Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

KHẢO SÁT SỰ TIẾP NHẬN VĂN HỌC PHÁP TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 111 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọ đề tài
Văn hóa Việt Nam nói chung và Văn học học Việt Nam nói riêng, trong
tiến trình lịch sử của mình đã có những cuộc tiếp xúc, ảnh hưởng lớn, hoặc
trực tiếp hoặc gián tiếp với văn hóa, văn học nước ngồi. Trong q trình tiếp
xúc ấy, văn hóa - văn học Việt Nam đã tiếp nhận, chắt lọc tinh hoa của nhân
loại để tự làm phong phú bản sắc văn hóa riêng của dân tộc.
Trong suốt hành trình dài hơn mười thế kỷ phát triển của văn hóa – văn
học Việt Nam, phải kể đến hai cuộc tiếp xúc lớn với những ảnh hưởng vơ
cùng quan trọng:
- Một của văn hóa phương Đơng, mà chủ yếu là văn hóa Trung Hoa từ
thế kỷ XIX trở về trước.
- Hai là văn hóa phương Tây, mà chủ yếu là văn hóa Pháp từ nửa cuối
thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX. Đây là cuộc tiếp xúc đã tạo nên
một sự chuyển biến mạnh mẽ, đưa nền văn hóa – văn học Việt Nam chuyển
mình từ một nền văn hóa – văn học thuộc phạm trù văn hóa phương Đơng cổ
truyền, sang một nền văn hóa – văn học hiện đại chịu sự ảnh hưởng của tư
tưởng văn hóa phương Tây.
Trong cơng cuộc tiếp nhận những kinh nghiệm và thành tựu của văn hóa
– văn học phương Tây để hiện đại hóa nền văn hóa – văn học Việt Nam ở chặng
đường những năm cuối thế kỷ XIX – đầu XX, công cuộc đầu thuộc về những
tên tuổi lớn như Pétrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyến Bá Học,
Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Paulus Huỳnh Tịnh Của…Đó
là những người thuộc tầng lớp trí thức Tây học đầu tiên của Việt Nam, với tinh
thần cầu thị, tư tưởng tiến bộ và hơn hết là tình thần yêu nước và ý thức dân tộc,
đã tự nguyện là những người đi tiên phong trong công cuộc tiếp nhận, truyền bá
những tư tưởng văn hóa – văn học văn minh của phương Tây, góp phần khơng
nhỏ vào cơng cuộc chấn hưng, hiện đại hóa văn hóa – văn học dân tộc.

1



Một trong những nhân vật xứng đáng được lịch sử văn học Việt Nam
cơng nhận có cơng trong cơng cuộc chấn hưng hiện đại nói trên đó là nhà văn
hóa, nhà báo, nhà văn, nhà giáo, học giả Phạm Quỳnh. Trần Văn Chánh, trong
Lời giới thiệu Phạm Quỳnh và Thượng Chi văn tập vào tháng 7 năm 2005,
đã viết về trường hợp Phạm Quỳnh như sau :
“ Trong lịch sử văn học Việt Nam thời kỳ cận – hiện đại, Phạm Quỳnh
có lẽ là một trong những nhân vật nổi bật nhưng lại có vẻ gây nhiều cuộc
tranh luận với những ý kiến đánh giá khác nhau nhất. Nói như vậy, dù tán
thành hay phản đối, hoặc giữ thái độ chiết trung, mặc nhiên mọi người đã
thừa nhận vai trò không thể xem thường của nhân vật này trong bối cảnh lịch
sử văn hóa cụ thể nhất định” [3,9].
Bằng tài năng và sở học uyên bác, bằng sự kiên trì và cẩn trọng trong
khoa học và đặc biệt là bằng tình u tha thiết với văn hóa, văn học nước nhà,
Phạm Quỳnh đã đóng góp một sự nghiệp trước tác khá đồ sộ . Tạp chí Nam
Phong trong mười bảy năm tồn tại, ấn hành được 210 số, riêng Phạm Quỳnh
đã đóng góp có tới chục ngàn trang viết, trải rộng ra trên hầu khắp mọi lĩnh
vực, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, triết học, giáo dục đến văn chương, ngơn
ngữ,…Cùng với sự đóng góp lớn lao ấy, Phạm Quỳnh xứng đáng được thừa
nhận là một trong những người có cơng lớn trong thời kỳ đầu xây dựng và
phát triển của nền báo chí và văn học quốc ngữ nước nhà.
Ngay trước năm 1945, tên tuổi của Phạm Quỳnh đã được nhắc đến
một cách trang trọng trong một số cơng trình nghiên cứu có giá trị như Phê
bình và cảo luận của Thế Sơn, Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng
Hàm, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan…Ở miền Nam trước năm 1975,
trong một số sách văn học sử tiêu biểu của các tác giả Phạm Thế Ngũ, Thanh
Lãng…Tác giả Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong cũng được giới thiệu khá
chi tiết qua hàng trăm trang sách với tất cả khía cạnh phức tạp của vấn đề.
Năm 1936, cũng ở miền Nam, diễn ra cuộc tranh luận với tên gọi Vụ án truyện


2


Kiều hết sức kịch liệt và kéo dài mà giáo sư Nguyễn Văn Trung đã tập hợp
thành một “hồ sơ”.
Tuy nhiên trong suốt một thời gian khá dài, vì những lý do khác nhau,
vấn đề Phạm Quỳnh vẫn chưa thực sự được tìm hiểu, nghiên cứu một cách
đầy đủ xứng tầm với sự đóng góp của ơng với nền văn hóa – văn học nước
nhà. Thời gian gần đây, tư tưởng đổi mới tư duy do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận thức và đánh giá lại một cách
khách quan hơn đối với một số vấn đề trong lịch sử văn hóa – văn học nước
nhà. Phạm Quỳnh và sự nghiệp của ông đã được đặt ra và đánh giá lại trong
tình hình chung ấy.
Trong điều kiện như vậy, nghiên cứu để có cái nhìn tồn diện, khách
quan và khoa học về sự nghiệp văn hóa, văn học của Phạm Quỳnh nói chung
cũng như Nam Phong tạp chí nói riêng, với những đóng góp thiết thực, nền
móng cho sự nghiệp phát triển của văn học Việt Nam. Đó cũng là lý do mà
chúng tôi chọn đề tài : KHẢO SÁT SỰ TIẾP NHẬN VĂN HỌC PHÁP
TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ làm đối tượng nghiên cứu khoa học để
thực hiện luận văn.
Nghiên cứu về Phạm Quỳnh nói chung và Nam Phong tạp chí nói riêng
là một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp. Bởi lẽ như trên đã nói, sự nghiệp
văn hóa – văn học của Phạm Quỳnh khá đồ sộ, trải rộng trên hầu khắp các
lĩnh vực. Dẫu có nhiều tham vọng, nhưng vì nhiều lí do, người viết chỉ có thể
tiến hành nghiên cứu và hệ thống lại một khía cạnh nhỏ trong sự nghiệp của
Phạm Quỳnh như đã xác định ở trên, với mong muốn góp thêm tiếng nói vào
việc nghiên cứu sự nghiệp của học giả này.
2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiên với mục đích khảo sát sự tiếp nhận văn học Pháp

trên Nam Phong tạp chí. Nhằm tìm hiểu một cách có hệ thống sự tiếp nhận
văn học Pháp và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của văn học Việt
3


Nam, cụ thể được thể hiện trên Nam Phong tạp chí. Trên cơ sở đó, đánh giá
một cách đúng đắn và khách quan những đóng góp cho nền văn học nước
nhà của Phạm Quỳnh.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn qua việc tập
trung khảo sát sự tiếp nhận văn học Pháp trên Nam Phong. Cụ thể là hệ thống
lại những đóng góp của các tác giả tên tuổi, đặc biệt là học giả Phạm Quỳnh
trong việc đổi mới tư tưởng cũng như đặt nền móng cho sự phát triển nền văn
học Việt Nam sau này. Tuy Phạm Quỳnh có những đóng góp to lớn, song
ơng khơng phải tồn bộ tờ báo. Từ góc nhìn khác, cho tới nay, Phạm Quỳnh
vẫn là một “tên tuổi nhạy cảm”, nên chúng tơi lựa chọn giải pháp trung hịa,
nghiên cứu Nam Phong và những đóng góp to lớn của Phạm Quỳnh.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu của đề tài là khảo sát sự tiếp nhận văn học Pháp
trên Nam Phong tạp chí. Phạm Quỳnh là đại diện một trong số những người
đi tiên phong trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả luận văn sẽ nêu lên ý kiến đánh
giá về những đóng góp của Phạm Quỳnh đối với văn hóa – văn học nước nhà,
chủ yếu ở giai đoạn những năm đầu thế kỷ XIX.
Trong q trình nghiên cứu và xử lí các u cầu khoa học do đề tài đặt
ra, chúng tôi chủ yếu sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê, là phương pháp vay mượn từ một ngành khoa
học chuyên biệt của toán học – ngành thống kê học, được chúng tôi sử dụng
như một công cụ hỗ trợ cho việc thu thập, tổ chức và phân tích các tài liệu, ý
kiến có liên quan đến việc tìm hiều sự tiếp nhận của văn học Pháp và ảnh

hưởng của nó đến các sáng tác của những học giả cận hiện đại. Cụ thể được
thể hiện trên Nam Phong tạp chí. Qua đó chúng tơi có thể rút ra được những
kết luận khách quan về sự ảnh hưởng của văn học Pháp trong quá trình phát
triển văn học Việt Nam.
4


- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ các nét tương đồng cũng
như dị biệt về nội dung và hình thức giữa văn học trung đại và hiện đại. Làm
rõ được sự khác biệt của tình hình báo chí trước và từ khi Nam Phong tạp chí
ra đời để làm rõ được vai trò của Phạm Quỳnh và Nam Phong đối với tiến
trình phát triển của văn học và báo chí thời kỳ đầu.
- Phương pháp hệ thống được dùng để hệ thống hóa các cơng trình trước
tác của Phạm Quỳnh, đặc biệt là Nam Phong tạp chí. Từ đó có những đánh
giá, kết luận về đóng góp của Phạm Quỳnh trong một bối cảnh đặc biệt của
lịch sử văn hóa dân tộc
- Ngồi ra chúng tơi còn sử dụng các thao tác quen thuộc như liệt kê,
phân tích, tổng hợp v.v…
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.
4.1. Ý nghĩa khoa học.
Đề tài đóng góp một số ý kiến đánh giá về sự tiếp nhận văn học Pháp
trên Nam Phong tạp chí, mà Phạm Quỳnh là chủ bút. Đánh giá bao gồm cả
ưu điểm cũng như hạn chế. Những ý kiến mà tác giả thực hiện đề tài, đề xuất,
nếu được thẩm định khách quan và có giá trị, thì sẽ là một đóng góp vào nỗ
lực chung nghiên cứu sự nghiệp khoa học của Phạm Quỳnh. Ghi nhận vai trò
của học giả - nhà văn này đối với giai đoạn phát triển quan trọng của văn hóa
– văn học Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp thêm một cái nhìn hệ thống về quá
trình tiếp nhận văn học Pháp cũng như sự đổi thay tiến bộ của văn học Việt

Nam cụ thể trên Nam Phong tạp chí. Ngồi ra kết quả nghiên cứu này cũng
có thể được sử dụng ở cấp học trung học phổ thông và đại học như một tài
liệu tham khảo bổ ích, phục vụ cho giảng dạy và học tập văn học Việt Nam
giai đoạn đầu thế kỷ XX.
5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
5


Nam Phong tạp chí hay vấn đề Phạm Quỳnh và sự nghiệp của ông đã
được các nhà nghiên cứu quan tâm ngay từ khi ơng cịn sống.
Trong tác phẩm Phê bình cảo luận, xuất bản năm 1933, tác phẩm được
xem như một cơng trình lý luận phê bình hiện đại đầu tiên của văn học Việt
Nam, Thiếu Sơn đã có những nhận định hết sức xác đáng và toàn diện cả về
tư tưởng chính trị cũng như về sự nghiệp văn hóa của Phạm Quỳnh. Đánh giá
đóng góp của Phạm Quỳnh về văn hóa, ở phần thứ nhất, mục Phê bình nhân
vật của tác phẩm này, Thiếu Sơn viết :
“…những cơng trình về văn học, triết học của Âu châu và nhất là
của nước Pháp, ông diễn dịch ra quốc văn rất nhiều, mà dịch thật đúng, thật
hay, vừa biết tôn trọng cái nguyên ý của tác giả lại vừa lựa theo cái giọng
điệu của quốc văn.
Bởi mưu cái công cuộc mới mẻ đó, mà cái tiếng nói bản quốc cịn
nghèo nàn túng thiếu q, nên ơng lại phải lo tài bồi cho quốc văn, mượn
những danh từ triết học khoa học của tiếng Tàu, tiếng Nhật cho nhập tịch
vào quốc ngữ để có thể diễn thuật được những cái mà tiếng Nôm ta không đủ
để gọi ra…( …)
Cái công phu trứ tác của ơng, ích cho quốc dân khơng phải là
nhỏ mà ảnh hưởng đối với nhân chúng cũng thiệt là sâu. ( …)
Cái cây bút quốc văn của ông Phạm Quỳnh nó đã ảnh hưởng
đến thế mà cái cây but Pháp văn của ơng nó cũng danh giá lắm thay ( ….)
Mà đọc văn ơng, tất cũng có thể biết thêm được cái tinh thần

bổn sắc của nước Việt Nam nó cũng khơng đến nỗi hèn kém gì.” [18, 59, 60].
Theo đánh giá của Thiếu Sơn trên đây, thì đóng góp của Phạm Quỳnh
đối với văn hóa nước nhà quả là khơng nhỏ. Sự đóng góp ấy trải rộng ra trên
nhiều lĩnh vực : Ngôn ngữ, trước tác, học thuật…
Về sự nghiệp chính trị của Phạm Quỳnh, ơng Thiếu Sơn cũng có những
nhận xét khá khách quan và xác đáng. Theo ơng, việc Phạm Quỳnh tham gia
làm chính trị, nhằm thực hiện cái ước muốn về chủ trương lập hiến của mình,
6


cho dù “ Cái chương trình lập hiến của ơng nó cũng có giá trị lắm chớ!” [19,
61], là khơng phù hợp với hoàn cảnh của đất nước lúc bấy giờ. Đây là điều
đáng tiếc, nếu khơng nói là sai lầm. Bản thân Phạm Quỳnh cũng chịu khơng
ít hệ lụy từ hành động chính trị đó của mình. Tuy nhiên động cơ, mục đích
của hành động ấy cũng khơng ngồi tấm lòng thiết tha với đất nước, với dân
tộc. Chiêu tuyết cho Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn viết: “Căn cứ vào cái quan
niệm riêng của ông , ông khởi thảo ra một cái chương trình Lập hiến mà cho
rằng nếu thiệt hành ra thì sẽ thỏa mãn được cái tư tưởng quốc gia của dân
tộc An Nam và định yên được thời cục” [18, 61].
Năm 1941, trong Việt Nam văn học sử yếu, phần chương trình dành
cho Năm thứ ba, ban Trung học Việt Nam, Dương Quảng Hàm đã viết hẳn
một chương về Phạm Quỳnh với kết luận rất xác đáng về những đóng góp
của học giả – nhà văn này đối với nền quốc văn như sau:
“Ơng Vĩnh có cơng diễn dịch những tiểu thuyết và kịch bản của Âu
Tây và phát biểu những cái hay trong tiếng Nam ra; Ơng Quỳnh thì có cơng
dịch thuật các học thuyết tư tưởng của Thái Tây và luyện cho tiếng Nam có
thể diễn đạt được các ý tưởng mới. Đối với nền văn hóa cũ của nước ta thì
ơng Vĩnh hay khảo cứu những phong tục tín ngưỡng của dân chúng, mà
ơng Quỳnh thường nghiên cứu đến chế độ, văn chương của tiền nhân. Văn
ơng Vĩnh có tính cách giản dị của một nhà văn bình dân, văn ơng Quỳnh

có tính cách trang nghiêm của một học giả. Tuy văn nghiệp của mỗi
người có tính cách riêng, nhưng hai ơng đều có công với việc thành lập
quốc văn vậy.” [8, 403].
Năm 1942, khi xuất bản bộ sách Nhà văn hiện đại, ở phần Các nhà văn
đi tiên phong, nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã dành
hơn ba mươi trang sách viết về Phạm Quỳnh cùng những đánh giá khá
trọng thị đối với các cơng trình khảo cứu, dịch thuật, du ký và bình luận của
ơng:

7


“Ơng là người viết nhiều nhất trong tạp chí Nam Phong(…) [16, 73].
Nhưng một điều mà người đọc nhận thấy trước nhất trong những bài biên
tập và trước thuậtcủa ông là ông không cẩu thả(…) [16, 75]. Phạm Quỳnh
là một nhà văn có thể bàn luận một cách vững vàng và sáng suốt bất cứ về
một vấn đề gì, từ thơ văn cho đến triết lý, đạo giáo cho đến chính trị, xã
hội, khơng một vấn đề nào là ơng không tham khảo tường tận trước khi
đem bàn trên mặt giấy. Trong lịch sử văn học hiện đại, người ta sẽ khơng
thể nào qn được tạp chí Nam Phong, vì nếu ai đọc tồn bộ tập tạp chí
này, cũng phải nhận là rất đầy đủ, có thể giúp cho người học giả một phần
to tát trong việc soạn một bộ bách khoa toàn thư bằng quốc văn” [16,
109].
Ở miền Nam, trước năm 1975, tên tuổi và sự nghiệp của Phạm Quỳnh
cũng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm tìm hiểu. Kết quả nghiên cứu
về Phạm Quỳnh được công bố qua một số cơng trình tiêu biểu như: các bộ
sách văn học sử của các tác giả Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ…; như: Văn
học Việt Nam dẫn luận (Introduction à la litérature Vietnamiene) của
Maurice Durant và Nguyễn Trần Huân (Maison neulve et la rose, Paris,
1969); như: Bài học Phạm Quỳnh của Thiếu Sơn, Chủ đích Nam Phong,

Trường hợp Phạm Quỳnh, Vụ án truyện Kiều của Nguyễn Văn Trung…
Đặc biệt, trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập III, phần văn
học hiện đại), tác giả Phạm Thế Ngũ đã dành hẳn một chương (Chương
III) với hơn một trăm hai mươi trang sách để nghiên cứu một cách hết sức
tỉ mỉ, nghiêm túc, khách quan về cuộc đời, sự nghiệp cũng như những
đóng góp của Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí đối với văn hóa, văn học
dân tộc, mà ta có thể tách ra như một cơng trình khoa học độc lập.
Trong mục bàn về Tư tưởng bảo thủ của Phạm Quỳnh, tác giả nêu nhận
định:
“Như vậy, việc ý thức cái cốt cách, cái cá tính, cái bản ngã của mình
để mà bảo vệ, mà tài bồi thật là tối cần. Nó chỉ có thể có với dân tộc nào
8


hoặc với những ai quay về mình cịn thấy cái gì cho là đáng q đáng u,
nghĩa là cịn có tinh thần bảo thủ. Khơng có nó, người ta sẽ trơi dạt đến chỗ
bơ vơ mất gốc. Có nó, người ta có thể chống chọi lại mọi mưu mơ quyến rũ
từ ngồi, mọi mặc cảm tự ti từ mình. Vấn đề đặt ra cho cả dân tộc cũng như
cho mỗi cá nhân [14, 145].
Tuy bàn về “tư tưởng bảo thủ” của Phạm Quỳnh nhưng cách viết như
trên của Phạm Thế Ngũ chính là đã cơng tâm nhận ra cái ưu điểm của Phạm
Quỳnh trong việc tiếp thụ và vận dụng kinh nghiệm văn hóa Thái Tây vào
việc xây dựng văn hóa nước nhà.
Kết thúc mục nghiên cứu về Chủ nghĩa quốc gia của Phạm Quỳnh,
tác giả cũng có những ý kiến hết sức khách quan và công tâm:
“Ngày nay chúng ta có nghiên cứu Phạm Quỳnh là nghiên cứu nhà
báo và nhà văn của tạp chí Nam Phong, con người cùng tư tưởng trước
1932, con người tốt đẹp đã đóng một vai trò tương đối tiến bộ trong một
giai đoạn lịch sử chánh trị và nhất là đã dày công xây đắp cho nền học và
nền văn mới” [14, 170].

Ở miền Bắc, từ sau năm 1945 đến năm 1975, vấn đề Phạm Quỳnh là
một vấn đề hết sức nhạy cảm. Trong suốt thời gian này, hầu như khơng có
một cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, khách quan về Phạm Quỳnh
cũng như những đóng góp của ơng đối với văn hóa và văn học nước nhà.
Học giả Đặng Thai Mai, một người có uy vọng lớn trong giới nghiên
cứu văn học ở miền Bắc lúc bấy giờ, trong sách Văn thơ cách mạng Việt
Nam đầu thế kỷ XX (xuất bản năm 1961), thủy chung vẫn đánh giá Phạm
Quỳnh chỉ là một tên tay sai, bồi bút phục vụ cho mưu đồ xâm lăng, đồng
hóa của thực dân Pháp đối với dân tộc ta. Ông cả quyết khẳng định:
“Phạm Quỳnh đã đọc khá nhiều sách, đã viết về rất nhiều vấn đề.
Nhưng y chưa hề nghiên cứu về một vấn đề gì. Và về mọi mặt, chỗ “độc
đáo” của y là điểm lạc hậu của bọn học giả phản động Pháp! Cảm tưởng
cuối cùng của người đọc Nam Phong, nếu họ chịu khó suy nghĩ, thì Phạm
9


Quỳnh là một người đã đọc khá nhiều sách và đã đem học thức ra bán rẻ
cho bọn thống trị; là một nhà “học giả” có đủ chữ Hán và tiếng Việt để bịp
người Tây; và cũng có đủ chữ Tây để lòe người An Nam” [10, 124].
Sau những nhận định có tính chất phán quyết chung thẩm của Đặng
Thai Mai thì vấn đề Phạm Quỳnh hầu như khơng có ai bàn đến hoặc có thì
cũng chẳng nói khác hơn (ngoại trừ duy nhất ý kiến của nhà văn Nguyễn
Công Hoan trong Đời viết văn của tôi, NXB Văn học. Hà Nội 1971)1. Đây
có lẽ cũng là hiện tượng có thể giải thích được trong một giai đoạn đặc biệt
của lịch sử!
Nhà văn Nguyễn Công Hoan cho biết, Phạm Quỳnh là “người có chính
kiến”; là người chủ trương thuyết lập hiến, rằng “người Pháp nên thi hành
đúng Hiệp ước 1884 nghĩa là chỉ đóng vai trị bảo hộ, cịn cơng việc trong
nước thì để vua quan người Nam tự đảm nhiệm lấy. Bấy giờ, Phạm Quỳnh
vào Huế làm quan không phải vì danh. Quốc dân biết tên Phạm Quỳnh hơn

nhiều Thượng thư Nam triều. Mà cũng chẳng phải vì lợi. Đơn cử làm chủ bút
Nam phong, Phạm Quỳnh được cấp 600 đồng một tháng. Món này to hơn
lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ để lấy danh nghĩa Chính
phủ Nam triều địi Pháp trở lại Hiệp ước 1884. Vậy là một người yêu nước
như Phạm Quỳnh sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua là một
việc miễn cưỡng trái với ý mình để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc
cho tốt hơn chứ thực lịng một người dân mất nước ai khơng đau đớn, ai khơng
khóc thầm”.
Cho đến gần đây, trong khơng khí đổi mới và dân chủ của đời sống văn
hóa tư tưởng, với sự nhận thức trầm tĩnh, khách quan hơn về các vấn đề
thuộc quá khứ lịch sử, Phạm Quỳnh và văn nghiệp của ông mới được
nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học quan tâm trở lại.
Năm 2000, tên của Phạm Quỳnh chính thức được nêu lên thành mục
trong quyển Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nhà xuất bản giáo dục.
10


Năm 2004, Từ điển văn học, bộ mới (Nhà xuất bản Thế giới, tháng
10/ 2004) đã bổ sung mục Phạm Quỳnh, do Nguyễn Huệ Chi viết, dài đến
ba trang. Trong đó, cơng lao của ơng đối với văn học nước nhà đã được đánh
giá một cách khách quan và thừa nhận một cách trang trọng. Kết luận về
Phạm Quỳnh, tác giả Nguyễn Huệ Chi có đoạn viết: “Là người biên khảo,
lần đầu tiên Phạm Quỳnh cung cấp cho người đọc những khái niệm bước
đầu về mỹ học nói chung cũng như về thơ, về tiểu thuyết…nói riêng” [9,
1366].
Ngồi những cơng trình có tính chất quy mơ như trên, từ những năm
2000 đến nay tạp chí Nghiên cứu văn học lần lượt đăng tải nhiều bài
nghiên cứu sâu sắc và nghiêm túc về Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí:
“Báo chí và văn chương qua một trường hợp: Nam Phong tạp chí”
(Nguyễn Đình Chú, Trịnh Vĩnh Long – Số 2, 2005), “ Về thuật ngữ tiểu

thuyết trên tạp chí Nam Phong” (Nguyễn Đức Thuận – Số 2, 2005), “Vai
trị của trí thức trong q trình tiếp nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam
đầu thế kỷ XX” (Vương Trí Nhàn
– Số 7, 2005), “Tình hình nghiên cứu phần văn trên Nam Phong tạp
chí (1917 – 1934) từ 1975 đến nay” (Nguyễn Đức Thuận – Số 5, 2006),
“Thượng Chi bàn về tiểu thuyết trên tạp chí Nam Phong” (Nguyễn Đình
Chú – Số 4, 2007), “Thể tài du ký trên tạp chí Nam Phong” (Nguyễn Hữu
Sơn – Số 4, 2007) …
Ý thức sâu sắc về giá trị di sản tinh thần quý báu của cha ơng và với
niềm kính trọng một bậc thức giả, chúng tơi đã dành nhiều thời gian tìm hiểu
về vấn đề Phạm Quỳnh. Chúng tôi lấy làm băn khoăn khi nhận thấy rằng,
cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ
và hệ thống về tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh cũng như
những đóng góp và hạn chế của những tư tưởng đó đối với văn hóa – văn
học Việt Nam trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử văn hóa – văn học
của dân tộc. Thảng hoặc, những vấn đề này cũng được nhắc đến trong một
11


số cơng trình nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu uy tín nhưng để có một
sự xem xét, nghiên cứu một cách hệ thống, kỹ lưỡng thì, như đã nói ở trên,
cho đến nay vẫn còn là vấn đề bỏ ngõ.
ề tài Khảo sát sự tiếp nhận văn học Pháp của Phạm Quỳnh trên Nam
Phong tạp chí có lẽ là một vấn đề vẫn mang tính nhạy cảm. Trở ngại không
nhỏ đối với người thực hiện luận văn là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị
điểm tựa hết sức hạn chế, chúng tơi hầu như phải tự mình giải quyết tất cả
các nội dung khoa học mà không được kế thừa nhiều thành quả của những
nhà nghiên cứu đi trước.
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài mở đầu và kết luận, luận văn gòm ba chương

Chương 1: Vai trò của Phạm Quỳnh trong việc truyền bá tư tưởng văn
hóa, văn học Pháp trên Nam Phong những năm đầu thế kỷ XX.
Chương 2 : Sự tiếp nhận văn học Pháp trên Nam Phong tạp chí cùng
những tiến bộ văn học nước nhà.
Chương 3 : Các tác giả đóng góp vào việc truyền bá văn hóa, văn học
Pháp – châu Âu trên Nam Phong.

12


CHƯƠNG 1.
VAI TRÒ CỦA PHẠM QUỲNH TRONG VIỆC TRUYỀN BÁ TƯ
TƯỞNG VĂN HÓA, VĂN HỌC PHÁP TRÊN NAM PHONG NHỮNG
NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX.
1.1.

Tình hình văn học những năm đầu thế kỷ XX.

Trước khi bị người Pháp xâm lược và đơ hộ thì Việt Nam đã là một quốc
gia có nền văn học phát triển với bản sắc độc đáo gắn với bề dày hàng ngàn
năm văn hiến của lịch sử dân tộc.
Văn học viết Việt Nam chính thức ra đời từ thế kỷ X cùng với nền độc
lập, tự chủ của dân tộc và từ đó trở thành một bộ phận quan trọng, khơng thể
thiếu của nền văn hóa dân tộc. Trong tiến trình ngót mười thế kỷ xây dựng
và phát triển, văn học viết Việt Nam, một mặt chủ động tiếp thu một cách
có chọn lọc những yếu tố ngoại lai, mặt khác kế thừa những thành quả
của văn hóa, văn học dân gian dân tộc, đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ,
kết tinh trong sáng tác của những tên tuổi lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế
Xương,…

Tuy đã đạt được những thành tựu lớn về nhiều phương diện, nhưng cho
đến cuối thế kỷ XIX, nhìn chung văn học viết Việt Nam vẫn như một dịng
sơng nhỏ hiền hịa, êm trơi giữa đơi bờ của vùng đất văn hóa Trung đại
phương đông, phong kiến, cổ truyền, chở nặng trong mình những hạt phù sa
của tư tưởng văn hóa ấy và vẫn còn quẩn quanh trong vùng châu thổ già cỗi
này mà chưa vươn mình ra biển lớn của văn học thế giới; nó vẫn nằm trong
quĩ đạo của văn hóa – văn học khu vực Đơng Á, mà Trung Hoa là nền văn
hóa – văn học hạt nhân. Nói một cách cụ thể, đó vẫn là một nền văn học
chịu ảnh hưởng và sự chi phối sâu sắc của văn học và văn hóa phương
Đơng, mà chủ yếu là của Trung Hoa, về nhiều phương diện: tư tưởng học
thuật, quan niệm văn học, hệ thống thi pháp, thể loại, ngơn ngữ, chữ viết,…
Chính
13


sự chi phối và ảnh hưởng ấy mà trên đại thể, văn học Việt Nam thời
Trung đại có những đặc điểm nổi bật sau đây:
Về phương diện nội dung tư tưởng, văn học Trung đại Việt Nam chịu
ảnh hưởng sâu sắc các hệ tư tưởng Phật giáo, Lão giáo, và đặc biệt là Nho
giáo.
Yêu nước trong văn học Trung đại Việt Nam luôn gắn liền với tư tưởng
trung quân, ở những thời đoạn giai cấp phong kiến có vai trị tích cực xứng
đáng đại diện cho bản lĩnh và quyền lợi dân tộc đã đành, đến khi chế độ
phong kiến suy thoái, giai cấp phong kiến đã trắng trợn bộc lộ sự phản động,
quay lưng lại với dân tộc, thì trong sáng tác của các nhà nho, tư tưởng ấy
vẫn ngự trị, dù cho các tác giả có giả tưởng chuyển hướng lý tưởng vào
một vị minh quân nào đi chăng nữa. Thế kỷ XV, Nguyễn Trãi khăng khăng
giữ tấm lòng “Trung lẫn hiếu, mài chẳng khuyết nhuộm chẳng đen”. Đến
cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Đình Chiểu vẫn viết Lục Vân Tiên với tuyên ngôn:
“Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”
(Lục Vân Tiên)
Ngay cả khi triều đình Tự Đức quay lưng lại với dân chúng, nhẫn tâm
bán rẻ Nam Kỳ cho thực dân Pháp thì trong sáng tác của nhà thơ được xem
là lá cờ đầu của dòng văn học yêu nước chống thực dân Pháp vào cuối thế
kỷ XIX vẫn thấy xuất hiện những dòng thơ, những câu văn cảm động đến
tuyệt vọng về tư tưởng trung quân:
“Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ
ấm đủ đền cơng đó”
(Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc)

Hay:
“Bao giờ thánh đế ân soi thấu

14


Một trận mưa nhuần rửa núi sông”
(Xúc cảnh)
Nhân đạo cũng là một nội dung lớn của văn học Trung đại Việt Nam.
Đó là tình cảm tự nhiên, thiết tha trân trọng những giá trị nhân sinh, chân
thành xúc cảm trước sự vui buồn của con người, căm phẫn những thế lực
gian tà chà đạp quyền lợi nhân dân và tổ quốc. Những tình cảm đó tùy
hồn cảnh lịch sử – xã hội và tùy vào từng tác giả mà có sắc thái khác
nhau ở mỗi tác phẩm nhưng, hoặc nhạt hoặc đậm, có chịu ảnh hưởng tư tưởng
từ bi bác ái của Phật giáo hoặc là tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo.
Về phương diện hình thức, văn học viết Trung đại Việt Nam là một nền
văn học song ngữ, một bộ phận viết bằng chữ Hán và một bộ phận viết bằng
chữ Nôm. Buổi đầu xây dựng nền văn học viết nước nhà, do chưa có văn
tự riêng nên cha ông ta lâm thời buộc phải vay mượn chữ Hán để sáng tác.

Bộ phận văn học chữ Hán vì vậy ra đời trước. Đã vay mượn chữ Hán thì
buộc phải vay mượn luôn cả hệ thống kinh nghiệm văn học do các thế hệ
thi văn nhân Trung Hoa đúc rút qua thực tiễn hàng ngàn năm sáng tác, bao
gồm từ quan niệm văn học, loại thể, cho đến thủ pháp nghệ thuật và nguồn
thi văn liệu,… Tuy vay mượn văn tự và thi pháp Trung Hoa nhưng suốt
trong quá trình sáng tác, mỗi một tác giả đều ln có ý thức Việt hóa sáng
tác của mình để tác phẩm là của dân tộc. Đến thế kỷ XIII, chữ Nôm bắt
đầu được sử dụng để sáng tác và dưới thời Trần căn bản chỉ mới ở mức
độ ứng dụng kinh nghiệm đúc rút được từ sáng tác văn thơ chữ Hán vào
sáng tác thơ văn chữ Nôm. Sau nhiều thế kỷ bền bĩ nỗ lực, đến thế kỷ XVIII,
XIX các tác giả mới có điều kiện vận dụng một cách trực tiếp và rộng rãi
kinh nghiệm văn học dân gian dân tộc vào sáng tác văn học chữ Nôm, đưa
văn học tiếng Việt phát triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.
Một đặc điểm quan trọng nữa về mặt hình thức của văn học Việt Nam
Trung đại đó là tính quy phạm khá rõ rệt. Tính quy phạm thể hiện trước hết
ở quan điểm nghệ thuật coi trọng mục đích giáo huấn của văn chương,
15


xem văn chương là công cụ chuyển tải đạo lý, là phương tiện phục vụ
cho việc “sửa sang việc đời”. Quan niệm “Văn dĩ tải đạo” (Văn để chở đạo)
và “Thi ngơn chí” (Thơ nói chí) có địa vị thống sối, chi phối q trình
văn học từ sáng tác đến tiếp nhận. Chúng ta dễ dàng nhận thấy quan niệm
ấy được phát biểu công khai qua sáng tác của nhiều tác giả:
“Đao bút phải dùng tài đã vẹn,
Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên. Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,
Điện Bắc đà đà yên phận tiên.”
(Nguyễn Trãi) “Học theo ngịi bút chí cơng,
Trong thơ cho ngụ tấm lịng Xn Thu.”
(Nguyễn Đình Chiểu) “Chở bao nhiêu đạo thuyền khơng khẳm,

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.”
(Nguyễn Đình Chiểu)
Cái gốc của văn chương là đạo lý:
“Văn và đạo tuy có tên khác nhau nhưng nội dung của nó thì bắt
nguồn từ đạo” (Nguyễn Văn Siêu).
“Văn của thánh nhân là để chở đạo, văn của văn nhân là để luận
đạo. Cho nên bàn về văn của thánh nhân – như sự trong sáng, tinh tế của
Chu dịch, sự thơng thốt chí lý của Thượng thư, sự uyển chuyển trung hậu
của Kinh thi, sự cung kính trang nghiêm của Kinh lễ, sự khen chê có cân
nhắc của sách Xuân Thu – văn đến năm kinh là tột đỉnh…” (Nguyễn Tư
Giản)
Lực lượng sáng tác của văn học thời kỳ trung đại từ sau thế kỷ XIII
chủ yếu là nhà nho, những người được đào tạo từ “cửa Khổng sân Trình”.
Họ thấm nhuần giáo huấn của Tứ thư, Ngũ kinh, họ tha thiết trung thành với
đạo của người quân tử. Thơ văn là để nói lên cái chí của người qn tử, nó
khơng tách rời với mục đích giáo huấn. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khẳng
định: “Ơi, nói tâm là nói về cái chỗ mà chí đạt tới vậy, mà thơ là để nói
chí”. Văn là để chở đạo, thơ để nói chí mà đạo và chí thì noi theo mẫu mực
thánh nhân, cịn cách thức tư duy và hình thức biểu đạt cũng tuân theo những
16


kiểu mẫu có sẵn, đã trở thành cơng thức,… nên văn học thời kỳ trung đại
nhìn chung có xu hướng bị xóa nhịa phong cách, mang tính “phi ngã”….
Về quy mô và phạm vi kết tinh, văn học trung đại có phạm vi kết tinh ở
văn vần hơn là văn xuôi; quy mô kết tinh vừa và nhỏ. Quy mô nghệ thuật
này sẽ thiên về bút pháp chấm phá, điểm nhãn, gợi hơn là tả. Các tác giả
văn học thời kỳ này thường hướng về cái đẹp trong quá khứ, thiên về cái đẹp
xinh xắn, thanh cao, tao nhã . Do vậy, trong sáng tác của mình, họ ln thể
hiện kiểu tư duy nghệ thuật giàu khả năng nắm bắt cái bản chất, cái tinh

túy, cái thần của sự vật, của tâm trạng con người hơn cái vẻ bề ngoài của sự
vật.
Văn học Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XX mới thực sự bước vào thời
kỳ hiện đại hóa để hình thành nên một nền văn học mới. Đó là một nền văn
học phát triển trong xu hướng tiếp cận cùng văn học thế giới với những
nét đặc thù. Nói như Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn học sử giản ước
tân biên, đó là “hầu như tân tạo trong một giai đoạn lịch sử mới”, khác hẳn
với văn học trung đại cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức thể loại.
Ở phương diện nội dung, nếu như văn học trung đại chịu ảnh hưởng
và chi phối chủ yếu bởi tư tưởng, học thuật Trung Hoa; luân lý, đạo đức
Khổng Mạnh, thì sang thế thế kỷ XX, văn học hiện đại chủ yếu chịu ảnh
hưởng của tư tưởng, học thuật phương Tây với những lý thuyết về dân chủ,
về ý thức cá nhân,… Do vậy, tuy vẫn tiếp thu và kế thừa những truyền thống
lớn của văn học dân tộc đó là yêu nước và nhân đạo, nhưng văn học hiện
đại đã phát huy lên một bước mới: tinh thần dân chủ.
Về nội dung yêu nước, văn học hiện đại khơng cịn bị ràng buộc bởi
cái vịng kim cô của tư tưởng trung quân như trong văn học trung đại nữa
mà đã thực sự giải phóng với sự biểu hiện phong phú trên tinh thần dân
chủ. Các tác giả là những nhà cách mạng theo xu hướng tư sản, chẳng hạn
như Phan Bội Châu, ngay từ đầu thế kỷ đã quan niệm: “Dân là dân nước,
nước là nước dân”. Các tác giả thuộc bộ phận văn học cách mạng vơ sản
thì gắn chủ nghĩa u nước với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Với bộ phận văn
17


học hợp pháp, do nhiều lý do khách quan, tinh thần yêu nước được thể hiện
một cách kín đáo hơn nhưng cũng không kém sâu sắc và cảm động qua tình
yêu đối với những đường nét, dáng vẻ đáng yêu của con người và cảnh vật
của đất nước; cái đẹp của văn hóa dân tộc và đặc biệt là đối với ngơn ngữ
dân tộc. Ở khía cạnh này, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh là những là

những gương mặt tiêu biểu.
Tinh thần dân chủ cũng đem đến cho nội dung nhân đạo của văn học
hiện đại những biểu hiện mới mẻ. Đối tượng chủ yếu của văn học hiện đại
là những con người bình thường trong xã hội. Chủ nghĩa nhân đạo trong
văn học hiện đại còn gắn liền với sự thức tỉnh về ý thức cá nhân của người
cầm bút. Do vậy mà trong nhiều tác phẩm văn học thời kỳ này, ta thấy sự
thể hiện khá sâu sắc khát vọng sống, sự đề cao tài năng, phẩm giá của
mỗi con người; sự đấu tranh không khoan nhượng với luân lý, lễ giáo
phong kiến để bảo vệ hạnh phúc cá nhân, đặc biệt là các vấn đề về tình u
đơi lứa, hơn nhân, gia đình…
Ở phương diện hình thức thể loại, nếu văn học trung đại chỉ tập trung
chủ yếu vào các thể loại văn vần với những hình thức chật hẹp và quy định
khắc khe, nghiêm ngặt về niêm luật; văn xi có thì cũng là loại văn biền
ngẫu và phương tiện sáng tác là chữ Hán, chữ Nôm, rất khó khăn cho sự
tiếp nhận của cơng chúng bình dân, thì ở văn học hiện đại, ta thấy có sự phát
triển hết sức đa dạng các thể loại. Bên cạnh các thể thơ cũ, đã thấy xuất hiện
các thể thơ tự do, thơ văn xuôi được sáng tác bằng chữ quốc ngữ. Đặt biệt là
sự xuất hiện của các thể loại văn xuôi quốc ngữ như tiểu thuyết, truyện
ngắn, phóng sự, bút ký, tùy bút, lý luận phê bình văn học cũng như các thể
kịch là dấu hiệu của một nền văn học hiện đại.
Tuy nhiên để có một nền văn học hiện đại phát triển trong xu hướng
tiếp xúc, hòa nhập với văn học thế giới, mang những nét đặc thù như đã nói
ở trên, văn học Việt Nam đã phải trải qua một quá trình cách tân, hiện đại
hóa hết sức lâu dài và phức tạp với nhiều giai đoạn. Mà mỗi một giai đoạn
cách tân là kết quả của biết bao nhiêu tâm huyết, tài năng của các thế hệ
18


cầm bút. Về đại thể, văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến Cách
mạng tháng Tám năm 1945, là một nền văn học đang ở trong quá trình hiện

đại hóa, mà thời gian từ năm 1900 đến 1930 là những giai đoạn đầu của
quá trình ấy. Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi chủ yếu chỉ tập
trung khái quát tình hình văn học Việt Nam trong ba mươi năm đầu của thế
kỷ XX.
Như đã nói ở trên, văn học Việt Nam trong khoảng ba mươi năm đầu thế
kỷ XX là nền văn học đang ở trong tiến trình hiện đại hóa. Tiến trình này
trải qua hai chặng đường chủ yếu:
Chặng đường thứ nhất, diễn ra trong khoảng hai mươi năm đầu thế kỷ
XX. Quá trình hiện đại hóa bắt đầu bằng sự hình thành các thể văn xuôi
quốc ngữ. Chữ quốc ngữ vốn do các giáo sĩ phương Tây sáng tạo ra vào
khoảng thế kỷ XVII nhằm phục vụ cho mục đích truyền giáo. Sau gần ba
thế kỷ phát triển, với sự tham gia cải tiến, sáng tạo của của các thế hệ giáo
sỹ phương Tây và trí thức Việt Nam, cho đến cuối thế kỷ XIX, chữ quốc
ngữ về cơ bản đã hoàn thiện và từ địa hạt tơn giáo, nó chuyển dần sang lĩnh
vực văn hóa, văn học. Đầu thế kỷ XX, ý thức được sự thuận tiện cũng như
tầm quan trọng của nó trong việc truyền bá tư tưởng văn minh phương Tây,
nâng cao dân trí, chấn hưng đất nước, các sỹ phu trong Duy tân hội và Đông
kinh nghĩa thục cũng như một số trí thức Tây học có tâm huyết như Phạm
Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh v.v…ra sức hô hào, vận động cho việc truyền bá
và học chữ quốc ngữ. Nói về tầm quan trọng cũng như sự tiện lợi của chữ
quốc ngữ, thơ Đơng kinh nghĩa thục có đoạn viết:
“Trước hết phải học ngay quốc ngữ, Khỏi đôi đường tiếng, chữ khác
nhau. Chữ ta, ta đã thuộc làu,
Nói ra nên tiếng, viết câu nên bài. Sẵn cơ sở để khai tâm trí…”
Năm 1907, cùng với sự vận động, hơ hào tích cực của phong trào Duy
tân, Nguyễn Văn Vĩnh đã vận động đổi tờ báo chữ Hán Đại Nam Đồng Văn
nhật báo thành tờ báo quốc ngữ Đăng Cổ tùng báo với hai tôn chỉ: truyền
bá học thuật phương Tây và cổ động cho chữ quốc ngữ. Tiếp theo Nguyễn
19



Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh và phái Nam Phong cũng tích cực ra sức truyền bá
chữ quốc ngữ. Năm 1917, trên tạp chí Nam Phong số ra đầu tiên, Phạm
Quỳnh đã có hẳn một bài luận thuyết bàn về Văn quốc ngữ.
Chính sự truyền bá rộng rãi chữ quốc ngữ như vậy đã tác động tích
cực đến sự hình thành tầng lớp công chúng văn học mới cũng như sự ra đời
và phát triển nền văn xuôi nước ta.
Nhưng điều kiện quan trọng hơn cho sự phát triển của văn xuôi quốc
ngữ ở giai đoạn này phải kể đến sự xuất hiện và phát triển của báo chí cũng
như phong trào dịch thuật. Từ văn thơng tin báo chí và văn dịch thuật mà
câu văn xuôi nghệ thuật tiếng Việt ra đời, trưởng thành và phát triển.
Thực ra mầm mống của văn xuôi nghệ thuật tiếng Việt đã xuất hiện
vào cuối thế kỷ XIX với một số sáng tác như bài ký Chuyến đi thăm Bắc
Kỳ năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký (1876), truyện Thầy Lazaro Phiền của
Nguyễn Trọng Quản (1887)…Nhưng phải đến đầu thế kỷ XX thì mới có
hẳn một phong trào viết văn xuôi quốc ngữ, đặc biệt là ở miền Nam. Năm
1910, Trần Thiện Trung đã cho ra đời cuốn tiểu thuyết Hoàng Tố Anh hàm
oan viết theo lối mới khá chững chạc. Tuy nhiên những sáng tác văn xuôi
trong giai đoạn này cũng mới chỉ là những thử nghiệm bước đầu chứ chưa
thực sự có giá trị cao về mặt nghệ thuật và phạm vi phát triển của nó cũng
mới chỉ thu hẹp ở một số đô thị ở miền Nam. Văn xuôi giai đoạn này chủ
yếu vẫn tập trung ở mảng dịch thuật.
Nhìn một cách tổng quát, sự phát triển của văn học Việt Nam trong giai
đoạn này vẫn gắn với những tên tuổi của những tác giả thuộc phong trào
Duy tân, Đông kinh nghĩa thục như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu,
Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn
Can, Lê Đại…Với tư tưởng canh tân, họ kêu gọi nâng cao dân trí, khai
thơng dân khí, hơ hào thực nghiệp, bỏ hư văn, học khoa học, phổ biến chữ
quốc ngữ, mở rộng báo chí…Qua đó, họ đã tạo nên cả một phong trào
sáng tác thơ văn tuyên truyền cổ động có nội dung chính trị mới mẻ, mang

hơi thở và khí phách thời đại. Tuy nhiên bộ phận văn học này cũng chỉ mới
20


thể hiện sự đổi mới về tư tưởng chính trị, xã hội và học thuật mà chưa có
sự đổi mới thực sự về tư tưởng thẩm mỹ.
Tóm lại là ở giai đoạn này, văn học đã có sự đổi mới về nội dung tư
tưởng. Chẳng hạn về ý thức hệ, văn học chủ yếu chịu sự chi phối của ý thức
hệ tư sản; về lý tưởng chính trị xã hội, chủ nghĩa yêu nước đã gắn với lý
tưởng cách mạng dân chủ tư sản, khác với văn học trung đại chủ nghĩa yêu
nước không thể tách rời lý tưởng tôn quân... Về mặt nghệ thuật, văn học giai
đoạn 1900 – 1920 vẫn chưa có những đổi mới đáng kể. Các tác giả chỉ
dừng lại ở mức độ cách tân nghệ thuật sáng tác của nhà nho trước kia.
Tiêu biểu nhất là thơ văn yêu nước và cách mạng. Còn nhiều tác phẩm thể
hiện những vấn đề mới của cách mạng bằng hình thức nghệ thuật cũ. Các
tác giả cịn ít dùng chữ quốc ngữ để sáng tác, chưa bỏ được lối văn biền
ngẫu, thơ vẫn là loại thể được ưa chuộng, ngơn ngữ vẫn cịn mang tính chất
cầu kỳ, bóng bẩy...
Chặng thứ hai, diễn ra từ khoảng năm 1920 đến năm 1930. Q trình
hiện đại hóa đã đạt được nhiều thành tựu. Văn học không chỉ đổi mới về nội
dung mà cả nghệ thuật cũng đã khác trước rất nhiều.
Văn xuôi nghệ thuật đã phát triển mạnh hơn trước với sự phong phú của
nhiều thể loại. Ở thể loại tiểu thuyết, phải kể đến những gương mặt tiêu
biểu như Hồ Biểu Chánh ở trong Nam với hàng chục tiểu thuyết dày dặn;
Hoàng Ngọc Phách, Trọng Khiêm ở ngoài Bắc với các tác phẩm Tố Tâm,
Kim Anh lệ sử. Truyện ngắn ở giai đoạn này cũng đã phát triển với những
tên tuổi tiêu biểu như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Nhất Linh. Về thể
bút ký, có sự góp mặt của những gương mặt tiêu biểu như Phạm Quỳnh,
Tương Phố, Đông Hồ… Phần lớn những tác giả kể trên thuộc lớp trí thức
Tây học đầu tiên do vậy tác phẩm của họ chịu ảnh hưởng rõ rệt tiểu thuyết,

truyện ngắn của Pháp.
Trên lĩnh vực thi ca, “cái Tôi” cá nhân đã bắt đầu cựa quậy từ cuối
thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX với những cá tính độc đáo như Hồ Xn
Hương, Nguyễn Du, Phạm Thái, Nguyễn Cơng Trứ, thì đến giai đoạn này
21


nó càng tự khẳng định mạnh mẽ hơn với Trần Tuấn Khải, đặc biệt là Tản Đà
với hồn thơ phóng túng, tràn đầy tình cảm và cảm xúc. Tuy nhiên, thơ ca
giai đoạn này cũng chỉ mới dừng lại ở chỗ khẳng định “cái Tôi” cá nhân
về mặt nội dung cảm xúc và khai thác những thể điệu tự do trong thơ cổ, xét
về mặt hình thức thể hiện, mà chưa thực sự cách tân một cách triệt để.
Ở giai đoạn này, văn học Việt Nam thấy xuất hiện một loại hình văn
học mới du nhập từ phương Tây, tuy thành tựu cịn khiêm tốn nhưng rất
đáng chú ý. Đó là thể loại kịch nói với những tác phẩm của các tác giả tiêu
biểu như Chén thuốc độc, Tòa án lương tâm của Vũ Đình Long; Bạn và vợ
của Nguyễn Hữu Kim; Ơng Tây An Nam của Nam Xương…
Tóm lại, trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, tình hình văn học Việt Nam
có nhiều biến động sâu sắc. Văn học dân tộc đang trong cơn vật vã dữ dội
của sự sinh thành, sự lột xác để hịa mình vào với văn học hiện đại thế giới.
Sự chuyển mình ấy đã đạt được những thành tựu đáng kể cả về nội dung lẫn
hình thức, mặc dù nó vẫn chưa thực sự thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn
học cũ. Tuy nhiên, để giai đoạn mở đường của văn học Việt Nam trong
q trình hiện đại hóa có được những thành tựu bước đầu như vậy là nhờ
sự cống hiến to lớn và hết mình của những trí thức vừa có tâm, lại vừa có tài
như thế hệ của Phạm Quỳnh
1.2.

Bối cảnh báo chí Việt Nam trước khi Nam Phong tạp chí ra


đời.
Mầm mống báo chí đã có ở nước ta từ lâu, thể hiện dưới nhiều hình
thức hết sức đa dạng, phong phú. Đó là những câu vè lưu truyền trong dân
gian, những lời rao của mõ làng, những cuộc “giảng thập điều” trong trong
sinh hoạt làng xã… cho đến những hình thức “thơng tin chính thức” của
nhà nước phong kiến bằng cách yết bảng văn ở Quảng Văn Đình thời Lê
Thánh Tơng hay Quảng Minh Đình thời Nguyễn Gia Long…
Nói về nguồn gốc báo chí, trong bài Nước ta xưa có được tự do ngơn
luận khơng? đăng trên tạp chí Tri Tân, số 206 (04/ 10/ 1945), Ứng Hịe
Nguyễn văn Tố cho biết:
22


“Khâm định Việt sử (quyển 14, tờ 15a) chép lại rằng: “Nguyên
trước, những chiếu, lệnh của nhà vua, lâm thời bộ đem yết bảng, đến năm
Tân Hợi (1491), vua Lê Thánh Tơng cho dựng một cái đình ở ngồi cửa Đại
Hưng (tức cửa Nam thành Thăng Long) để làm nơi niêm yết những phép
tắc trị dân, đặt tên là Quảng Văn Đình… Ba chữ “Quảng Văn Đình” nghĩa
là một cơ sở để thu nhặt giấy tờ ở các nơi. Đến đời Gia Long (1802 –
1819), làm đình ở phường Nam Hưng (tức Cửa Nam bây giờ), trên có đặt
tên là Quảng Minh Đình… cũng để dán những huấn lệnh của nhà vua.
Cạnh đó có hai tịa nhà ngói ở cửa Đông Nam gọi là Hiệp Nghị đường (Nhà
để họp bàn), phàm dân gian có việc gì uất ức, cho đến bày tỏ, cho nên các
đình, ở mé ngồi miếu thờ Thành Hoàng vừa là nơi để tụ họp khi tế lễ,
lúc hương ẩm, vừa để dán những huấn lệnh của nhà vua, cứ ngày Một và
Rằm các huynh thứ trong làng ra đọc những huấn lệnh và giảng nghĩa cho
dân gian nghe, thường gọi là giảng thập điều”.
Như vậy cái đình tức là báo chí, có định lệ mồng Một và Rằm tức là
nhật báo hoặc tuần báo…Báo chí tức là những tờ huấn lệnh dán ở đình làng
tựa như tờ Acta diurna của người La Mã đời xưa” [Dẫn theo Đỗ Quang Hưng

37, 8; 9].
Cách cắt nghĩa độc đáo trên của Ứng Hòe cho ta ý niệm về một “hình
thức báo chí” trong xã hội Việt Nam cổ truyền. Tuy nhiên, theo đúng nghĩa
hiện đại, báo chí Việt Nam chỉ thực sự xuất hiện cùng với sự thiết lập chế độ
thuộc địa của Thực dân Pháp trên đất nước ta.

23


Báo chí ở Việt Nam ra đời đầu tiên và trước hết là nhằm phục vụ cho
mưu đồ xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp về nhiều phương diện, đặc
biệt là phương diện chính trị và văn hóa. Ngay từ khi chiếm được Nam Kỳ,
vào năm 1861, thực dân Pháp đã cho xuất bản tờ công báo đầu tiên phục vụ
cho cơng cuộc viễn chính của chúng ở xứ này. Đó là tờ Bulletin officiel de
l'Expédition de la Cochinchine (Kỷ yếu công vụ cuộc viễn chinh xứ Nam
Kỳ) mà nội dung của nó là những nghị định, cơng văn, đạo luật, các chỉ thị,
các bài diễn văn… phát ra từ soái phủ Nam Kỳ. Tờ báo được lưu hành và
sử dụng như một phương tiện thông tin và thống nhất chỉ đạo cho cuộc đánh
chiếm và cai trị của Pháp ở Nam Kỳ. Nó đặt nền móng cho các tờ cơng báo
chính thức về sau này của chính quyền thực dân.
Cùng với tiến trình đánh chiếm và áp đặt chế độ cai trị của thực dân Pháp
lên các vùng đất của Việt Nam, hàng loạt tờ báo, tạp chí bằng tiếng Pháp của
chính quyền thực dân đã nối tiếp nhau ra đời: Le Courrier de Saigon (Tin
Sài Gòn) ấn hành số đầu tiên vào ngày 01/ 01/ 1864, đến năm 1879 đổi
thành Journal Officiel la Cochinchine (Công báo xứ Nam Kỳ), và cuối cùng,
năm 1889, mang tên Journal Officiel de l'Indochine (Công báo Đông
Dương); những bản Niên giám (An nuaire) được xuất bản hàng năm, từ năm
1865; Bulletin Officiel du protectorat de l'Annam et du Tonkin (Kỷ yếu công
vụ của nền bảo hộ xứ Trung và Bắc kỳ) ấn hành vào năm 1883, đến năm
1886 đổi thành Moniteur du Protectorat de l'Annam et du Tonkin; L'Avenir

du Tonkin (Tương lai xứ Bắc Kỳ - 1884); Bulletin du comité agricole et
industriel de la Cochinchine (Kỷ yếu của Ủy ban canh nông và kỹ nghệ xứ
Nam Kỳ - 1869 – 1881); Bulletin de la Societé Etudes Indochinoise (Kỷ yếu
của Hội nghiên cứu Đơng Dương
– 1883); Revue Indochinoise (Tạp chí Đơng Dương – 1892)…
Ngồi những tờ cơng báo của chính quyền thực dân, hàng loạt các tờ
báo tư nhân bằng tiếng Pháp cũng thi nhau ra đời. Tính từ sau 1861 cho đến
đầu thế kỷ XX, ta thấy số lượng các tờ báo bằng tiếng Pháp này chiếm một
số lượng đáng kể ở cả Bắc và Nam Kỳ.
24


Ở Nam Kỳ (chủ yếu tập trung ở Sài Gòn) có các tờ báo sau đây:
Independance de Saigon (Sài Gịn độc lập – 1870), L'Ere nouvelle (Nhật tân
báo – 1879), Journal de Saigon (Nhật báo Sài Gòn – 1880), Le Mékong (Mê
Kơng – 1883), Le Saigonais (Người Sài Gịn – 1883), L'Indochine (Đông
Dương – 1884), Unité Indochinoise (Đông Dương thống nhất – 1884), La
Trompette (Kèn đồng – 1884), L'Extrême Orent (Viễn Đông – 1887),
L'Independant (Tự lập – 1888), Le Courier Saigonais (Tin Sài Gòn – 1889),
Saigon Respublicain (Sài Gòn cộng hòa – 1888), Petites affiches (Rao
vặt – 1888), Le Cochinchinois (Dân Nam Kỳ - 1888), Le progres de Saigon
(Sài Gòn tiến bộ - 1889), …
Ở Bắc Kỳ, dòng báo chữ Pháp có phần ít ỏi hơn. Cuối thế kỷ XIX,
ngồi tờ báo L'Avernir du Tonkin (Tương lai xứ Bắc Kỳ) cịn có các tờ Le
Courier d'Haiphong (Tin tức Hải Phịng - 1886), L'Indépendance
Tonkinoise (Xứ Bắc Kỳ tự lập - 1889), L'escho du Tonkin (Tiếng vang
Bắc Kỳ - 1896), Le France d'Asie (Pháp – Á, 1893), Le gazette
d'Haiphong (Báo Hải Phòng, 1895)…
Có một thực tế là từ năm 1861, sau sự ra đời của tờ báo Bulletin officiel
de l'Expédition de la Cochinchine (Kỷ yếu công vụ cuộc viễn chinh xứ Nam

Kỳ) tuy hàng loạt tờ báo bằng tiếng Pháp đã xuất hiện trên khắp cõi Việt
Nam với số lượng khá lớn nhưng chủ yếu chúng chỉ dành cho độc giả Pháp,
chủ yếu là giới quân sự và dân sự trong bộ máy chính quyền thuộc địa mà
rất ít người Việt sử dụng được.
Như đã nói ở trên, báo chí ở Việt Nam ra đời trước hết là nhằm phục
vụ cho mưu đồ xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp. Sau Hòa ước
1862, về cơ bản thực dân Pháp đã hoàn tất việc xâm chiếm và thiết lập chế
độ cai trị ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Nhận thấy đã đến lúc cần phải
truyền bá học thuật và tư tưởng văn hóa Pháp vào Việt nam, nhất là tạo cho
việc đưa chữ Quốc Ngữ vào quĩ đạo xâm lăng văn hóa, đánh bại chữ Nho
và văn hóa phương Đơng, đầu năm 1865 Soái phủ Nam Kỳ đã quyết định
cho xuất bản tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở nước ta, tờ Gia Định báo. Có thể
nói đây là tờ báo mở đầu cho nền báo chí Việt Nam.
25


×