Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Từ ngữ chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ lúa gạo trong tiếng tày (có so sánh với tiếng việt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841 KB, 140 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






NGÔN THỊ BÍCH





TỪ NGỮ CHỈ LÚA GẠO VÀ SẢN PHẨM
LÀM TỪ LÚA GẠO TRONG TIẾNG TÀY
(CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT)





LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ










THÁI NGUYÊN, NĂM 2009


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





NGÔN THỊ BÍCH





TỪ NGỮ CHỈ LÚA GẠO VÀ SẢN PHẨM
LÀM TỪ LÚA GẠO TRONG TIẾNG TÀY
(CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT)

Chuyên ngành: Ngôn ngữ
Mã số: 60 22 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS ĐOÀN VĂN PHÚC






THÁI NGUYÊN, NĂM 2009


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS - TS.
Đoàn Văn Phúc, là ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo, dìu dắt và giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo Viện ngôn
ngữ học, các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn và khoa Sau đại học, trƣờng
Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên đã hƣớng dẫn, truyền đạt kiến thức cho tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin đƣợc cảm ơn Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Cao Bằng đã
luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên
cứu.

Thái Nguyên, ngày tháng 10 năm 2009
Học viên

Ngôn Thị Bích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chƣa từng có ai công
bố trong bất kỳ một công trình nào khác.

Tác giả


Ngôn Thị Bích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC

trang
MỞ ĐẦ U ....................................................................................................... 1
1. L DO CHỌN ĐỀ TI .......................................................................... 1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ................................................................................ 2
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...................................................................... 3
4. MC ĐÍCH V NHIM V ................................................................. 4
5. TƢ LIỆ U VÀ PHƢƠNG PHÁ P ............................................................. 5
6. CÁI MỚI V Ý NGHĨ A, ĐÓNG GÓP CỦ A ĐỀ TÀ I ........................... 7
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................. 9

1.1. KHÁI NIM VỀ HÌNH VỊ, TỪ, NGỮ V NGHĨA ............................ 9
1.1.1. Hình vị ............................................................................................ 9
1.1.2. Khái niệm từ .................................................................................. 11
1.1.3. Ngữ ............................................................................................... 13
1.1.4. Nghĩa ............................................................................................. 14
1.1.5. Từ, ngữ chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ lúa gạo ............................ 16
1.2. VẤN ĐỀ ĐỊNH DANH ..................................................................... 18
1.2.1. Khái niệm định danh ..................................................................... 18
1.2.2. Đơn vị định danh và đơn vị miêu tả .............................................. 19
1.3. VI NÉT VỀ NGƢỜI TY V TIẾNG TY Ở VIT NAM .......... 19
1.3.1. Vài nét về ngƣời Tày ở Việt Nam .................................................. 19
1.3.2. Vài nét về tiếng Tày ở Việt Nam ................................................... 23
1.4. NGÔN NGỮ V VĂN HÓA ............................................................ 33
1.4.1. Khái niệm văn hóa ......................................................................... 33
1.4.2. Quan hệ ngôn ngữ và văn hóa ........................................................ 35
1.5. TIỂU KẾT ......................................................................................... 36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ NGỮ NGHĨA TỪ NGỮ CHỈ
LÚA GẠO VÀ SẢN PHẨM LÀM TỪ LÚA GẠO TRONG TIẾNG TÀY
(CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT) .......................................................... 38
2.1. DẪN NHẬP ...................................................................................... 38
2.2. CẤU TRÚC V NGỮ NGHĨA TỪ NGỮ CHỈ LÚA GẠO TRONG TIẾNG
TÀY ......................................................................................................... 39
2.2.1. Tình hình tƣ liệu ............................................................................ 39
2.2.2. Đặc điểm cấu trúc của từ chỉ lúa gạo ............................................. 40
2.2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa ....................................................................... 42
2.2.4. Đặc điểm phƣơng thức định danh .................................................. 45
2.2.5. Cấu trúc và ngữ nghĩa của ngữ chỉ lúa gạo .................................... 48
2.3. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC V NGỮ NGHĨA TỪ NGỮ CHỈ SẢN

PHẨM LM TỪ LÚA GẠO ................................................................... 49
2.3.1. Tình hình tƣ liệu ............................................................................ 49
2.3.2. Đặc điểm cấu trúc từ ...................................................................... 51
2.3.3. Đặc điểm ngữ nghĩa ....................................................................... 54
2.3.4. Đặc điểm phƣơng thức định danh .................................................. 55
2.3.5. Cấu trúc và ngữ nghĩa của ngữ chỉ sản phẩm làm từ lúa gạo .......... 58
2.4. SỰ TƢƠNG ĐỒNG V KHÁC BIT CỦA TỪ NGỮ CHỈ LÚA
GẠO V SẢN PHẨM LM TỪ LÚA GẠO TRONG TIẾNG TY V
TIẾNG VIT ............................................................................................ 60
2.4.1. Sự tƣơng đồng ............................................................................... 60
2.4.2. Sự khác biệt ................................................................................... 63
2.5. TIỂU KẾT ......................................................................................... 65
Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA TỪ NGỮ CHỈ LÚA GẠO VÀ SẢN
PHẨM LÀM TỪ LÚA GẠO TRONG TIẾNG TÀY (CÓ SO SÁNH VỚI
TIẾNG VIỆT) ............................................................................................. 67
3.1. DẪN NHẬP ...................................................................................... 67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3.2. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA TỪ NGỮ CHỈ LÚA GẠO V SẢN PHẨM
LM TỪ LÚA GẠO ............................................................................... 67
3.2.1. Đặc điểm phƣơng thức canh tác nông nghiệp ................................ 69
3.2.2. Văn hóa ẩm thực ............................................................................ 70
3.2.3. Văn hóa ứng xử ............................................................................. 78
3.2.4. Văn hóa tâm linh ........................................................................... 80
3.3. NHỮNG TƢƠNG ĐỒNG V KHÁC BIT VỀ VĂN HÓA QUA TỪ
NGỮ CHỈ LÚA GẠO V SẢN PHẨM TỪ LÚA GẠO TRONG TIẾNG
TY V TIẾNG VIT ............................................................................ 90
3.3.1. Sự tƣơng đồng ............................................................................... 90
3.3.2. Sự khác biệt ................................................................................... 94
3.4. TIỂU KẾT ......................................................................................... 97

KẾT LUẬN ................................................................................................. 98
PHỤ LỤC


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

MỞ ĐẦ U

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam là một trong những nƣớc thuộc khu vực Đông Nam Á có nền
văn minh nông nghiệp lúa nƣớc điển hình. Xã hội lúa nƣớc Việt Nam đã để
lại những dấu ấn nhất định trong ngôn ngữ, đó là kho tàng từ vựng hết sức
phong phú phản ánh những tri thức của ngƣời Việt về một thế giới xung
quanh cây lúa nƣớc. Đồng thời nền văn minh nông nghiệp của ngƣời Việt
cũng là sự thể hiện rõ nhất của một nền văn hoá nông nghiệp lúa nƣớc. Văn
hoá nông nghiệp lúa nƣớc Việt Nam có những nét chung với các nền văn hoá
lúa nƣớc cùng khu vực, nhƣng lại có những nét khu biệt rất riêng, làm thành
bản sắc văn hoá Việt Nam.
Nƣớc ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó có 53 dân tộc
thiểu số. Trong nền văn hoá đa dân tộc, đa ngôn ngữ đó, mỗi dân tộc anh em
đều có bản sắc văn hoá riêng, tiếng nói riêng của mình. Để xây dựng một nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta phải
giữ gìn và phát huy bản sắc riêng của mỗi dân tộc để đảm bảo tính đa dạng
phong phú của nền văn hoá Việt Nam trong thời đại ngày nay. Đồng thời,
chúng ta cũng cần bảo tồn ngôn ngữ dân tộc vì nó là yếu tố quan trọng nhất
của văn hóa, ghi nhận và bảo tồn giá trị văn hóa, tri thức của dân tộc đó.
Trong số các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam, dân tộc Tày là một cộng
đồng tộc ngƣời có số dân đông nhất, có hơn 1 triệu ngƣời. Cƣ trú trên những

cánh đồng màu mỡ ở các thung lũng trong đó có nhiều cánh đồng khá lớn nhƣ
Hoà An, Tràng Định, Lạng Sơn, Phủ Thông, Bắc Quang, ngƣời Tày đã có
một nền tảng kinh tế trồng lúa nƣớc khá phát triển. Việc trồng lúa nƣớc thay
cho việc trồng cây ăn củ và trồng lúa nƣơng là đặc điểm văn hoá vật chất lớn
nhất của ngƣời Tày. Ở đấy bao gồm tất cả những nét nổi bật và đặc trƣng về
văn hoá vật chất nhƣ ăn, mặc, ở, trồng trọt, chăn nuôi… của ngƣời Tày. Đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
biệt là hệ thống từ ngữ biểu thị tên gọi của lúa, với các trạng thái, các sản
phẩm, chế phẩm lúa gạo do con ngƣời tạo ra.
Việc nghiên cứu tìm hiểu từ ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm từ lúa
gạo của ngƣời Tày thiết nghĩ là việc làm cần thiết, góp phần gìn giữ và bảo vệ
ngôn ngữ dân tộc và phát huy bản sắc văn hoá của ngƣời Tày. Mặt khác nó
giúp chúng ta hiểu một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về một nét văn hoá lâu
đời của đồng bào dân tộc Tày, góp phần làm phong phú thêm về mặt tƣ liệu
văn hoá của dân tộc Tày và văn hoá của dân tộc thiểu số.
Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn vấn đề Từ ngữ chỉ lúa gạo và
sản phẩm làm từ lúa gạo trong tiếng Tày (có so sánh với tiếng Việt) để làm
đề tài nghiên cứu cho mình. Hơn nữa, là ngƣời dân tộc Tày nên việc chọn vấn
đề này làm đề tài luận văn còn nhằm mục đích giúp chính ngƣời viết tìm tòi
và hiểu rõ hơn về ngôn ngữ và văn hoá của dân tộc mình trong toàn bộ tiến
trình phát triển truyền thống văn hoá rất đỗi tự hào của dân tộc. Mặt khác,
việc nghiên cứu này còn nhằm mục đích thiết thực là giúp cho dân tộc khác
hiểu đƣợc hệ thống từ ngữ chỉ lúa gạo, hiểu thêm văn hoá của ngƣời Tày.
Nghiên cứu từ ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm từ lúa gạo của
ngƣời Tày là việc làm cần thiết không những có ý nghĩa về mặt khoa học thực
tiễn mà nó còn góp phần quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ dân tộc Tày
có ý thức giữ gìn và phát huy ngôn ngữ và bản sắc dân tộc.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Từ trƣớc đến nay, có nhiều công trình của các tác giả nghiên cứu về từ
vựng tiếng Tày. Năm 1969, Lạc Dƣơng có bài viết “Tính phong phú của tiếng
Tày – Nùng” in trên báo Việt Nam độc lập; Năm 1969, Nguyễn Hàm Dƣơng
có bài viết “Xây dựng và phát triển hệ thống từ vựng Tày- Nùng” in trên báo
Việt Nam độc lập; “Một vài ý kiến về các từ mƣợn trong tiếng Tày – Nùng”
của Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo in trên Tạp chí ngôn ngữ, năm 1970; “Vài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
nét về sự phát triển của tiếng Tày – Nùng sau Cách mạng tháng Tám” của
Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo in trên Tạp chí ngôn ngữ, năm 1970; “Cách làm
giàu vốn từ vựng Tày - Nùng” của Nguyễn Thiện Giáp in trên báo Việt Nam
độc lập, năm 1970; “Ngữ pháp Tày - Nùng” của Lục văn Pảo, Hoàng Văn
Ma, 1971; “Từ điển Tày Nùng - Việt” của Lục Văn Pảo, Hoàng Văn Ma,
1984; “Về kho từ vựng chung Việt - Tày” của Đoàn Thiện Thuật in trong
Những vấn đề ngôn ngữ học về các phƣơng ngữ phƣơng Đông, 1986…Ngoài
ra, còn có hàng loạt những bài báo, công trình nghiên cứu khác về ngôn ngữ,
dân tộc Tày của Hoàng Ma (xem thêm Thƣ mục tham khảo).
Điểm lại các công trình, bài viết của họ, chúng ta thấy khi viết về từ
vựng trong tiếng Tày, các nhà nghiên cứu thƣờng đề cập đến các vấn đề nhƣ:
Tính phong phú của tiếng Tày - Nùng; Về tình hình từ mƣợn trong tiếng Tày -
Nùng; Sự phát triển về vốn từ, về nghĩa từ của tiếng Tày- Nùng sau Cách
mạng tháng Tám; Nghiên cứu về ý nghĩa của từ, nguồn gốc của từ và cách
cấu tạo của từ trong tiếng Tày - Nùng; Nghiên cứu về sự tƣơng ứng ngữ âm
giữa những từ dạng Tày và dạng Việt, từ đó nghiên cứu về lịch đại góp phần
làm sáng tỏ quá trình tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ. Nhƣng cho đến nay, với
những tƣ liệu hiện có và sự hiểu biết của mình, chúng tôi chƣa thấy có bất kì
một công trình, bài viết nào nghiên cứu về từ vựng ngữ nghĩa, đặc biệt về từ
ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm từ lúa gạo của ngƣời Tày một cách có hệ
thống. Vì vậy, việc chúng tôi nghiên cứu về từ ngữ chỉ lúa gạo và các sản

phẩm làm từ lúa gạo của ngƣời Tày tuy chỉ ở phạm vi nhỏ hẹp, nhƣng lại là
vấn đề mới và cần thiết.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, thành quả của các nhà nghiên cứu đi
trƣớc là những ý kiến gợi mở quí báu, tạo điều kiện cho chúng tôi khai thác và
hoàn chỉnh luận văn này.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Với đề tài Từ ngữ chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ lúa gạo trong tiếng
Tày (có so sánh với tiếng Việt), luận văn nghiên cứu về đặc điểm vốn từ ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm từ lúa gạo, chứ ngƣời viết chƣa có ý định
nghiên cứu trƣờng nghĩa về lúa gạo. Khi nghiên cứu trƣờng nghĩa về lúa gạo,
ngƣời nghiên cứu sẽ phải nghiên cứu không chỉ các từ ngữ chỉ lúa gạo và các
sản phẩm đƣợc làm từ lúa gạo, mà còn phải nghiên cứu cả các từ ngữ chỉ
hành động, tính chất, các dụng cụ liên quan đến lúa gạo và các sản phẩm đƣợc
làm từ lúa gạo, kiểu nhƣ: cấy, trồng, gieo..., cắt, gặt, đập..., xay, hấp, giã, gói,
nấu, làm, chƣng, đồ... Trong luận văn này, chúng tôi chỉ nghiên cứu đặc điểm
về cấu trúc, ngữ nghĩa, phƣơng thức định danh, văn hóa của riêng lớp từ (vốn
từ) để chỉ lúa gạo và các sản phẩm từ lúa gạo.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ
4.1. Mục đích
- Nghiên cứu về cấu trúc, ngữ nghĩa và cả phƣơng thức định danh từ
ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm từ lúa gạo của ngƣời Tày .
- Thông qua việc nghiên cứu về từ ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm
từ lúa gạo của ngƣời Tày để hiểu rõ hơn về văn hoá ngƣời Tày.
4.2. Nhiệm vụ
Luận văn có 4 nhiệm vụ:
1) Tập hợp những vấn đề lí luận về cấu tạo từ và ngữ (hình vị, từ, nghĩa
hay ý nghĩa), về nghĩa của từ và ngữ có liên quan đến nội dung đƣợc đặt ra

trong đề tài. Bên cạnh đó, luận văn cũng tập hợp những ý kiến, tài liệu xung
quanh vấn đề về tiếng nói và chữ viết Tày (Tày - Nùng) để làm cơ sở cho việc
miêu tả trong chuyên luận này.
2) Miêu tả đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa, phƣơng thức định danh của
các từ, ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm từ lúa gạo trong tiếng Tày.
3) Miêu tả đặc điểm văn hóa của các từ ngữ chỉ lúa gạo và các sản
phẩm làm từ lúa gạo trong tiếng Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
4) So sánh hệ thống từ ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm từ lúa gạo
trong tiếng Tày với từ ngữ Việt để thấy đƣợc sự tƣơng đồng và khác biệt về
cấu trúc, ngữ nghĩa, phƣơng thức định danh, văn hoá đƣợc thể hiện trong hệ
thống từ ngữ ấy.
5. TƢ LIỆ U VÀ PHƢƠNG PHÁ P
5.1. Tƣ liệu
- Nguồn tƣ liệu thành văn: là một số công trình nghiên cứu của các tác
giả nhƣ: “Từ điển Tày Nùng – Việt” của Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo; “Ngữ
pháp tiếng Tày- Nùng” của Lục Văn Pảo, Hoàng Văn Ma; “Tiến tới xác lập
vốn từ văn hoá Việt” của Nguyễn Văn Chiến, “Văn hoá Tày- Nùng” của Lã
Văn Lô, Hà Văn Thƣ; “Văn hoá truyền thống Tày- Nùng” của Hoàng Quyết,
Ma Văn Bằng…
- Nguồn tƣ liệu điền dã:
+ Thu thập tƣ liệu từ thực tiễn cuộc sống, thông qua các đợt điền dã tại
một số bản làng nơi ngƣời Tày sinh sống ở huyện Trùng Khánh, Cao Bằng.
+ Các tài liệu truyền miệng do các cụ cao niên kể lại về cách gọi tên
các sản phẩm làm từ lúa gạo của ngƣời Tày, đặc điểm văn hoá tâm linh của
ngƣời Tày thông qua các từ ngữ đó.
- Tƣ liệu về từ ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm từ lúa gạo đƣợc
chúng tôi thống kê chủ yếu qua Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên,

2006). Tuy nhiên, do việc so sánh với tiếng Việt chỉ nhằm mục đích nêu bật
đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa, phƣơng thức định danh, và văn hóa của các từ
ngữ trong tiếng Tày, cho nên chúng tôi dựa vào kết quả phân tích cấu trúc từ,
ngữ theo mô hình của Đỗ Hữu Châu trong công trình: “Các bình diện của từ
và từ tiếng Việt” (1999), chứ không phân tích sâu. Mặt khác, về phƣơng diện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
văn hóa của các từ chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ lúa gạo, ngoài việc thống
kê và phân tích tƣ liệu tiếng Việt, chúng tôi có dựa vào cách nhìn nhận của
Nguyễn Văn Chiến trong công trình “Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa
Việt” (2004).
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đƣợc đề tài trên, ngƣời viết luận văn có sử dụng các
phƣơng pháp nghiên cứu dƣới đây:
- Phƣơng pháp nghiên cứu điền dã để thu thập và bổ sung tƣ liệu về từ
ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm từ lúa gạo trong tiếng Tày.
- Phƣơng phá p miêu tả : các thủ pháp đƣợc áp dụng là các thủ pháp luận
giải bên trong và luận giải bên ngoài. Với các thủ pháp luận giải bên trong,
chúng tôi tiến hành việc phân loạ i , hệ thố ng hó a cá c đơn vị ngôn ngƣ̃ thà nh
các nhóm, các loại, các tiểu hệ thống phân cấp , các hệ thống con; cùng với thủ
pháp phân tích thành tố trực tiếp; thủ pháp đối lập ; thủ pháp phân tích trƣờng
nghĩa... Cùng với thủ pháp luận giải bên trong là các thủ pháp luận giải bên
ngoài nhƣ: văn hóa tộc ngƣời, tâm lí tộc ngƣời, thống kê...
- Phƣơng pháp so sánh cũng đƣợc ngƣời viết áp dụng để chỉ ra những
tƣơng đồng và khác biệt về cấu trúc, ngữ nghĩa, phƣơng thức định danh và
văn hóa trong hệ thống từ ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm từ lúa gạo
trong tiếng Tày với tiếng Việt. Tuy nhiên, việc so sánh đó chỉ cốt nêu lên đặc
điểm chủ yếu của hệ thống từ ngữ đó trong tiếng Tày, chứ ngƣời viết không
có ý định nghiên cứu về các từ ngữ này trong tiếng Việt.

Ngoài các phƣơng pháp ở trên, ngƣời viết luận văn còn sử dụng một số
phƣơng phá p nghiên cứu của các ngành khoa học khác : phƣơng pháp quy
nạp, diễn dịch, mô hình hóa...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
6. CÁI MỚI VÀ Ý NGHĨ A, ĐÓNG GÓP CỦ A ĐỀ TÀ I
6.1. Về lí luậ n
- Lầ n đầ u tiên có luậ n văn nghiên cƣ́ u về tƣ̀ ngƣ̃ chỉ lú a gạ o và cá c sả n
phẩ m là m tƣ̀ lú a gạ o củ a ngƣờ i Tà y bổ sung thêm những cứ liệu về đặc điểm
cấu tạo từ, ngữ của các ngôn ngữ đơn lập vào lí luận đại cƣơng.
- Luậ n văn bổ sung tƣ liệ u và o việ c nghiên cƣ́ u văn hó a của dân tộ c
Tày, một dân tộc có nghề trồng lúa nƣớc lâu đời, và chỉ ra đặc điểm văn hóa
tộ c ngƣờ i này qua cứ liệu về vốn từ ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm từ lúa
gạo. Mặt khác, những tƣ liệu và lí giải của luận văn sẽ góp phần soi sáng thêm
mối quan hệ Việt - Tày, nói riêng, và ngƣời Việt với các cƣ dân sử dụng các
ngôn ngữ Thái - Kađai, nói chung, trong sự tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa
diễn ra gần chục thế kỉ qua.
6.2. Về thƣ̣ c tiễ n
- Luậ n văn giú p cho đồng bào các dân tộc khác (ở Việt Nam và trên thế
giới) hiể u đƣợ c những đặc điểm về cấu trúc, ngữ nghĩa, phƣơng thức định
danh và văn hóa hệ thố ng tƣ̀ ngƣ̃ chỉ lú a gạ o và các sản phẩm làm từ lúa gạo
của ngƣời Tày.
- Trên cơ sở sƣu tầ m, tậ p hợ p, hệ thố ng tƣ liệ u về ngôn ngƣ̃ chỉ lú a gạ o ,
luậ n văn giú p chính tác giả luận văn cũng nhƣ nhiều ngƣời Tày, đặc biệt là
những ngƣời thuộc thế hệ trẻ, hiể u thêm về những đặc điểm văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần của ngƣời Tày . Đó chính là đặc điểm sản xuất nông
nghiệp trồng lúa gắn liền với đặc điểm định cƣ vùng thung lũng và sƣờn núi
cùng với những giống lúa đƣợc trồng cấy phù hợp với môi trƣờng, địa hình,
thổ nhƣỡng, khí hậu, đặc điểm canh tác... Đó còn là đặc điểm văn hóa ẩm

thực của ngƣời Tày thông qua cách chế biến các sản phẩm làm từ lúa gạo.
Mỗi loại sản phẩm này lại có những gia vị, có cách chế biến, sử dụng khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
nhau. Cùng với chúng là văn hóa tâm linh của ngƣời Tày trong quá trình chế
biến, sử dụng các loại sản phẩm này.
7. KẾ T CẤ U LUẬ N VĂN
Ngoài Mở đầu, Kết luận , Danh mụ c tà i liệ u tham khả o , Phụ lục , nộ i
dung củ a luậ n văn gồ m 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chƣơng 2: Đặc điểm cấu trúc từ ngữ chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ
lúa gạo trong tiếng Tày, có so sánh với tiếng Việt.
Chƣơng 3: Đặc điểm văn hóa từ ngữ chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ lúa
gạo trong tiếng Tày, có so sánh với tiếng Việt.













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. KHÁI NIỆM VỀ HÌNH VỊ, TỪ, NGỮ VÀ NGHĨA
1.1.1. Hình vị
Trong ngữ pháp hiện nay, ta thƣờng bắt gặp những quan niệm phổ
biến: Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất, có nghĩa. Định nghĩa này cho thấy
hình vị chỉ khác từ ở chỗ không có khả năng đƣợc sử dụng độc lập, không thể
tái hiện tự do trong lời nói để tạo nên câu.
Các nhà nghiên cứu coi hình vị là đơn vị (hay thành tố, yếu tố) gốc,
đơn vị tế bào của ngữ pháp, là đơn vị có tổ chức tối đơn giản, trực tiếp hoặc
gián tiếp gắn liền với một ý nghĩa nhất định. Đặc biệt đƣợc chú ý là giá trị
ngữ pháp của nó, với tƣ cách yếu tố cấu tạo từ.
Ngoài tên gọi “hình vị”, đơn vị này còn đƣợc gọi là “moocphem”
(morpheme), “từ tố”, “nguyên vị”, “hình tố”... Ngoài ra, ngƣời ta còn phân
biệt “căn tố” và “phụ tố” (và các dạng khác nhau của phụ tố: tiền tố, trung tố,
hậu tố) trong cấu trúc của từ.
Khi nghiên cứu các ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học ít tranh luận về
các đặc tính chung của hình vị nhƣng những dạng thức cụ thể của một hình vị
trong một ngôn ngữ cụ thể là thế nào, hiểu ra sao về “nghĩa” của hình vị trong
ngôn ngữ này..., thì lại đƣợc thảo luận khá kĩ và sôi nổi. Chẳng hạn, trong
tiếng Việt từng có cuộc tranh luận rất sôi nổi về bản chất các đơn vị đƣợc gọi
là “tiếng” (với vai trò nhất thể ba ngôi, vừa là “âm tiết”, vừa là “từ”, vừa là
“hình vị”). Dƣới đây là một số định nghĩa về hình vị:
“Một yếu tố có nghĩa được xác định là hình vị chỉ khi làm thành phần
của từ và chỉ trong quan hệ với từ” [48, 60-66].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10

“Hình vị là đơn vị hình thái học không thể phân chia thành những đơn
vị hình thái học nhỏ hơn, nó là yếu tố cấu tạo từ” [4, 23].
“Hình vị là những đơn vị có nghĩa nhỏ nhất có thể kết hợp với nhau để
tạo các từ” [8, 8].
“Hình vị cũng là đơn vị có nghĩa, cũng được tái hiện như các từ,
nhưng hình vị chỉ được phân xuất ra nhờ phân tích bản thân các từ, chúng
không tồn tại độc lập mà nhập hẳn vào từ, không tách rời khỏi từ” [21, 13].
“Hình vị là đơn vị ngôn ngữ, nhỏ nhất, có nghĩa, có chức năng làm
thành tố trực tiếp tạo nên từ” [27, 40]…
Từ những định nghĩa trên, ta thấy “hình vị” có một số đặc điểm đáng
lƣu ý là:
- Là đơn vị có kích thƣớc vật chất - âm thanh nhất định, là mặt biểu thị,
hình thức;
- Là đơn vị có ý nghĩa nhất định, là mặt đƣợc biểu thị, nội dung;
- Là đơn vị có cấu trúc nội tại tƣơng đối ổn định, vững chắc, không thể
phân tách thành các đơn vị nhỏ hơn về nghĩa;
- Là đơn vị có chức năng cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó, chủ yếu là
dùng để cấu tạo nên từ...
Tuy vậy, hình vị trong các ngôn ngữ cụ thể (với tất cả các dạng thức
của nó) không phải là đơn vị có thể nhận thức dễ dàng. Hình vị là kết quả của
sự phân tích và tổng hợp của nhà nghiên cứu, nhằm mục đích “mổ xẻ” để
hiểu rõ bản chất, chức năng của các đơn vị lớn hơn nó hoặc chính nó trong
các mối quan hệ với các đơn vị cùng loại và khác loại. Cái đơn vị này thƣờng
không hiển nhiên đối với ngƣời bản ngữ.
Tuy nhiên, ở đây cần có sự phân biệt giữa hai khái niệm nhiều khi
không trùng khớp: “hình vị” và “thành tố cấu tạo từ”. Hình vị có thể trực tiếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
cấu tạo nên từ (một mình nó hoặc kết hợp với các hình vị khác) hoặc không

trực tiếp cấu tạo nên từ, mà gián tiếp, bằng cách kết hợp với các hình vị khác
để tạo thành một thành tố có nghĩa lớn hơn hình vị. Thành tố này mới đƣợc
dùng để trực tiếp cấu tạo nên từ. Thành tố cấu tạo từ có thể trùng hoặc không
trùng khớp với hình vị. Cách nhìn nhận nhƣ vậy, giúp ta giải thích có logic
đối với những trƣờng hợp các hình vị kết hợp với nhau, nhƣng sản phẩm của
sự kết hợp này không thể đƣợc đánh giá là từ (không tái hiện đƣợc tự do trong
lời nói để tạo nên câu), mà chỉ nên xem là thành tố cấu tạo từ.
“Thành tố cấu tạo từ” đƣợc hiểu là yếu tố bên trong từ, yếu tố hợp
thành nên từ. Nhƣ vậy, cách hiểu này còn giúp phân biệt nó với đơn vị đƣợc
gọi là “đơn vị gốc”, đơn vị ở bên ngoài từ đang nói, đơn vị đƣợc lấy làm cơ
sở để tác động và chuyển hoá thành ra thành tố cấu tạo từ.
Từ những cách nhìn nhận hình vị trong các tài liệu ngôn ngữ học, ta có
thể chấp nhận định nghĩa: Hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ
được sử dụng (trực tiếp hoặc gián tiếp) cấu tạo nên từ.
1.1.2. Khái niệm từ
Từ là một trong những khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học. Cái đơn vị
cấu trúc - ngữ nghĩa cơ bản của ngôn ngữ vẫn đƣợc quan niệm là dùng để gọi
tên các sự vật hiện tƣợng của đời sống, mang trong mình nó các thuộc tính
tiêu biểu về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp của một ngôn ngữ. Cho đến nay,
trong ngôn ngữ học, đã có những câu trả lời không nhƣ nhau, đã có rất nhiều
định nghĩa về từ. Tuy nhiên, chƣa có định nghĩa nào thỏa mãn đối với các nhà
ngôn ngữ học.
Có tình trạng trên là vì khi xem xét từ, các nhà nghiên cứu đã căn cứ
trên các ngôn ngữ có những điểm rất khác nhau về loại hình, về quan hệ cội
nguồn… hoặc nhìn nhận từ dƣới những góc nhìn không nhƣ nhau, từ các
phƣơng diện khác nhau. Quả vậy, trong hơn 6000 ngôn ngữ thế giới, từ đƣợc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
hiện thực hoá bằng những hình thái rất đa dạng. Đồng thời, có thể thấy cái

đơn vị đƣợc hiểu là một tổ hợp âm thanh có ý nghĩa, là sự thống nhất giữa
hình thức và khái niệm đƣợc hàm chứa trong hình thức ấy, là đơn vị tiềm
năng để cấu tạo nên câu, là sự kiện tâm lí - ngôn ngữ học... ấy, vừa không dễ
xác định, vừa thể hiện theo cách này cách khác. Tình trạng phức tạp của việc
định nghĩa từ xuất phát từ chính bản thân từ trong các ngôn ngữ. Viện sĩ L. V.
Sherba đã viết: “trong thực tế, từ là gì? thiết nghĩ rằng trong các ngôn ngữ
khác nhau, từ sẽ khác nhau. Do đó không có khái niệm “từ nói chung” [dẫn
theo 27, 12].
Cho đến nay, ngoài thực tế là việc xác định khái niệm “từ” chƣa đi đến
đƣợc sự nhất trí và có quá nhiều định nghĩa về từ, lại có ý kiến cho rằng trong
các ngôn ngữ chúng ta đã biết, “không có khái niệm từ nói chung” nhƣng
đồng thời cũng có ý kiến cho rằng: “Từ nói chung dầu sao vẫn tồn tại”. Nhiều
nhà ngôn ngữ học đã tránh, không đƣa ra lời định nghĩa chính thức hiển ngôn
đối với từ, hay họ chỉ đƣa ra những lời định nghĩa thích hợp đối với lĩnh vực
mà mình nghiên cứu, hoặc trình bày nội dung của khái niệm “từ” bằng những
ngôn từ chung chung, ƣớc định.
Tuy vậy, từ những định nghĩa rất khác nhau về từ, ta có thể nhận thấy
“từ” có một số đặc điểm đáng lƣu ý nhƣ sau:
- Là đơn vị có kích thƣớc nhất định về vật chất - âm thanh, là mặt biểu
thị, mặt hình thức, hay còn gọi đó là “từ ngữ âm - âm vị học”;
- Là đơn vị có ý nghĩa biểu thị các sự vật, hiện tƣợng... nhất định, là
mặt đƣợc biểu thị, nội dung;
- Là đơn vị có cấu trúc nội tại tƣơng đối vững chắc, ổn định, có nghĩa
mà không thể phân tách thành đơn vị nhỏ hơn;
- Là đơn vị có chức năng khi hoạt động trong lời nói, là đơn vị để kiến
tạo nên câu nói...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Để có cơ sở thuận lợi cho việc nghiên cứu đề tài và khảo sát tƣ liệu,

chúng tôi lựa chọn khái niệm từ sau: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của
ngôn ngữ, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để xây dựng
nên câu” [11, 136].
Nhƣ vậy, từ có tính hoàn chỉnh cả về ngữ âm và về ngữ nghĩa (dù là
nghĩa từ vựng hay nghĩa ngữ pháp). Chính tính hoàn chỉnh về âm và nghĩa
nhƣ vậy đã khiến cho từ có khả năng vận dụng độc lập để tạo câu. Trong định
nghĩa vừa nói, có hai đặc điểm của từ đƣợc nêu ra đáng chú ý:
- Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa: Từ có hình thức phổ biến là một chiết
đoạn âm thanh hoàn chỉnh nhỏ nhất, đồng thời có ý nghĩa (dùng để gọi tên các
sự vật hiện tƣợng, các thuộc tính, các quan hệ… trong thực tiễn đời sống).
- Từ được sử dụng độc lập, tự do trong lời nói để đặt nên câu: Từ có
thể tách biệt ra khỏi các đơn vị khác (khác với các từ khác, cụm từ…) và đƣợc
dùng theo các quy tắc nhất định để tạo nên câu (là đơn vị đƣợc cấu tạo bằng
các từ và các cụm từ, dùng để thông báo).
Những đặc điểm trên giúp phân biệt từ với các đơn vị khác: phân biệt
với yếu tố cấu tạo nên từ (đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, nhƣng không đƣợc dùng
trực tiếp để "đặt nên câu"); phân biệt với cụm từ và câu (các đơn vị có
nghĩa, nhƣng không "nhỏ nhất")…Qua những ý kiến của các nhà ngôn ngữ
học đi trƣớc, rõ ràng từ là một thực thể, tồn tại trong mỗi hệ thống ngôn ngữ
với những đặc điểm hình thức, cấu trúc nội tại và có thể có cách biểu thị nội
dung (ý nghĩa) khác nhau, đƣợc ngƣời bản ngữ tri giác là có (hiện thực về
mặt tâm lí) ấy.
Ví dụ, trong tiếng Tày: pẻng (bánh), pẻng đổng (bánh đúc), pẻng
quyển (bánh cuốn), khẩu xay (gạo lức), chả (mạ)... đều là những từ.
1.1.3. Ngữ
Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học định nghĩa:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
“Ngữ: kết hợp hai hoặc nhiều thực từ (không hoặc có cùng với các hƣ

từ có quan hệ với chúng gắn bó về ý nghĩa và ngữ pháp), diễn đạt một khái
niệm thống nhất, và là tên gọi phức tạp biểu thị các hiện tƣợng của thực tại
khách quan. Đó là một kết cấu cú pháp đƣợc tạo thành bởi hai hoặc nhiều
thực từ trên cơ sở liên hệ ngữ pháp phụ thuộc - theo quan hệ phù hợp, chi
phối hay liên hợp. Trong một số ngữ có từ đóng vai trò chủ yếu về mặt ngữ
nghĩa và ngữ pháp gọi là thành tố chính, các từ phụ thuộc vào thành tố chính
gọi là thành tố phụ. Thành tố chính của ngữ có thể là danh từ (tạo nên danh
ngữ), động từ (tạo nên động ngữ), tính từ tạo nên tính ngữ, ngữ còn đƣợc gọi
là cụm từ,từ tổ
Ngữ là phƣơng tiện định danh, biểu thị sự vật, hiện tƣợng quá trình,
phẩm chất.  nghĩa ngữ pháp của ngữ đƣợc tạo nên bằng quan hệ nảy sinh
giữa các thực từ kết hợp lại trên cơ sở của một kiểu liên hệ nào đó giữa chúng.
Ngữ thƣờng chia ra hai kiểu: Ngữ tự do và ngữ không tự do (ngữ cố định).
Ngữ tự do bao gồm những ý nghĩa từ vựng độc lập của tất cả các thực từ tạo
thành ngữ; mỗi liên hệ cú pháp của các yếu tố trong ngữ tự do là mối liên hệ
linh hoạt và có sức sản sinh (kiểu nhƣ đọc sách). Còn trong ngữ không tự do
thì tính độc lập về mặt từ vựng của một hoặc cả hai thành tố bị yếu đi hoặc bị
mất và ý nghĩa từ vựng của ngữ trở nên giống nhƣ ý nghĩa của một từ riêng
biệt (kiểu nhƣ vui tính, bền gan, sân bay, đường sắt)” [63, 176].
1.1.4. Nghĩa
Khi nói về hình vị, từ, ngữ ở trên, chúng ta đã xác nhận đặc tính quan
trọng nhất của các đơn vị này là “có nghĩa”. Vậy nghĩa (hay ý nghĩa) là gì?
Khi nói tới các đơn vị ngôn ngữ thì chúng bao gồm hai mặt (cái biểu
hiện và cái đƣợc biểu hiện, hay hình thức và nội dung), nghĩa thuộc mặt thứ
hai, tức nội dung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Hiện nay, có không ít định nghĩa về nghĩa (đặc biệt về nghĩa của từ). Sở
dĩ nhƣ vậy, vì khái niệm “nghĩa” rất trừu tƣợng (so với từ và các đơn vị ngôn

ngữ khác). Về mặt lí thuyết, căn cứ để hiểu nghĩa, là: các đơn vị đang xét (từ và
hình vị) đƣợc sử dụng trong sự quy chiếu về một sự vật hiện tƣợng nào đó, với
yêu cầu ngƣời nói và ngƣời nghe đều phải cùng nghĩ về sự vật hiện tƣợng ấy,
khi nhắc đến đơn vị đang xét. Nhờ sự quy chiếu nhƣ vậy, sự sử dụng các đơn vị
này trong cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó mới không gây nên sự lẫn lộn.
Nghĩa các đơn vị đang xét mang tính quy ƣớc là nhờ ngƣời nói và
ngƣời nghe (bản ngữ) ƣớc định với nhau: âm thanh này thì biểu thị sự vật hiện
tƣợng này, âm thanh kia thì biểu thị sự vật hiện tƣợng kia v.v... Nhƣ vậy, mặt
vật chất và ý nghĩa có liên hệ mật thiết, quy định ràng buộc và là điều kiện tồn
tại của nhau. Đồng thời, cũng nhƣ các đơn vị ngôn ngữ, nghĩa của các đơn vị
này (từ và hình vị) cũng chỉ tồn tại trong hệ thống ngôn ngữ. Tách ra khỏi hệ
thống, chúng không tồn tại nữa.
Vậy Nghĩa là gì ? Câu trả lời đƣợc tìm thấy trong quan niệm đã đƣợc
nhiều nhà ngôn ngữ học đồng tình nhƣ sau:
Hiện thực được phản ánh vào trong nhận thức, tạo nên một mối liên hệ
thường trực, liên tục với một hình thức âm thanh nhất định, nhờ đó sự phản ánh
này được hiện thực hoá bằng ngôn ngữ. Mối liên hệ này được hiểu là “nghĩa”.
Khi nói về nghĩa của từ (và hình vị), ngƣời ta phân biệt các thành phần
nhƣ: nghĩa biểu vật (là liên hệ giữa “hình thức âm thanh” với sự vật hiện
tƣợng cụ thể mà nó chỉ ra); nghĩa biểu niệm (là liên hệ giữa “hình thức âm
thanh” với ý niệm - cái biểu niệm, bao gồm các thuộc tính sự vật hiện tƣợng
đƣợc phản ánh vào ý thức con ngƣời)...Ngoài ra, ngƣời ta còn phân biệt nghĩa
cấu trúc - là mối liên hệ giữa các đơn vị khác nhau trong hệ thống, nghĩa ngữ
dụng - là mối liên hệ giữa các đơn vị đang xét với tình cảm, thái độ của ngƣời
sử dụng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Khi đi vào phân tích nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ đang nói ở trên,
ngƣời ta đề xuất nhiều cách, trong đó thƣờng đƣợc sử dụng hơn cả là làm cho

cái đơn vị này bộc lộ ý nghĩa của mình qua ngữ cảnh. Ngữ cảnh đƣợc hiểu là
chuỗi các đơn vị ngôn ngữ kết hợp với đơn vị đang xét hoặc bao xung quanh
nó, làm cho nó được cụ thể hoá hơn và được xác định về nghĩa. Ngữ cảnh, có
thể là tối thiểu (đơn giản nhất) và tối đa (mở rộng đến mức có thể).
Mặt khác, khi tìm hiểu nghĩa của hình vị, phải xem xét trong quá trình
hành chức của nó (là cấu tạo từ, và đƣợc nghĩa này thể hiện ở cơ cấu nghĩa
của từ). Đối với từ cũng vậy, không thể tách rời nó khỏi hoạt động ngôn ngữ,
trong đó nó có vai trò tái hiện tự do tạo thành câu. Nhƣ vậy, chỉ trong sự hành
chức, nghĩa mới đƣợc hiện thực hoá và xác định. Hơn thế nữa, trong thực tế
hoạt động của ngôn ngữ, nghĩa của đơn vị ngôn ngữ có thể bị giảm thiểu hoặc
gia tăng so với các yếu tố cấu thành nó (các nét nghĩa), đồng thời ngƣời nói
cũng có thể tạo nên hàng loạt các quan hệ về nghĩa khác trong hệ thống ngôn
ngữ của mình: đồng âm, đồng nghĩa và trái nghĩa.
1.1.5. Từ, ngữ chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ lúa gạo
Để đảm bảo tƣ liệu đầu vào có giá trị về mặt ngôn ngữ cần có những
tiêu chí lựa chọn nhất định. Chúng tôi sẽ giải quyết câu hỏi thế nào là từ ngữ
chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ lúa gạo? Theo chúng tôi đây là vấn đề rất
quan trọng cần đƣợc giải quyết khi xây dựng cơ sở dữ liệu về từ ngữ chỉ lúa
gạo và sản phẩm làm từ lúa gạo. Tuy nhiên trong ngôn ngữ học, khái niệm từ,
ngữ chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ lúa gạo chƣa đƣợc xác định rõ ràng.
Ở đề tài này, chúng tôi tạm xác định và nhận diện từ, ngữ chỉ lúa gạo
và sản phẩm làm từ lúa gạo trên cơ sở trả lời câu hỏi: từ, ngữ chỉ lúa gạo và
sản phẩm làm từ lúa gạo đƣợc dùng trong phạm vi nào? Chức năng của chúng
là gì? Chúng tôi hiểu là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
- Từ ngữ chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ lúa gạo là những từ, ngữ đƣợc
dùng trong lĩnh vực tổ chức sản xuất nông nghiệp trồng lúa có liên quan đến
hoạt động của con ngƣời để biến đổi cây lúa nƣớc (một sản vật tự nhiên)

thành thức ăn, vật dụng cho con ngƣời. Đó là những từ, ngữ có chức năng
định danh, biểu thị các sự vật, hiện tƣợng cây lúa trong quá trình sản xuất và
các sản phẩm đƣợc chế biến từ lúa gạo.
Khi bàn về việc xây dựng lớp từ biểu thị mô hình kinh tế - xã hội lúa
nƣớc cổ truyền Việt Nam, chính tác giả Nguyễn Văn Chiến [10, 141-142] cho
rằng có tới 21 nhóm từ. Tuy nhiên, theo quan niệm của mình, chúng tôi cho
rằng có 5 nhóm từ ngữ dƣới đây có liên quan trực tiếp đến lúa gạo và các sản
phẩm từ lúa gạo trong tiếng Tày là:
1) Các từ ngữ biểu thị tên gọi cây lúa liên quan tới: thời vụ gieo trồng,
thời gian/ khoảng thời gian thu hoạch, đặc điểm miêu tả loại hình gieo trồng,
không có bàn tay con ngƣời gieo trồng, kiểu nhƣ: khẩu hua (lúa sớm), khẩu
lả (lúa muộn), khẩu nà (lúa nƣớc), khẩu rằng (lúa chét), khẩu tai mjều
(lúa thu)...
2) Các từ ngữ biểu thị tên gọi các bộ phận cây lúa: bâƣ khẩu (lá lúa),
lạc khẩu (rễ lúa), ruồng khẩu (bông lúa), khẩu (hạt lúa)...
3) Các từ ngữ biểu thị các giống lúa: khẩu nua (lúa nếp), khẩu chăm
(lúa tẻ), khẩu tác (một loại lúa tẻ), khẩu nhị ƣu 63 (lúa nhị ƣu 63)...
4) Các từ ngữ biểu thị sản phẩm từ cây lúa: khẩu (thóc, gạo), kép
(trấu), vàng (rơm), cốc vàng (rạ)...
5) Các từ ngữ biểu thị những món ăn chế biến từ cây lúa: khẩu (cơm),
chảo (cháo, chè), pẻng (bánh), khẩu nua (xôi, cơm nếp) ... và các món ăn
khác đƣợc chế biến từ lúa gạo.
Với việc xác định cách hiểu từ, ngữ chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ lúa
gạo nhƣ trên, chúng tôi đã chọn thu thập tất cả những từ, ngữ chỉ lúa gạo và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
sản phẩm làm từ lúa gạo trong tiếng Tày thuộc 5 nhóm từ ngữ kể trên. Bên
cạnh đó, ngoài tƣ liệu đƣợc thu thập qua từ điển Tày - Nùng - Việt, các từ ngữ
đƣợc phổ biến trong nhóm địa phƣơng Tày ở Trùng Khánh (Cao Bằng) cũng

đƣợc thu thập. Ví dụ: khẩu nua khản mỉn (cơm nếp nghệ), pẻng khỉ mạ
(bánh khúc)...
1.2. VẤN ĐỀ ĐỊNH DANH
1.2.1. Khái niệm định danh
Định danh là chức năng gọi tên sự vật, hiện tƣợng của đơn vị cơ bản
của ngôn ngữ, đó là từ. Chức năng định danh đƣợc coi là một trong những
tiêu chí để xác định từ. Sự hình thành những đơn vị ngôn ngữ có chức năng
định danh nghĩa là dùng để gọi tên sự vật và chia tách những khúc đoạn của
thực tại khách quan và tạo nên những khái niệm tƣơng ứng về sự vật, hiện
tƣợng dƣới hình thức là các từ, các tổ hợp từ, thành ngữ, câu. Thuật ngữ “định
danh” có nguồn gốc từ tiếng La tinh nghĩa là “Tên gọi”. Thuật ngữ này biểu
thị kết quả của quá trình gọi tên. Đó là chức năng của đơn vị có nghĩa của
ngôn ngữ. Đối tƣợng của lí thuyết định danh là nghiên cứu mô tả những quy
luật về cách cấu tạo những đơn vị ngữ nghĩa, về sự tác động qua lại giữa tƣ
duy, ngôn ngữ - hiện thực khách quan trong quá trình định danh. Tìm hiểu vai
trò của nhân tố con ngƣời trong việc lựa chọn các dấu hiệu làm cơ sở cho sự
định danh xuất phát từ mối quan hệ giữa hiện thực - khái niệm - tên gọi. Lí
thuyết định danh phải nghiên cứu và miêu tả cấu trúc của đơn vị định danh, từ
đó xác định những tiêu chí hoặc những đặc trƣng cần và đủ để phân biệt đơn
vị định danh này với đơn vị định danh khác. Hiện thực khách quan đƣợc hình
dung nhƣ là cái biểu vật của tên gọi, nghĩa là nhƣ toàn bộ các thuộc tính đƣợc
chia tách ra trong các hành vi định danh ở tất cả các lớp sự vật do tên gọi đó
biểu thị khái niệm, khi lựa chọn những thuộc tính có tính chất phạm trù tham
gia nhƣ là cái biểu nghĩa của tên gọi. Còn tên gọi đƣợc nhận thức nhƣ là một

×