể của nguy cơ bị tăng
huyết áp tâm thu đơn thuần bao gồm gia tăng lực tải, một phần do phải duy trì
một áp lực mạch rộng. Các động mạch bị xơ cứng hơn tạo ra một sóng dội, là
song làm tăng tải tâm thu của tim[5].
Bảng 1.5 Phân tầng nguy cơ tim mạch[6]

Bệnh cảnh

Bình

Tiền

THA

THA

THA

thường

THA

Độ 1

Độ 2


Độ 3

Khơng có yếu tố nguy cơ

Nguy cơ

tim mạch nào

thấp

Có từ 1-2 yếu tố nguy cơ Nguy cơ Nguy cơ
tim mạch (YTNCTM)
Có ≥ 3 YTNCTM hoặc hội
chứng chuyển hóa hoặc tổn
thương cơ quan đích hoặc
đái tháo đường
Đã có biến cố hoặc có bệnh
tim mạch hoặc có bệnh
thận mạn tính

thấp

thấp

Nguy cơ
trung

trung
bình


rất cao

cơ cao

trung

trung



bình

bình

cao

cao

cao

Nguy cơ Nguy cơ Nguy cơ Nguy cơ
rất cao

Nguy

Nguy cơ Nguy cơ Nguy

Nguy cơ Nguy cơ Nguy cơ
cao


bình

Nguy cơ

rất cao

rất cao

Nguy


Nguy

cao

2003, tăng huyết áp là nguyên nhân hàng đầu (10%) gây suy tim tại cộng
đồng ở người lớn Việt Nam. 46% bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp được điều
trị tại Viện Tim mạch (2005) có liên quan với tăng huyết áp và hơn 1/3 bệnh

.

rất

cao

Theo điều tra của Viện Tim mạch tại 4 tỉnh phía Bắc Việt Nam năm

12


rất

rất


.

nhân tai biến mạch máu não điều trị tại khoa thần kinh, bệnh viện Bạch Mai
(2003) có nguyên nhân là tăng huyết áp[43].
1.1.8. Các yếu tố ảnh hƣởng đến chỉ số huyết áp:
Huyết áp thường không ổn định do ảnh hưởng của nhiều yếu tố, hiểu
biết những yếu tố này giúp nghiên cứu lựa chọn đúng thời gian, không gian
lấy chỉ số huyết áp nhằm chẩn đốn chính xác về bệnh, tránh yếu tố gây
nhiễu.
Huyết áp thay đổi theo thời điểm Ban đêm trong lúc ngủ, huyết áp giảm
và thấp nhất vào khoảng 3 giờ sáng do giãn nhịp tim, lưu lượng máu, dãn
mạch phủ tạng. Các biến đổi này có liên quan đến giảm trương lực giao cảm,
phó giao cảm. Gần sáng huyết áp tăng dần lên, trong ngày huyết áp dao động
nhẹ và tăng cao hơn vào khoảng 9-12 giờ trưa và cuối buổi chiều. Điều này
được ghi nhận nhờ vào máy đo huyết áp tự động liên tục suốt 24 giờ trong
ngày[22]. Thức giấc tạm thời làm huyết áp tăng nhẹ, đến khi ngủ thì huyết áp
giảm. Lúc này hoạt động của thần kinh giao cảm là thấp nhất.
Huyết áp thay đổi theo thời tiết, khí hậu: Một nghiên cứu tại Anh của
tác giả Richard Mitchell năm 2002, thực hiện theo dõi một năm 5.663 người
từ 18 tuổi trở lên (2.564 nam, 3.099 nữ), cho thấy người thường xun tiếp
xúc với khí hậu lạnh có mức huyết áp tâm trương tăng lên đến 1,45 lần và
tăng huyết áp tâm thu lên 1,25 lần. Khí hậu lạnh, các mạch máu ngoại biên co
lại để giảm sự thải nhiệt, giữ thân nhiệt nên huyết áp tăng. Ngược lại, khí hậu
nóng, mạch ngoại biên giãn ra nhằm tăng sự thải nhiệt để điều hịa thân nhiệt,
do đó huyết áp giảm xuống[60].

Huyết áp thay đổi theo sự vận động: Huyết áp tăng, giảm tùy cường độ
vận động của cơ thể, cả lao động chân tay và lao động trí óc, khi cơ thể tăng
cường độ hoạt động là tăng nhu cầu oxy và chất dinh dưỡng. Để đảm bảo cho
hoạt động đó yêu cầu tim phải hoạt động nhiều bằng cách tăng tần suất và

13
.


.

cung lượng tim để đưa máu đến các bộ phận nhiều hơn. Do đó, khi hoạt động
nhiều thì huyết áp tăng lên, khi nghỉ ngơi huyết áp trở lại bình thường, khi lao
động trí óc căng thẳng liên tục kéo dài huyết áp có thể tăng cao. Nếu ở người
có huyết áp cao trước đó thì nguy cơ dẫn đến tai biến mạch máu
14 não nhiều hơn. Theo mức vận động thể lực và cả mức lao động trí óc, khi
có gắng sức thì huyết áp tăng cao[5].
Huyết áp thay đổi theo trạng thái tâm lý: Các yếu tố tâm lý mà chủ yếu
là các kích xúc (stress) tâm lý khi xảy ra cấp tính thì làm huyết áp tăng lên. Lo
lắng, sợ, đau là những stress về mặt cảm xúc kích thích hệ giao cảm làm tăng
khả năng mắc tăng huyết áp.
Huyết áp thay đổi theo tư thế: Ở tư thế đứng, 400-800 ml máu dồn
xuống vùng thấp của cơ thể, làm giảm khoảng 20% lưu lượng máu tĩnh mạch
về tim. Ở người bình thường, lưu lượng tim giảm kích thích phản xạ áp lực
hành tủy làm huyết áp vẫn giữ được như cũ nhờ co mạch ngoại biên. Tư thế
hạ huyết áp được định nghĩa là giảm huyết áp tâm thu ≥20 mmHg hoặc huyết
áp tâm trương ≥10 mmHg trong vòng 3 phút đứng. Tư thế đứng làm tăng tiết
Restinin và Angiotensine II. Khi chuyển từ nằm sang đứng, huyết áp tăng nhẹ
10-20 mmHg để đảm bảo cung cấp máu tốt hơn cho các bộ phận trong cơ thể.
Nếu khơng tựa lưng, huyết áp tâm trương có thể cao hơn 6 mmHg. Bắt chéo

chân có thể làm tăng huyết áp tâm thu lên 2-8 mmHg. Vị trí của cánh tay rất
quan trọng khi đo ở tư thế ngồi. Sự khác biệt này có thể do sự tác dụng của áp
lực thủy tĩnh và khoảng 2 mmHg cho mỗi 2,54 cm trên hoặc dưới mức
tim[23].
1.1.9. Một số yếu tố nguy cơ liên quan đến tăng huyết áp:
Tuổi và giới có mối liên quan mật thiết đến tăng huyết áp. Tất cả chúng
ta đều biết rằng người lớn tuổi có nguy cơ mắc bệnh và tử vong do những
bệnh có liên quan đến THA cao hơn những người trẻ tuổi. Mặc dù THA tâm

14
.


.

trương giảm nhẹ dần khi vượt qua độ tuổi 65 - 70, HA tâm thu lại tiếp tục
tăng so với tuổi đời. Cùng với đời sống kinh tế được cải thiện, tuổi thọ trung
bình ngày một cao, tổng số người cao tuổi trên thế giới là 810 triệu vào năm
2012 và đến năm 2015 ước tính sẽ tăng lên 2 tỷ người cao tuổi[28]. Một số
nghiên cứu cho rằng vai trò của di truyền chi phối khoảng 30-40% tăng huyết
áp, vai trò của di truyền thấy rõ hơn khi theo dõi huyết áp của các cặp song
sinh cùng trứng so sánh với các cặp song sinh khác trứng. Tăng huyết áp gặp
ở người da đen nhiều hơn người da trắng[61].
Thói quen sống tĩnh tại ít vận động thể lực: Theo nghiên cứu của một
số tác giả, thói quen sống tĩnh tại rất nguy hại đối với hệ tim mạch. Ngược lại,
tăng cường vận động thể lực vừa sức và đều đặn lại có tầm quan trọng đặc
biệt đối với người cao tuổi. Vận động thể lực bao gồm các hoạt động thường
ngày và luyện tập thể dục thể thao. Thể dục thể thao đối với người cao tuổi
không phải nhằm mục đích làm cơ thể nở nang mà nhằm tác dụng đối với
chuyển hóa và đối với hệ thần kinh trung ương. Vận động thể lực đúng mức

đều đặn được coi như một liệu pháp hiện đại để dự phòng THA, không vận
động được coi là nguyên nhân của 5-13% các trường hợp THA hiện nay[30].
Hoạt động thể lực là việc sử dụng lực của hệ cơ xương dẫn đến tiêu thụ năng
lượng nhiều hơn lúc nghỉ ngơi. Hoạt động thể lực như tập thể dục 30 phút đều
đặn mỗi ngày giúp làm giảm huyết áp tâm thu 4-9 mmHg, phịng ngừa một số
bệnh mạn tính và cải thiện chất lượng sống rõ rệt[27].
Chế độ ăn nhiều muối là nguyên nhân chính gây tăng huyết áp, làm
tăng nguy cơ đột quỵ, bệnh tim và bệnh thận. Các thử nghiệm cho thấy rằng
tiêu thụ trên 14gram muối /ngày gây tăng huyết áp. Trong khi mức tiêu thụ
dưới 1gram muối /ngày sẽ gây giảm huyết áp động mạch, việc giảm mức độ
trung bình lượng muối trong chế độ ăn từ 5 gram đến 2,5 gram/ngày vẫn còn
đang bàn luận. Hạn chế muối trong khẩu phần ăn hàng ngày là một trong

15
.


.

những biện pháp đề phòng tăng huyết áp và là cách điều trị mà khơng cần
dùng thuốc. Trên tồn cầu, hàng năm khoảng 1,7 triệu ca bệnh tim mạch tử
vong nguyên nhân do lượng muối Na dư thừa. Tiêu thụ Na cao > 2 gram/ngày
(tương đương 5 g muối/ngày) góp phần làm tăng huyết áp và tăng nguy cơ
bệnh tim và đột quỵ. Muối được sử dụng như một thứ gia vị tại nhiều nơi trên
thế giới. Hầu hết mọi người tiêu thụ quá nhiều muối trung bình 9-12 g/ngày
gấp hai lần mức tối đa đề nghị của Tổ chức Y tế thế giới. Muối ăn ít hơn 5
gam/ngày ở người lớn giúp giảm huyết áp và nguy cơ mắc bệnh tim mạch,
đột quỵ và đau tim mạch vành. Muối hoặc Na tiêu thụ trong chế độ ăn quá
mức là nguyên nhân quan trọng gây bệnh tăng huyết áp. Giảm lượng muối ăn
cũng là một trong những biện pháp hiệu quả chi phí hầu hết các nước thực

hiện cải thiện kết quả sức khỏe dân số. Ước tính khoảng 2,5 triệu ca tử vong
có thể ngăn ngừa mỗi năm nếu tiêu thụ muối toàn cầu giảm xuống mức đề
nghị. Các nước khu vực Đông Nam Á tiêu thụ muối ở mức hơn hai lần mức
khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới. Giảm lượng muối ăn là điều cần thiết
để đạt được những mục tiêu toàn cầu giảm 25% tỷ lệ tử vong do các bệnh
không truyền nhiễm năm 2025[27].
Vấn đề lạm dụng rượu bia: WHO đã khuyến cáo: Rượu làm THA và
đó là YTNC của tai biến mạch não, thường thấy phối hợp với bệnh tim, loạn
nhịp tim, tăng xuất huyết não[5]. Uống nhiều rượu bia là yếu tố nguy cơ của
tăng huyết áp, có thể gây đề kháng với điều trị tăng huyết áp và là yếu tố nguy
cơ của tai biến mạch máu não, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, xơ gan, hội
chứng dạ dày. Nhưng nếu uống rượu ở mức vừa phải có lợi cho phòng chống
bệnh tim mạch, nhất là loại rượu vang đỏ[5]. Trong thực tế, việc loại
bỏ thói quen uống nhiều rượu cũng là một vấn đề khó.
Hút thuốc lá bao gồm hút thuốc điếu có đầu lọc, hút thuốc lào hoặc hút
thuốc giồng. Thuốc lá có chất nicotin kích thích thần kinh giao cảm, kích

16
.


.

thích co mạch gây tăng huyết áp. Hút một điếu thuốc lá, huyết áp tâm thu tăng
lên 11 mmHg và huyết áp tâm trương tăng 9 mmHg kéo dài 20 - 30 phút.
Thuốc lá làm tăng nhịp tim và chất CO trong khói thuốc lá làm giảm cung cấp
oxy mơ tế bào, cùng với áp lực dòng máu tăng làm tổn thương theo tế bào nội
mạc động mạch, tạo điều kiện xơ vữa động mạch hình thành[4]. Hút thuốc lá
thường gây ra chứng xơ vữa động mạch và những người hút thuốc lá cao
huyết áp có nguy cơ cao phát triển các dạng tăng huyết áp nặng, bao gồm tăng

huyết áp ác tính và tái huyết mạch, có thể từ chứng xơ vữa động mạch
nhanh[48]. Theo tác giả Nguyễn Lân Việt tỷ lệ THA có thói quen hút thuốc
lá có nguy cơ mắc bệnh THA cao gấp 1,45 lần không hút thuốc lá[11]. Khói
thuốc gây tăng huyết áp cấp tính và tăng huyết áp dao động, hút thuốc còn
giảm tác dụng của thuốc điều trị[25].
Thừa cân béo phì: Người có BMI cao hơn sẽ có tỷ lệ tăng huyết áp cao
hơn. Các chuyên gia tư vấn của Tổ chức Y tế thế giới kết luận rằng người
châu Á thường có tỷ lệ phần trăm chất béo trong cơ thể cao hơn so với người
da trắng ở cùng độ tuổi, giới tính và BMI [59]. Đinh Văn Thức (2009) nghiên
cứu hoạt động khám chữa bệnh tại 10 trạm y tế xã huyện
An Dương, Hải Phịng kết luận người THA ở nhóm thừa cân (70%) cao hơn ở
nhóm khơng thừa cân (40%) với p<0,05 [13]. Người béo phì có khối lượng tổ
chức mỡ tăng, lòng động mạch mở rộng, lưu lượng máu trong hệ thống tuần
hồn tăng do đó nhịp tim tăng gây THA.
1.2. Thực trạng quản lý tăng huyết áp:
1.2.1. Thực trạng quản lý tăng huyết áp trên thế giới:
Tần suất THA trong cộng đồng càng gia tăng và hiện tại đang ở mức
rất cao, đặc biệt ở các nước phát triển. Tại các nước đang phát triển có hình
thái bệnh tật chuyển đổi từ bệnh nhiễm trùng sang các bệnh khơng lây truyền
là chính. Một nghiên cứu ở châu Phi năm 2006 xác định tỷ lệ hiện nhiễm và

17
.


×