Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Tư tưởng triết học của immanuel kant về biện chứng của quá trính nhận thức và ý nghĩa lịch sử của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.89 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG THỊ ÁNH NGUYỆT

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA
IMMANUEL KANT VỀ BIỆN CHỨNG
CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ
Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NĨ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG THỊ ÁNH NGUYỆT

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA
IMMANUEL KANT VỀ BIỆN CHỨNG
CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ
Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NĨ
Chun ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Ngô Thị Mỹ Dung

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
bản thân dưới sự hướng dẫn của TS. Ngô Thị Mỹ Dung. Những tài
liệu tham khảo và trích dẫn sử dụng trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả

Đặng Thị Ánh Nguyệt


1

MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………….…..3
PHẦN NỘI DUNG…………………………………………….13
Chương 1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC IMMANUEL KANT………………………....13
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội và những tiền đề tác động đến sự ra đời của
triết học Immanuel Kant ……………………………..……….……..……13
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội………………………………….……….13
1.1.2. Tiền đề lý luận…………………………………………….………..17
1.1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên……………………………………….....24
1.2. Các thời kỳ phát triển của triết học Immanuel Kant……………........27

1.2.1. Thời kỳ “Tiền phê phán”……………….…………………………..28
1.2.2. Thời kỳ “Phê phán”…………………………….…………………..32
1.3. Vai trò của nhận thức luận trong triết học Immanuel Kant…...…..….36
Kết luận chương 1………………………………………………..….........42
Chương 2. NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC IMMANUEL KANT VỀ BIỆN CHỨNG CỦA
QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC……………...………………………………44
2.1. Nội dung cơ bản của tư tưởng triết học Immanuel Kant về biện chứng
của q trình nhận thức………………………….......................................44
2.1.1. Nhận thức cảm tính………………………………………………...44
2.1.2. Nhận thức giác tính………………………………………………...53
2.1.3. Nhận thức lý tính…………………………………………………...63
2.1.4. Biện chứng của quá trình nhận thức……………………………..…69
2.2. Ý nghĩa lịch sử của tư tưởng triết học của Immanuel Kant về biện
chứng của quá trình nhận thức…………………………….………...…....81


2

Kết luận chương 2……………………………………………..…….……99
PHẨN KẾT LUẬN……………………………………………………..102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………...…107


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Engels đã từng nói "một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao của khoa học
thì khơng thể khơng có tư duy lý luận" [6, 489], nhưng muốn phát triển và

hoàn thiện tư duy lý luận "thì cho tới nay khơng cịn một cách nào khác
hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước" [6, 487]. Năng lực tư duy lý
luận không thể đạt được nếu chúng ta không nghiên cứu nền tảng lý luận và
phương pháp tiếp cận của các trào lưu triết học khác nhau trong lịch sử
nhân loại. Các nhà mácxít đã nhấn mạnh rằng, để có được năng lực tư duy
lý luận, người ta chỉ có cách duy nhất là phải nghiên cứu lịch sử triết học
một cách cơ bản. Bởi lẽ, triết học chính là sản phẩm tinh túy nhất của mỗi
dân tộc, nó phản ánh sâu sắc nhất, đầy đủ nhất thực tiễn xã hội sinh động
của mỗi thời đại.
Trong dòng chảy của lịch sử triết học, không thể không nhắc đến triết
học cổ điển Đức, đỉnh cao của triết học Tây Âu thời cận đại. Triết học cổ
điển Đức, mà Immanuel Kant là người sáng lập đã phá vỡ quan niệm siêu
hình và phương pháp tư duy siêu hình tồn tại trong nhiều thế kỷ. Vì vậy,
việc nghiên cứu triết học Immanuel Kant, trong đó nhận thức luận của ơng
đóng vai trị quan trọng.
Vấn đề nhận thức luận được xem là một trong những vấn đề trọng tâm
của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch
sử triết học. Việc trả lời cho câu hỏi "Con người có khả năng nhận thức
được thế giới hay không?" được xem là một trong những tiêu chí để xác
định lập trường triết học duy vật hay duy tâm. Đó cũng chính là điều mà
Immanuel Kant đã đặt ra trong nhận thức luận của mình với câu hỏi "Tơi
có thể biết được cái gì?”. Kế thừa những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa
duy lý và chủ nghĩa duy nghiệm, Kant đã tạo ra một bước ngoặt trong lịch


4

sử tư tưởng triết học phương Tây. Nhận thức luận của Kant là một trong
những tiền đề lý luận để các trào lưu triết học sau nó hình thành, các trào
lưu triết học đó đều ít nhiều xoay quanh các vấn đề mà Kant đã đặt ra. Do

đó, việc nghiên cứu nhận thức luận của Kant, đặc biệt là tư tưởng của ơng
về biện chứng của q trình nhận thức có thể giúp chúng ta hiểu sâu sắc
hơn về lịch sử tư tưởng triết học phương Tây nói chung và triết học cổ điển
Đức nói riêng, giúp chúng ta nâng cao tư duy lý luận, có cơ sở để tiếp thu
tốt hơn những quan điểm về nhận thức trong triết học Mác-Lênin và hiểu
thêm những khuynh hướng triết học phương Tây hiện nay.
Mặc dù trong những năm gần đây, số người quan tâm đến triết học,
nghiên cứu triết học ngoài mácxít tuy có gia tăng những vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp phát triển lý luận nói chung, triết học
nói riêng. Bên cạnh đó, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan,
việc nghiên cứu về triết học Kant nói chung, nhận thức luận của Kant nói
riêng chưa đáp ứng được u cầu tìm hiểu chuyên sâu của chương trình đào
tạo đại học và sau đại học [13, 21]. Vì vậy, việc nghiên cứu những tư tưởng
của Kant về vấn đề nhận thức luận và giá trị của nó sẽ góp phần đáp ứng
nhu cầu tìm hiểu chun sâu về triết học của Kant nói riêng và triết học cổ
điển Đức nói chung.
Xuất phát từ những yêu cầu lý luận và thực tiễn trên, tôi đã chọn: "Tư
tưởng triết học của Immanuel Kant về biện chứng của quá trình nhận thức
và ý nghĩa lịch sử của nó" làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình.
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Immanuel Kant là người sáng lập nền triết học cổ điển Đức, nhà văn
hóa lớn của phương Tây thế kỷ XVIII – XIX. Tư tưởng triết học của ông đề
cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau như: toán học, thiên văn, vật lý, đạo đức,
thẩm mỹ, tôn giáo, nhân bản học, giáo dục học và các quan điểm chính trị


5

xã hội khác. Có thể chia tài liệu nghiên cứu về triết học Kant thành ba
hướng chính:

Hướng nghiên cứu thứ nhất là những tác phẩm nghiên cứu về triết học
Kant nói chung. Chúng ta đã có khá nhiều sách báo đã đăng tải các cơng
trình nghiên cứu về triết học Kant. Đó là Triết học Kant của Ngun Sa, tạp
chí Sáng tạo số 11 và 12, xuất bản năm 1957, Thử tóm tắt học thuyết Kant
của Hịa Ngun Nguyễn Hóa, tạp chí Bách khoa, số 13, xuất bản năm
1957. Ngồi ra, cịn rất nhiều cơng trình viết về Kant, trong đó đáng chú ý
là tác phẩm Triết học Kant của Trần Thái Đỉnh được xuất bản vào năm
1957. Trong tác phẩm này, tác giả đã trình bày triết học Kant thời kỳ phê
phán một cách hệ thống thông qua việc phân tích nội dung của bộ ba tác
phẩm Phê phán, đó là: Phê phán lý tính thuần túy, Phê phán lý tính thực
tiễn, Phê phán năng lực phán đốn . Tác phẩm này đã được Nxb. Văn hóa
thơng tin tái bản năm 2005. Nhìn chung, trong các tác phẩm trên, các tác
giả đã trình bày và phân tích những nội dung cơ bản nhất của triết học Kant
như vấn đề nhận thức luận, đạo đức, thẩm mỹ, … đồng thời đưa ra những
nhận định, đánh giá về giá trị của triết học Kant cũng như ảnh hưởng của
nó tới các trào lưu triết học phương Tây từ đấy về sau.
Ngoài ra, triết học Kant cịn được trình bày trong những tác phẩm khác
như Lịch sử triết học: triết học cổ điển Đức của Viện hàn lâm khoa học xã
hội Liên Xô được Nxb. Sự thật xuất bản năm 1992, đây là tác phẩm nghiên
cứu riêng về triết học cổ điển Đức cùng với các triết gia tiêu biểu mà Kant
là người sáng lập, tác phẩm đã đề cập đến những nội dung cơ bản của triết
học Kant như vấn đề nhận thức luận, đạo đức, thẩm mỹ…; trong năm 2001
Nxb. Trẻ xuất bản tác phẩm Lịch sử triết học của TS. Hà Thiên Sơn,
GS.TS Nguyễn Hữu Vui trong Lịch sử triết học (Nxb. Chính trị Quốc gia,
1998) đã trình bày khái quát tư tưởng triết học của Kant, trong đó nhận


6

thức luận được xem là một trong những nội dung cơ bản nhất. Ngồi ra cịn

có tác phẩm Đại cương lịch sử triết học phương Tây của TS. Đỗ Minh Hợp,
TS. Nguyễn Thanh, TS. Nguyễn Anh Tuấn do Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí
Minh xuất bản năm 2006, trong đó đã trình bày một cách khái quát và khá
đầy đủ về những nội dung chủ yếu nhất của triết học Kant với hai bộ phận
quan trọng nhất là nhận thức luận và đạo đức học. Bên cạnh đó, có thể kể
đến tác phẩm Minh triết trong tư tưởng phương Tây của Nguyễn Thu
Phong (Hoàng Vũ) do Nxb. TPHCM xuất bản năm 2002. Năm 1997, Nxb.
Khoa học xã hội Hà Nội xuất bản tác phẩm I.Cantơ – sáng lập nền triết học
cổ điển Đức do GS. Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên, tác phẩm là tập hợp
những bài viết của các tác giả trình bày những tư tưởng triết học của Kant,
đồng thời đánh giá sự tiếp nhận Kant, mối quan hệ của triết học phương
Tây hiện đại nói chung và của một số tác giả nói riêng với triết học Kant,
vai trò của Kant đối với sự phát triển của triết học. Năm 2006, Nxb. Thế
giới, Hà Nội xuất bản tác phẩm Triết học cổ điển Đức của TS. Lê Công Sự,
tác phẩm là sự trình bày về những triết gia lớn của triết học cổ điển Đức,
trong đó trình bày những điểm cơ bản của triết học Kant với tư cách là
người sáng lập nền triết học này. Ngoài ra, những nghiên cứu của PGS.TS
Đinh Ngọc Thạch về triết học cổ điển Đức trong tác phẩm Triết học cổ điển
Đức (Tủ sách Đại học Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh, 1989), về lịch sử triết
học phương Tây, trong đó có triết học cổ điển Đức, thể hiện ở cuốn Đại
cương lịch sử triết học phương Tây (đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh,
1993) và các chuyên đề triết học sau đại học chuyên triết góp phần làm rõ
hơn những đóng góp của triết học Kant đối với nền triết học phương Tây
nói chung.
Hướng nghiên cứu thứ hai là những tác phẩm nghiên cứu về triết học
đạo đức Kant. Nhìn chung, các tài liệu nghiên cứu về triết học đạo đức của


7


Kant trong những năm gần đây đã nhiều hơn trước. Trong kỷ yếu hội thảo
quốc tế Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức
học do Nxb. Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2006 có 23 báo cáo tham
luận trong và ngồi nước nghiên cứu về triết học đạo đức học của Kant.
Hầu hết các báo cáo đều đề cao tính nhân văn của triết học đạo đức Kant.
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn cho rằng, triết học đạo đức của Kant thấm
đượm tính nhân văn, đem lại cho con người một cách nhìn mới hơn về thế
giới và về chính bản thân mình. Tinh thần nhân văn và lạc quan đó thể hiện
ra như những tư tưởng vượt thời đại nhằm hướng tới các giá trị toàn nhân
loại. Các bài nghiên cứu của PGS. TS Nguyễn Thế Nghĩa, PGS. TS Đặng
Hữu Toàn, PGS. TS Nguyễn Quang Hưng, ThS Nguyễn Kim Lai, ThS Vũ
Thị Thu Lan, TS. Lê Công Sự, TS. Ngô Thị Mỹ Dung v.v.., đã tập trung
làm rõ những luận điểm cơ bản của triết học đạo đức Kant, cũng như ảnh
hưởng của nó đối với triết học phương Tây đương đại. Bên cạnh đó có thể
kể đến cơng trình nghiên cứu của TS. Ngô Thị Mỹ Dung về Triết học đạo
đức của Immanuel Kant và ảnh hưởng của nó đối với triết học Đức thế kỷ
XIX (luận án Tiến sỹ Triết học, 2008), luận án là cơng trình nghiên cứu
chun sâu về triết học đạo đức Kant được dựa những tài liệu tham khảo
chủ yếu bằng tiếng Đức, mang tính chính xác và độ tin cậy cao. Ngoài ra,
những điểm cơ bản của tư tưởng Kant về triết học đạo đức cũng được trình
bày khái quát trong các tác phẩm thuộc hướng nghiên cứu thứ nhất.
Hướng nghiên cứu thứ ba là những tác phẩm nghiên cứu riêng về nhận
thức luận của Kant. Trong những năm gần đây, số lượng cơng trình nghiên
cứu về Kant tăng đáng kể, trong đó số lượng cơng trình nghiên cứu về nhận
thức luận của Kant cũng khá nhiều, tập trung vào việc phân tích nội dung
nhận thức luận trong triết học Kant và đưa ra những nhận định, đánh giá về
đóng góp và ảnh hưởng của nó đối với nhân loại với những tác phẩm nổi


8


bật như : Tác phẩm Triết học cổ điển Đức do PGS.TS Đinh Ngọc Thạch
chủ biên, tủ sách Đại học Tổng hợp,Tp. Hồ Chí Minh, năm 1989 đã trình
bày nội dung cơ bản của triết học Kant, trong đó có nhận thức luận của ơng
với các giải thích về những vấn đề như “vật tự nó”, “thế giới hiện tượng”,
các phạm trù, các nghịch lý của nhận thức lý tính… một cách khái quát, dễ
hiểu.
Với tác phẩm I. Cantơ – Người sáng lập nền triết học cổ điển Đức, GS.
Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên, Nxb. Khoa học Xã hội, xuất bản năm 1997,
tác giả đã tập hợp những bài viết của các nhà nghiên cứu trình bày các tư
tưởng cơ bản của triết học Kant về các vấn đề đạo đức, pháp quyền, thẩm
mỹ, trong đó nổi bật là vấn đề nhận thức luận, từ đó đưa ra những nhận
định về giá trị và hạn chế của nó, đồng thời nêu lên vai trò của triết học
Kant đối với sự phát triển của triết học phương Tây. Hay tác phẩm Triết học
Immanuin Cantơ (1724-1804), triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII – XIX của
GS. Nguyễn Văn Huyên, Nxb. Khoa học Xã hội Hà Nội xuất bản năm 1996,
tác phẩm trình bày những tư tưởng cơ bản của triết học Kant thông qua việc
nghiên cứu ba tác phẩm lớn của Kant thời kỳ phê phán, đó là Phê phán lý
tính thuần túy, Phê phán lý tính thực tiễn, Phê phán năng lực phán đoán,
đồng thời đưa ra những đánh giá khái quát của tác giả về triết học Kant.
Trong kỷ yếu hội thảo quốc tế Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề
nhận thức luận và đạo đức học do Nxb. Chính trị Quốc gia xuất bản năm
2006 có 17 báo cáo tham luận trong và ngoài nước nghiên cứu về nhận
thức luận của Kant. Các báo cáo đã tập trung làm rõ quan điểm của Kant về
quá trình nhận thức và những điểm lưu ý khi nghiên cứu quá trình này.
Đáng lưu ý ở đây là ý kiến trao đổi của GS.TS Tô Duy Hợp, PGS.TS Đỗ
Văn Khang, PGS. Bùi Dăng Duy và các TS. Dương Văn Thịnh, Nguyễn
Anh Tuấn, Nguyễn Vũ Hảo, Phạm Văn Chung, Phạm Thái Việt xung quanh



9

việc hiểu thế nào cho đúng những khái niệm cơ bản của triết học tiên
nghiệm Kant: cái tiên nghiệm, cái siêu nghiệm, cái siêu việt, vật tự nó,
niệm thức, lược đồ, trí tưởng tượng, các q trình tổng hợp tri thức, chất
thể và mô thức tư duy, thực tiễn, điểm mù lý tính, nan đề và hóa giải nan
đề… Tuy còn những ý kiến khác nhau xung quanh những khái niệm trên,
nhưng các nhà khoa học đều nhất trí với nhau ở một điểm, những ý kiến
khác nhau đó khơng hẳn là do khó khăn về mặt thuật ngữ mà do cách hiểu
của chúng ta về nhận thức luận của Kant cịn chưa nhất qn. Ngồi ra,
những báo cáo trên cũng đã làm rõ ảnh hưởng của nhận thức luận của Kant
đối với sự hình thành, phát triển của triết học Mác và các trào lưu, khuynh
hướng triết học phương Tây sau này (như các báo cáo của PGS. Bùi Đăng
Duy, TS. Đồ Minh Hợp, PGS.TS Hồ Sỹ Quý, TS. Nguyễn Thanh Tuấn).
Tác phẩm Học thuyết phạm trù trong triết học I.Kant của TS. Lê Cơng Sự
được Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2007 đã trình bày về những
phạm trù cơ bản của triết học Kant, trong đó có nhận thức luận, cũng đã
được phân tích, đánh giá, và tìm ra những ảnh hưởng, tác động của chúng
đối với triết học hiện đại và đời sống nhận thức lý luận trong xã hội Việt
Nam hiện nay. Tác phẩm Đâu là căn nguyên tư tưởng hay con đường triết
lý từ Kant đến Heidegger của GS.Lê Tôn Nghiêm, Nxb. Văn học, xuất bản
năm 2009 trình bày những tư tưởng cơ bản của Kant về vấn đề Siêu hình
học, về ý nghĩa của nó như triết học về tính hữu hạn và sau cùng, về
phương pháp "tiếp thu sáng tạo" của Heidegger đối với các triết gia đi trước.
Ngồi ra cịn có một số tài liệu nước ngồi nghiên cứu triết học Kant,
có thể kể đến như : tác phẩm Element of modern philosophy: Descartes
through Kant của W.H.Brenner được xuất bản năm 1989 của Nxb. Prentice
Hall, tác phẩm đề cập đến dòng chảy tư tưởng từ Descartes đến Kant,
những ảnh hưởng nhất định của triết học Descartes đến tư tưởng của Kant



10

sau này; Các triết thuyết lớn của Dominique Folscheid được Nxb. Thế giới,
Hà Nội xuất bản năm 1998 đề cập đến các học thuyết triết học lớn từ cổ đại
đến hiện đại, trong đó Kant là một trong những đại biểu nổi bật; tác phẩm
Lịch sử phép biện chứng, tập III, phép biện chứng cổ điển Đức của Viện
hàn lâm khoa học Liên Xô – Viện triết học do GS. Nguyễn Trọng Chuẩn
dịch và chú giải được Nxb. Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1998, tác
phẩm trình bày những tư tưởng biện chứng của các triết gia lỗi lạc của nền
triết học cổ điển Đức, trong đó những tư tưởng biện chứng của Kant được
nhấn mạnh vì nó là tiền đề lý luận cho những triết gia sau đó kế thừa và
phát triển. Ngồi ra cịn có các tác phẩm Lịch sử triết học từ cổ điển đến
cận đại của Dagoberts D. Runes, người dịch Phạm Văn Liễn, được Nxb.
Văn hóa Thơng tin xuất bản năm 2006, cuốn Nhập môn triết học phương
Tây, của Samuel Enoch Stumpf và Donald C.Abel, người dịch Lưu Văn Hy,
Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2004, đây là những
tác phẩm nghiên cứu về những quan điểm triết học cơ bản của Kant, trong
đó có nhận thức luận và những ảnh hưởng của các quan điểm đó đối với
các hệ thống tư tưởng triết học phương Tây sau này.
Nhìn chung, tài liệu viết về triết học Kant, trong đó có nhận thức luận,
những năm gần đây xuất hiện khá nhiều. Thơng qua các giáo trình, tài liệu
giảng dạy, cũng như những bài báo cáo tham luận, vấn đề nhận thức luận
của Kant đã được giới thiệu một cách tổng quát, đem lại cho người đọc cái
nhìn ban đầu và những đánh giá khái quát nhất.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa kết quả các cơng trình nghiên cứu trên, luận
văn sẽ trình bày và phân tích những tư tưởng triết học của Kant về biện
chứng của quá trình nhận thức, từ đó đưa ra những nhận định về ý nghĩa
lịch sử của nó, góp phần đáp ứng nhu cầu tìm hiểu chuyên sâu về triết học
Kant.



11

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là trình bày và phân tích tư tưởng triết học Kant
về biện chứng của quá trình nhận thức, từ đó rút ra ý nghĩa lịch sử của nó
đối với với sự phát triển của các tư tưởng triết học phương Tây từ đấy về
sau.
Nhiệm vụ của luận văn là:
Thứ nhất, khái quát quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học
của Kant, từ đó làm rõ vai trị của nhận thức luận trong tồn bộ hệ thống
triết học Kant.
Thứ hai, trình bày và phân tích những nội dung cơ bản tư tưởng biện
chứng của quá trình nhận thức theo quan điểm của Kant. Từ đó rút ra ý
nghĩa lịch sử của nó đối với sự phát triển tư tưởng triết học phương Tây.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn không nghiên cứu toàn bộ tư tưởng triết học Kant mà chỉ
nghiên cứu về tư tưởng triết học của Kant về biện chứng của quá trình nhận
thức và ý nghĩa lịch sử của nó.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn dựa trên thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp so sánh và đối chiếu,
phương pháp logic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, để làm
rõ nội dung tư tưởng và ý nghĩa lịch sử của tư tưởng của Kant về biện
chứng của quá trình nhận thức.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Về ý nghĩa khoa học: luận văn góp phần làm rõ hơn tư tưởng về biện
chứng của q trình nhận thức trong triết học Kant, góp phần nâng cao

năng lực tư duy lý luận.


12

Về ý nghĩa thực tiễn: luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
sinh viên chuyên ngành triết học và các ngành khoa học xã hội khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được chia thành 2 chương và 4 tiết.


13

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA IMMANUEL KANT

1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội và những tiền đề tác động đến
sự ra đời của triết học Immanuel Kant
Bất kỳ tư tưởng triết học nào cũng chịu sự quy định của thời đại, đó là
điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên. Sự
ra đời của tư tưởng triết học Immanuel Kant (1724 – 1804) cũng khơng
nằm ngồi quy luật đó.
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội của nước Đức thế kỷ XVII - XVIII với hai đặc
điểm lớn là sự chia cắt về chính trị và lạc hậu về kinh tế, đã ảnh hưởng
mạnh mẽ đến tư tưởng triết học Immanuel Kant.

Về chính trị, trong nửa sau thế kỷ XVII và trong thế kỷ XVIII, Phổ đã
phát triển nhanh hơn các nước khác trong đế quốc Rome German thần
thánh, nhưng sự phát triển ấy khơng mang tính chất tiến bộ.
Nước Đức già cỗi lúc bấy giờ chính thức được gọi là “đế quốc La Mã
thần thánh của dân tộc German”. Sự chia cắt về mặt chính trị được thể hiện
rõ nhất qua cuộc chiến tranh giữa hoàng đế và các nước chư hầu (1618 –
1648). Với hòa ước Westfallen, cuộc chiến 30 năm kết thúc nhưng trên toàn
bộ lãnh thổ của vương quốc Đức vẫn tồn tại trên 300 nước chư hầu và
nhiều lãnh địa kỵ sĩ.
Sau cuộc chiến tranh Bảy năm (1756 – 1763), ưu thế của Phổ ở Đức


14

được xác lập, Phổ đóng một vai trị quan trọng trong lịch sử nước Đức,
nhưng không phải là một vai trị tiến bộ. Triều đình Phổ đứng đầu là vua
Friedrich Wilhelm II, vẫn rất bảo thủ và ngoan cố tăng cường quyền lực,
duy trì chế độ quân chủ chuyên chế hà khắc, ngăn cản đất nước đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Chính sách của Phổ khơng nhằm thống nhất dân
tộc Đức, mà chỉ nhằm chiếm đoạt đất đai, mặt khác sự phát triển của Phổ
mang tính chất quân phiệt nặng nề. Điều ấy sẽ để lại hậu quả lớn lao cho
lịch sử của Đức. Xã hội Phổ cũng như xã hội Đức bị kìm hãm trong chế độ
phong kiến nông nô [85, 118].
Nghiêm trọng hơn cả là sự tái diễn chế độ nông nô lần thứ hai trong thế
kỷ XVII đã đẩy những người nơng dân trên tồn vương quốc Đức đến chỗ
cùng cực. Nổi bật nhất của sự tái diễn này là các vùng phía bắc và đơng bắc
nước Đức, trong đó có vương quốc Phổ, q hương của nhà triết học Kant.
Ở đây không chỉ tồn tại chế độ trung ương tập quyền mà còn là một chính
thể quân chủ với quân đội hùng mạnh và tầng lớp công chức quý tộc. Hầu
hết nông dân đều bị nơng nơ hóa và giai cấp địa chủ q tộc thường áp

dụng những hình thức cai trị hết sức tàn nhẫn đối với họ [16, 19].
Chiến tranh đã "dẫm nát" nhiều thành thị, phá hoại hầu hết các vùng
nông thôn và làm cho kinh tế nước Đức ngày càng suy sụp. Hơn nữa, sự
manh mún, chia cắt của nước Đức đã tạo nên những hệ thống pháp luật
riêng, "cân, đong, đo, đếm" riêng, hệ thống tiền tệ riêng. Đặc biệt sự tồn tại
khá dày của các trạm thuế quan tại biên giới đã cản trở việc lưu thơng hàng
hóa, làm cho nước Đức không thể trở thành một thị trường thống nhất được
[84, 149-152].
Sự kém phát triển của công thương nghiệp đã khiến giai cấp tư sản bắt
đầu chuyển qua đầu tư ruộng đất, kéo theo sự quay trở lại của chế độ nông
nô. Sự tồn tại của chế độ nông nô đã gây trở ngại rất to lớn cho sự phát


15

triển kinh tế ở nước Đức và tước đoạt hầu hết các quyền tự do của nông
dân. Người nông dân bị tùy ý hành hạ, họ không được học những nghề thủ
cơng, khơng được địa chủ đồng ý thì khơng được kết hôn, họ cũng thường
bị đem bán, cho mượn hay đem cầm cố [84,153].
Vì thế trong thời kỳ đó, nếu nước Anh, nhờ cách mạng tư sản và bước
ngoặt công nghiệp mà trở thành quốc gia tư bản lớn mạnh nhất, và ở Pháp,
nhờ kết quả của cách mạng năm 1789, giai cấp tư sản đã tiêu diệt chủ nghĩa
phong kiến, đang tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa thì nước Đức
hãy cịn là một nước nửa phong kiến bị phân hóa cả về kinh tế lẫn chính trị.
Những tàn tích của chế độ nơng nơ, chế độ phường hội, chúa đất; sự tồn tại
của nhiều quốc gia nhỏ bé phụ thuộc lẫn nhau với các thể chế chính trị
phản động, v.v.. khơng chỉ kìm hãm sự phát triển mà còn làm tăng thêm
mức độ lạc hậu của nước Đức so với các nước đã phát triển quan hệ tư bản
chủ nghĩa. Có nghĩa là trong khi các nước Châu Âu trên con đường phát
triển tư bản chủ nghĩa thì nước Đức vẫn triền miên trong giấc ngủ mùa

đông, vẫn là một nước quân chủ chuyên chế phân quyền, thấp kém và lạc
hậu về kinh tế; bảo thủ, trì trệ về chính trị – tư tưởng do đường lối chủ đạo
của Friderique II là duy trì giai cấp quý tộc chống lại thời đại tư bản đang
bắt đầu. Vì thế, sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa bị cản trở, thành thị
và công thương nghiệp ở vào tình trạng đình trệ so với các nước tiên tiến ở
Tây Âu. Đó là kết quả của cái gọi là “chủ nghĩa chuyên chế sáng suốt” của
các vua Phổ [84, 119].
Sự phân tán về kinh tế và chính trị là lực cản lớn của nước Đức trên con
đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Xét theo mức độ cách mạng thì nước
Đức lạc hậu hơn so với nước Anh 200 năm, so với nước Pháp là 50 năm
[64, 5].
Bối cảnh kinh tế xã hội của vương quốc Đức lúc bấy giờ được Engels


16

nêu rõ trong bài “Tình hình nước Đức” (đăng trên tạp chí “The Northern
Star” ngày 25 tháng 10 năm 1845) như sau: “Đấy là một đống những cái
chán chường, mục nát và tan rã. Không ai cảm thấy dễ chịu, thủ công
nghiệp, thương nghiệp, công nghiệp và nông nghiệp trong nước đều rơi vào
cảnh điêu tàn cùng cực. Nông dân, thợ thủ cơng và chủ xí nghiệp chịu hai
lần khổ ải: chính quyền ăn bám và trạng thái tiêu điều”[5, 755]. Engels đã
nhận xét rằng, đó là “thời kỳ nhục nhã về mặt chính trị và xã hội”, “mọi thứ
đều nát bét, lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng cịn lấy một tia
hy vọng chuyển biến tốt lên, vì dân tộc thậm chí khơng cịn đủ sức vứt bỏ
cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi” [5, 754].
Tóm lại, sự tự do, nhân phẩm con người trong xã hội Đức thế kỷ XVII,
XVIII bị chà đạp đã ảnh hưởng đến tư tưởng của Kant về ý chí tự do trong
triết học thực tiễn của ông, bên cạnh đó chiến tranh liên miên đã làm nảy
sinh khát vọng tự do và mơ ước về một nhà nước lý tưởng, tiến tới một nền

hịa bình vĩnh cửu trên toàn thế giới.
Tuy nhiên “thời kỳ nhục nhã” đó lại mang một nét đặc biệt rất đáng tự
hào: đó là thời đại vĩ đại trong lịch sử văn hóa nghệ thuật và triết học Đức:
mỗi tác phẩm xuất chúng của thời đại đó đều thấm đượm tinh thần phê
phán, phản kháng, chống lại chế độ xã hội Đức đương thời [5,754-755].
Nhưng tại sao các nhà duy tâm tư sản trong điều kiện kinh tế – xã hội thấp
kém của nước Đức lại làm nên những thành tựu trong triết học?
Lịch sử tư tưởng chứng minh rằng, các học thuyết tư tưởng tiến bộ có
thể nảy sinh trong lịng một nước có trình độ kinh tế lạc hậu hơn, nếu nó
biết tiếp thu thành tựu mọi mặt của các nước tiến bộ khác. Những thành tựu
về kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, mà chế độ tư bản đạt được đã góp
phần khẳng định sức mạnh thể chất và tinh thần của con người trong việc
nhận thức và cải tạo thế giới, đồng thời tạo tiền đề quan trọng cho sự phát


17

triển khoa học nói chung, triết học nói riêng. Thực tiễn nước Đức lúc đó
địi hỏi các nhà triết học phải tìm ra câu trả lời để giải quyết những vấn đề
của đời sống xã hội và sinh hoạt tinh thần lúc bấy giờ. Tuy nhiên, sự non
yếu của giai cấp tư sản Đức đã dẫn đến sự ra đời của các hệ thống triết học
duy tâm và dao động, dễ thỏa hiệp trong tư tưởng chính trị. Như một nhu
cầu lịch sử, triết học thâm nhập vào cuộc sống, tìm tịi và khám phá sức
mạnh lý tính của con người mà triết học Kant là một ví dụ điển hình cho
khuynh hướng đó.
Như vậy, triết học Kant đã ra đời trước nhu cầu bức thiết của thời đại.
Chính điều kiện kinh tế - xã hội nước Đức thế kỷ XVII – XVIII đã trở
thành một trong những nguồn gốc quan trọng hình thành nên triết học Kant.
1.1.2. Tiền đề lý luận
Sau khi tốt nghiệp trung học, vào mùa thu năm 1740, Kant vào học

khoa triết, trường đại học Koenigsberg. Tại đây, chàng sinh viên đầy nhiệt
huyết với khoa học có dịp tiếp cận với quan điểm của những nhà triết học
thuộc chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy nghiệm về vấn đề nhận thức của
con người, tư tưởng chính trị - xã hội của các nhà khai sáng Pháp, đặc biệt
tinh thần hồi nghi có phương pháp của Hume và tư tưởng của Rousseau về
vấn đề tự do ý chí, nhân phẩm con người đã tác động mạnh đến tư tưởng
triết học Kant thời kỳ phê phán.
Trước Kant đã có nhiều nghiên cứu về nguồn gốc của nhận thức con
người, về cách thức con người có được tri thức khoa học. Tuy nhiên do ảnh
hưởng của quan niệm siêu hình và do hạn chế về trình độ khoa học nên các
nhà triết học còn chưa hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm
tính và nhận thức lý tính, chưa hiểu rõ vai trị của hoạt động thực tiễn đối
với quá trình nhận thức. Vì vậy họ thường tách rời nhận thức lý tính với
nhận thức cảm tính, nhấn mạnh chỉ một mặt của q trình nhận thức, hoặc


18

nhận thức lý tính, hoặc nhận thức cảm tính. Điều đó đưa đến việc hình
thành hai quan điểm trái ngược nhau: quan điểm duy lý và quan điểm duy
nghiệm.
Quan điểm duy lý cho rằng nhận thức là quá trình lý trí sáng tạo ra tri
thức, nguồn gốc của tri thức khoa học không bắt nguồn từ kinh nghiệm.
Ngược lại quan điểm duy nghiệm cho rằng nhận thức là quá trình tổng hợp
kinh nghiệm, tổng hợp cảm giác, nguồn gốc duy nhất của tri thức là kinh
nghiệm và phủ định nguồn gốc lý tính của tri thức khoa học.
Chủ nghĩa duy lý (với các đại diện là Rene Descartes, Baruch Spinoza,
Gottfried Leibniz, Christian Wolff, v.v..) có mối liên hệ với triết học kinh
viện trung cổ do cách tiếp cận vào “chiều sâu trí tuệ”, đạt đến trình độ trừu
tượng hố nhằm loại bỏ, như các nhà duy lý tự hào tuyên bố, những chất

liệu ngẫu nhiên của kinh nghiệm. Khuynh hướng này trong triết học cận đại
do Descartes (1596 – 1650) khởi xướng. Chủ nghĩa duy lý đề cao nhận
thức duy lý hình thành từ rất sớm trong lịch sử, nhưng chính Descartes mới
làm cho nó trở thành một trong những khuynh hướng triết học phổ biến của
thế kỷ XVII. Ông cũng là một trong những người sáng lập triết học cận đại,
chiếm lĩnh một trong những đỉnh cao của lịch sử triết học thế giới, được ghi
vào biên niên sử khoa học như một trong những tên tuổi kiệt xuất nhất, cha
đỡ đầu của tri thức khoa học thế kỷ XVIII.
Trong vấn đề nhận thức luận, xuất phát từ mệnh đề "cogito, ergo sum"
("tôi tư duy, vậy tôi tồn tại"), Descartes đề cao vai trị của tư duy lý tính, hạ
thấp vai trị của trực quan cảm tính, đề cao lý luận, hạ thấp kinh nghiệm.
Ơng cho rằng, lý tính có thể tự mình tạo lập ra tri thức xác thực là do sự bất
tử của linh hồn và sự tồn tại của Chúa trời. Kế thừa Descartes, Kant cũng
đề cao vai trị của tốn học và nhận thức lý tính của con người [57, 68].
Thuộc vào trường phái duy lý, tuy nhiên Spinoza (1632 – 1677) cho


19

rằng q trình nhận thức gồm nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính,
nhưng ơng coi thường nhận thức cảm tính, quy cho cảm tính trách nhiệm
gây ra những sai lầm trong nhận thức. Spinoza chia nhận thức thành ba loại:
nhận thức cảm tính, nhận thức giác tính, nhận thức trực giác. Spinoza đã
phân biệt sự khác nhau về chất của các trình độ nhận thức là cảm tính và lý
tính. Tuy nhiên, ơng lại tách rời các trình độ nhận thức đó, khơng thấy mối
quan hệ biện chứng giữa chúng. Ở đây ông đã rơi vào quan điểm siêu hình.
Ơng đặc biệt đánh giá cao vị trí của nhận thức giác tính và nhận thức trực
giác, coi đó là khả năng trí tuệ cao nhất, cịn cảm tính chỉ là giả tạo, sai lầm.
Dù còn những hạn chế nhưng những quan điểm của Spinoza có thể đã gợi ý
cho Kant về đặc tính tam cấp trong nhận thức: cảm tính, giác tính, lý tính

[57, 70].
Ngồi ra, tư tưởng triết học của Kant còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng
Wolff (1679 – 1754) - “nhà triết học giáo điều vĩ đại nhất” [55, 243]. Wolff
thừa nhận kinh nghiệm cảm tính cũng là một nguồn nhận thức nhưng sơ
cấp, khơng thể là cơ sở và ranh giới cuối cùng của nhận thức được, trái lại
chính lý tính mới khắc phục được sự hời hợt, hỗn loạn của kinh nghiệm
cảm tính để đạt được chân lý [32, 24 – 25]. Kant còn cho rằng, Wolff là
người trước hết đã nêu gương (và qua việc này đã trở thành người khai sinh
tinh thần nghiên cứu cặn kẽ và nghiêm túc đến nay vẫn chưa mất đi của
nước Đức) về việc làm thế nào để có được bước đi vững chắc của một khoa
học bằng cách phải khẳng định các nguyên tắc một cách hợp quy luật, xác
định rõ ràng các khái niệm, bảo đảm sự chặt chẽ của các chứng minh, tránh
các bước nhảy liều lĩnh trong khi rút ra các kết luận [32, 61].
Trong sự hình thành những ý tưởng nhận thức luận mới của Kant, tác
phẩm "Những kinh nghiệm mới" của Leibniz (1646 – 1716) đóng vai trị
quan trọng. Cả hai nhà triết học đều có một mục đích chung là dung hòa


20

chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy lý, xuất phát từ việc phân loại đối
tượng nhận thức thành “hiện tượng” và “vật tự nó”. Bên cạnh đó, Leibniz
gọi những chân lý mà Wolff đề cập đến được là “những chân lý của lý tính”
hay những chân lý thuần lý, chân lý của lý tính là những chân lý hiển nhiên,
vĩnh viễn, còn những chân lý do kinh nghiệm đem lại thì khơng có tính tất
yếu [55, 212]. Kế thừa tư tưởng này, Kant cho rằng chân lý đạt được bằng
con đường kinh nghiệm chỉ có ý nghĩa riêng, trong khi đó chân lý đạt được
bằng lý tính thì có ý nghĩa phổ quát và tất yếu [56, 72].
Nhìn chung, những người theo chủ nghĩa duy lý đã tuyệt đối hóa năng
lực lý tính và cho rằng, con người có thể đạt tới các tri thức khoa học về tự

nhiên bằng con đường suy diễn toán học, kinh nghiệm dựa trên cảm giác
không thể trở thành cơ sở cho phương pháp khoa học chung được. Và
những quan điểm này của chủ nghĩa duy lý đã được Kant tiếp thu và đưa
vào nhận thức luận của mình khi ơng thừa nhận vai trị quan trọng của nhận
thức lý tính trong q trình nhận thức của con người.
Đối lập với chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa duy nghiệm (các đại diện là
Francis Bacon, John Locke, George Berkeley, David Hume, v.v..) cho rằng,
nguồn gốc duy nhất của tri thức là kinh nghiệm có liên quan đến trực quan
cảm tính, cảm giác, tri giác và biểu tượng. Suy cho cùng nội dung của mọi
tri thức đều từ kinh nghiệm mà ra.
Người đặt nền móng cho chủ nghĩa duy nghiệm cận đại là Bacon (1561
– 1626) với nhận định nổi tiếng "Tri thức là sức mạnh", khẳng định sức
mạnh vĩ đại của tri thức khoa học. Muốn có được "sức mạnh" đó phải dựa
trên nền tảng của hai yếu tố: kinh nghiệm và lý tính. Tuy nhiên, ơng vẫn đề
cao vai trị của kinh nghiệm cảm tính.
Phủ nhận quan điểm duy lý của trường phái Descartes, Locke (1632 1704) nhấn mạnh rằng tri thức chỉ xuất phát từ kinh nghiệm. Mệnh đề nổi


21

tiếng của Locke: Khơng có gì trong giác tính nếu trước đó khơng có trong
giác quan [55, 216], điều đó cũng có nghĩa mọi tri thức đều dựa trên kinh
nghiệm và suy cho cùng đều xuất phát từ đó. Locke cho rằng, thế giới tồn
tại đa dạng phức tạp nên nhận thức thế giới là một vấn đề khó khăn. Chính
ở đây đã nảy sinh mầm mống những tư tưởng của chủ nghĩa hoài nghi, chủ
nghĩa duy tâm chủ quan, để rồi sau đó được Berkeledrfhy và Hume phát
triển. Đến Kant, chủ nghĩa hoài nghi được nâng lên thành thuyết bất khả tri,
còn chủ nghĩa duy tâm chủ quan được nâng lên thành chủ nghĩa duy tâm
tiên nghiệm [56, 59].
Trong các triết gia của chủ nghĩa kinh nghiệm phải kể đến Berkeley

(1685 – 1753) - triết gia vĩ đại thuộc trường phái kinh nghiệm Anh. Ông đã
phát triển tiền đề của Locke và đi đến kết luận rằng nếu mọi tri thức đều
xuất phát từ kinh nghiệm, bất kỳ sự vật nào không thể chứng nghiệm được
đều không thực hữu, những gì nằm ngồi phạm vi thực nghiệm đều khơng
thực hữu.
Một triết gia nổi tiếng khác của chủ nghĩa duy nghiệm là Hume (1711
– 1776), người đã tạo ra ảnh hưởng nhất định đến cách Kant luận giải vai
trò của cảm tính trong nhận thức, và thực tế cho thấy nhận thức luận Kant
đã chịu ảnh hưởng rất đáng kể của triết học Hume [12, 70-71]. Hume đã có
cơng rất lớn trong việc khai mở cho Kant một hướng tư duy mới. Tinh thần
hồi nghi có phương pháp của Hume đã đánh thức Kant ra khỏi giấc ngủ
giáo điều nhiều năm về trước và vạch ra một hướng đi mới cho những
nghiên cứu trong tư duy triết học của ông [32, 1110]. Kant nhận ra rằng
khi nói đến nguyên tắc nhân quả, tất cả các nhà triết học trước đó đều sai
lầm khi cho rằng tất cả đều phải có nguyên nhân “trước sau” và dựa vào đó
để chấp nhận nguyên nhân đầu tiên là Thượng đế. Nghi vấn về nguyên tắc
nhân quả của Hume đã giúp Kant tiến xa trong việc nghiên cứu những vấn


22

đề tương quan giữa các khái niệm khác [16, 27].
Quan sát những đối tượng của tri thức, Hume đã đưa ra ngun tắc liên
tưởng, theo đó tất cả những gì mà đối tượng mang lại được liên kết thống
nhất thành biểu tượng trong tư tưởng. Nhưng sự liên kết này nằm ở đâu? Ở
chính sự vật, trong tri giác trực tiếp hay trong sự diễn dịch của lý tính? Cái
gì tạo nên tương quan giữa tưởng tượng và đối tượng bên ngồi? Đó là nghi
vấn khởi điểm mà Kant đã tiếp thu từ Hume cho sự phê phán trong triết học
của mình. Tuy nhiên “Kant đã từ chối đi theo kết luận của Hume rằng
ngun tắc nhân quả khơng có giá trị phổ qt, tức là nó khơng giải quyết

được vấn đề đặt ra của siêu hình học thời bấy giờ là làm thế nào để có được
tri thức khoa học” [16, 28].
Những quan điểm phiến diện, không đầy đủ và đối lập về nguồn gốc,
bản chất nhận thức của chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy nghiệm thế kỷ
XVII - XVIII đã dẫn đến sự bế tắc về mặt lý luận trong việc nghiên cứu về
nguồn gốc, đối tượng, phương pháp của vấn đề nhận thức. Nếu như chủ
nghĩa duy nghiệm cố gắng nghiên cứu những tư tưởng của con người từ
phía nội dung của chúng thì chủ nghĩa duy lý lại chú trọng nghiên cứu khía
cạnh lơgic của các tư tưởng, quan tâm đến các hình thức khác nhau của nó.
Vì vậy, nếu tán thành quan niệm của chủ nghĩa duy nghiệm thì phải thừa
nhận rằng, mọi tri thức khoa học chỉ là những hiểu biết vụn vặt, ngẫu nhiên,
hay thay đổi; nếu tán thành quan điểm của chủ nghĩa duy lý thì phải thừa
nhận rằng, mọi tri thức khoa học là kết quả sáng tạo của trí tuệ con người
mà khơng cần đến sự tồn tại của hiện thực khách quan.
Hobbes (1588 – 1679), dù là một đại biểu của chủ nghĩa duy nghiệm,
nhưng ông đã nhìn thấy tính chất mâu thuẫn của chủ nghĩa duy nghiệm và
chủ nghĩa duy lý trong vấn đề phương pháp và bản chất của nhận thức. Với
mong muốn giúp siêu hình học thốt khỏi cảnh hỗn loạn, trên cơ sở kế thừa


×