Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục thể chất cho sinh viên không chuyên ngành thể dục thể thao trường đại học sư phạm – đại học thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.16 KB, 101 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi trọng vị trí của cơng tác thể dục thể thao (TDTT) đối với thế hệ
trẻ xem đó là động lực quan trọng và khẳng định cần có chính sách chăm sóc,
giáo dục đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển hài hồ về các mặt thể chất, tinh
thần, trí tuệ và đạo đức. Công tác giáo dục thể chất (GDTC) và hoạt động TDTT
trong các Trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp là một mặt
giáo dục quan trọng không thể thiếu được trong sự nghiệp giáo dục đào tạo góp
phần thực hiện mục tiêu nghị quyết hội nghị Trung ương VIII khóa XI về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã đề ra đó là: “Nâng cao dân trí,
bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất nước để đáp ứng nhu cầu đổi mới
sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội”[9]. Nhà trường là cơ sở quan trọng để giáo
dục và phát triển con người. Mục đích của GDTC cho học sinh – sinh viên (HS SV) là góp phần đào tạo những chun gia có trình độ cao, có tri thức khoa học,
những cơng nhân có tay nghề, có kỹ thuật đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của
lao động xã hội, xứng đáng với vai trò là người chủ xã hội trong tương lai. Xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và nhà nước pháp quyền định hướng
xã hội chủ nghĩa. Chỉ thị 112 CT của chủ tịch hội đồng Bộ trưởng yêu cầu các
cấp, các ngành thực hiện tốt nhiệm vụ và biện pháp sau: “Đối với HS - SV trước
hết nhà Trường phải thực hiện nghiêm túc giảng dạy và học môn thể dục theo
chương trình đã quy định, có biện pháp tổ chức hướng dẫn các hình thức tập
luyện và hoạt động thể thao ngoài giờ học” [4]. Mặc dù GDTC từ lâu đã trở
thành mơn học chính bắt buộc trong chương trình các cấp học, các ngành học
nhưng cho đến nay ở một số nơi cơng tác này vẫn cịn chưa đáp ứng được yêu
cầu của tuổi trẻ học đường về một số mặt như: cơ sở vật chất còn nhiều thiếu
thốn, chất lượng chưa đảm bảo, đội ngũ cán bộ giáo viên cịn nhiều hạn chế về
trình độ chun mơn, năng lực quản lý còn nhiều yếu kém. Thấy rõ được thực
trạng này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra một số giải pháp cho công tác GDTC ở
tất cả các trường, các cấp, điều đó được thể hiện trong Chỉ thị 36 của Ban chấp



2

hành Trung ương Đảng: “Hiệu quả GDTC trong các nhà trường còn thấp, hai
ngành giáo dục đào tạo và thể chất thể thao phối hợp chỉ đạo cải tiến chương
trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT cho
trường học các cấp, tạo điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ
GDTC ở tất cả các trường học” [5]. Nhận thức được tầm quan trọng của công
tác GDTC cho HS - SV nhiều Trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên
nghiệp không chỉ thực hiện đầy đủ những quy định của bộ Giáo dục và đào tạo
về nội dung chương trình GDTC mà cịn vận dụng sáng tạo trên cơ sở cải tiến
các nội dung học tập mới phù hợp với điều kiện của từng trường, điều đó cũng
góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng GDTC cho HS - SV. GDTC
là một trong mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, nằm trong hệ
thống giáo dục quốc dân.
GDTC cũng như các loại hình giáo dục khác, là quá trình sư phạm với đầy
đủ đặc điểm của nó, có vai trị chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động của
nhà sư phạm phù hợp với học sinh với nguyên tắc sư phạm. GDTC chia thành
hai mặt tương đối độc lập: Dạy học động tác (giáo dưỡng thể chất) và giáo dục
tố chất thể lực. Trong hệ thống giáo dục nội dung đặc trưng của GDTC được gắn
liền với giáo dục, trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động. GDTC là một
lĩnh vực TDTT xã hội với nhiệm vụ là: “Phát triển toàn diện các tố chất thể lực,
và trên cơ sở đó phát triển các năng lực thể chất, bảo đảm hồn thiện thể hình,
củng cố sức khoẻ, hình thành theo hệ thống và tiến hành hồn thiện đến mức
cần thiết các kỹ năng và kỹ xảo quan trọng cho cuộc sống” [22].
Đồng thời chương trình GDTC trong các Trường Đại học, Cao đẳng và
Trung học chuyên nghiệp nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đó là: Trang bị
kiến thức, kỹ năng và rèn luyện thể lực cho HS - SV. Nội dung chương trình
GDTC trong các Trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp được
tiến hành trong cả quá trình học tập của sinh viên trong nhà trường bằng các

hình thức: GDTC nội khóa và hoạt động TDTT ngoại khóa.


3

Giờ học GDTC chính khóa: Giờ học GDTC chính khóa là hoạt động giáo
dục bắt buộc, được thực hiện theo chương trình mơn học GDTC theo quy định.
Là hình thức cơ bản nhất của GDTC được tiến hành trong kế hoạch học tập của
nhà trường. Vì việc đào tạo cơ bản về thể chất, thể thao cho HS - SV là nhiệm
vụ cần thiết, nên trước hết phải có nội dung thích hợp để phát triển các tố chất
thể lực và phối hợp vận động cho HS - SV. Đồng thời, giúp các em có trình độ
nhất định để tiếp thu được các kỹ thuật động tác TDTT.
Với mục tiêu chính của việc đào tạo cơ bản về thể chất và thể thao trong
trường học là: Xúc tiến quá trình đào tạo năng lực đạt thành tích trong thể chất
và thể thao của HS - SV, phát triển các tố chất thể lực, phát triển năng lực tâm lý,
tạo ý thức lập luyện TDTT thường xuyên, giáo dục được đức tính cơ bản và lịng
nhân đạo cho học sinh. Bản thân giờ học TDTT có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt
đối với việc quản lý và giáo dục con người trong xã hội. Việc học tập các bài tập
thể dục, các kỹ thuật động tác là điều kiện cần thiết để con người phát triển cơ
thể một cách hài hoà, bảo vệ và củng cố sức khoẻ, hình thành năng lực chung và
chun mơn.
Hoạt động TDTT ngoại khóa: Thực hiện theo kế hoạch của các trường
Đại học, Cao đẳng và các cấp quản lý giáo dục.
Là nhu cầu và ham thích trong khi nhàn rỗi của một bộ phận HS - SV với
mục đích và nhiệm vụ là góp phần phát triển năng lực, thể chất một cách toàn
diện, đồng thời góp phần nâng cao thành tích thể thao của HS - SV. Giờ học
ngoại khoá nhằm củng cố và hồn thiện các bài học chính khố và được tiến
hành vào giờ tự học của học sinh sinh viên, hay dưới sự hướng dẫn của giáo
viên TDTT, hướng dẫn viên. Ngồi ra cịn các hoạt động thể thao quần chúng
ngồi giờ học bao gồm: Luyện tập trong các câu lạc bộ, các giải thi đấu trong và

ngoài Trường được tổ chức hàng năm các bài tập thể dục vệ sinh chống mệt mỏi
hàng ngày, cũng như giờ tự luyện tập của học sinh sinh viên, phong trào tự tập
luyện rèn luyện thân thể. Hoạt động ngoại khoá với chức năng là động viên lôi


4

kéo nhiều người tham gia tập luyện các môn thể thao u thích, góp phần nâng
cao sức khoẻ phục vụ học tập và sinh hoạt.
Tác dụng của GDTC và các hình thức sử dụng TDTT có chủ đích áp dụng
trong các trường học là toàn diện, là phương tiện để hợp lý hố chế độ hoạt
động, nghỉ ngơi tích cực, giữ gìn và nâng cao năng lực hoạt động, học tập của
học sinh sinh viên trong suốt thời kỳ học tập trong nhà trường, cũng như đảm
bảo chuẩn bị thể lực chung và chuẩn bị thể lực chuyên môn phù hợp với những
điều kiện của nghề nghiệp trong tương lai.
Mặc dù năm 2006 (tại mục 2 GDTC và thể thao trong nhà trường) đã quy
định rất rõ, GDTC là môn học chính khố thuộc chương trình giáo dục nhằm
cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thơng qua các bài
tập và trị chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tồn diện cho
HS - SV. Nhà nước có chính sách dành đất đai, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
cho GDTC và thể thao trong nhà trường, bảo đảm đủ giáo viên, giảng viên
TDTT cho các bậc học... Nhưng thực tế từ trước tới nay mơn học GDTC vẫn
khơng ít trường coi là mơn học phụ. Chính vì vậy, sự quan tâm và đầu tư của
khơng ít trường đối với mơn học này chưa thật đầy đủ, thiết bị phục vụ giảng
dạy, tập luyện vẫn cịn nhiều thiếu thốn, khơng chú trọng đầu tư, thậm chí hiện
rất nhiều Trường Đại học, Cao đẳng… diện tích chật hẹp khơng có sân tập phải
đi học nhờ. Để đáp ứng được các mục tiêu hiện nay cơng tác GDTC trong các
trường Đại học cịn khơng ít rào cản. Thể lực của nhiều HS - SV còn kém, trong
khi ý thức rèn luyện TDTT chưa cao, điều kiện cơ sở vật chất để tổ chức tập
luyện thiếu thốn, nội dung môn học chưa hấp dẫn nên HS - SV không hứng thú,

say mê môn học GDTC là điều khó tránh khỏi.
Tham khảo các tài liệu liên quan đến cơng tác GDTC, đã có nhiều tác giả,
các nhà khoa học đưa ra vấn đề GDTC trong trường học như: Nguyễn Thị Thu
Hiền (2012); Nguyễn Đức Tiến (2013); Hồng Tiến Dũng (2013); Nguyễn Chí
Hiếu(2014)… Những cơng trình nghiên cứu trên có ý nghĩa to lớn trong việc
nâng cao chất lượng rèn luyện của học sinh các Trường Trung học chuyên


5

nghiệp, Cao đẳng, Đại học hiện nay và có ý nghĩa trong việc xây dựng nội dung,
chương trình đào tạo. Song chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu ứng dụng
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy GDTC cho sinh viên không chuyên
ngành TDTT Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên (ĐHSP– ĐHTN)
Xuất phát từ những cơ sở lý luận, thực tiễn và được sự hướng dẫn của
giáo viên chỉ đạo, tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài :“Nghiên cứu giải
pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy giáo dục thể chất cho sinh viên không
chuyên ngành Thể dục Thể thao Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái
Ngun”.
Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy GDTC cho sinh viên không
chuyên ngành TDTT Trường ĐHSP – ĐHTN cụ thể: Hình thành động cơ học
tập mơn học cho sinh viên, tăng cường cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động
GDTC, tăng cường đội ngũ cán bộ làm cơng tác GDTC, cải tiến nội dung,
chương trình, phương pháp giảng dạy và phù hợp với đối tượng sinh viên, đổi
mới hình thức quản lý, tổ chức hướng dẫn sinh viên tập luyện TDTT ngồi giờ
học. Từ đó, nâng cao chất lượng đào tạo GDTC nói riêng vào đào tạo của nhà
trường nói chung.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng công tác giảng dạy GDTC cho sinh

viên không chuyên ngành TDTT Trường ĐHSP – ĐHTN.
- Đánh giá thực trạng hoạt động giảng dạy GDTC nội khóa của sinh viên
không chuyên ngành TDTT Trường ĐHSP - ĐHTN.
- Đánh giá thực trạng hoạt động TDTT ngoại khóa của sinh viên không
chuyên ngành TDTT Trường ĐHSP - ĐHTN.
- Thực trạng đội ngũ giáo viên GDTC.
- Thực trạng chương trình, phương pháp giảng dạy môn GDTC không
chuyên ngành TDTT Trường ĐHSP - ĐHTN.
- Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ công tác GDTC.


6

- Thực trạng kết quả học tập môn GDTC của sinh viên không chuyên
ngành TDTT Trường ĐHSP - ĐHTN.
Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả các
giải pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy GDTC cho sinh viên không chuyên
ngành TDTT Trường ĐHSP – ĐHTN.
- Tiến hành phỏng vấn các chuyên gia, các nhà quản lý giáo dục, giáo
viên, sinh viên nhằm lựa chọn các giải pháp phù hợp.
- Lựa chọn giải pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy GDTC cho sinh viên
không chuyên ngành TDTT Trường ĐHSP – ĐHTN.
- Ứng dụng và đánh giá hiệu quả các giải pháp lựa chọn cho việc nâng cao
hiệu quả giảng dạy GDTC cho sinh viên không chuyên ngành TDTT Trường
ĐHSP - ĐHTN.


7

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.

Quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về TDTT trường học trong thời
kỳ mới

1.1.1.

Quan điểm, đường lối của Đảng về TDTT trường học
Đảng lãnh đạo cơng tác TDTT nói chung và cơng tác TDTT trường học
nói riêng bằng việc hoạch định chủ trương, đường lối, quan điểm chỉ đạo và
được thể hiện cụ thể qua các thời kỳ cách mạng.
Bước vào thế kỷ 21, thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, Ban Bí thư Trung
ương Đảng ban hành Chỉ thị số 17/CT-TW (23/10/2002) về phát triển TDTT đến
năm 2010, giao cho ngành TDTT và ngành GD&ĐT đẩy mạnh hoạt động TDTT
trường học. Chỉ thị 17/CT-TW đã ghi dấu cho sự phát triển mới của nền TDTT
Việt Nam, nhiều nội dung của Chỉ thị đi vào cuộc sống, có tác động rất lớn đối
với sự nghiệp phát triển TDTT nước nhà nói chung và cơng tác TDTT trường
học nói riêng trong những năm đầu thế kỷ XXI, góp phần tích cực vào những
thành tựu chung của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội.
Một trong những mục tiêu và phương hướng tổng quát của giai đoạn
2006- 2010 được Đại hội Đảng (khóa X) xác định là: “GD&ĐT cùng với KHCN
là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”[12]. Đề cập đến vấn đề sức khỏe của nhân dân, Đại hội
khẳng định cần phải: “Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm
vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nịi. Tăng
cường thể lực của thanh niên”[12].
Báo cáo chính trị tại Đại hội XI khẳng định phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh,
bền vững đất nước. Vì vậy, Đại hội yêu cầu phải “Đổi mới căn bản, tồn diện

nền GD theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, XHH; đổi mới chương trình, nội
dung, phương pháp dạy và học”. [13]


8

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh “GD&ĐT có sứ mệnh nâng cao dân
trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát
triển đất nước...”[13]. Theo đó, cần phải “Đổi mới căn bản và toàn diện
GD&ĐT theo 6 nhu cầu phát triển của xã hội, nâng cao chất lượng theo yêu
cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”[13].
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/12/2011 của Bộ chính trị về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về TDTT đến năm 2020;
trong phần đánh giá những tồn tại, hạn chế đã chỉ rõ: “GDTC và HĐTT trong
HSSV chưa thường xuyên và kém hiệu quả”[10]. Nghị quyết đã đề ra các giải
pháp nâng cao chất lượng GDTC và HĐTT trường học, một trong những giải
pháp quan trọng là đổi mới chương trình và phương pháp GDTC, gắn GDTC với
GD ý chí, đạo đức, quốc phịng, sức khỏe và kỹ năng sống của HS - SV. Đãi ngộ
hợp lý và phát huy năng lực đội ngũ GV TD, mở rộng và nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV TD cho trường học.
Nghị quyết 29/NQ-TƯ (khóa XI) “về đổi mới căn bản, toàn diện
GD&ĐT; đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”[13] đã đề ra quan
điểm chỉ đạo: “Chuyển mạnh quá trình GD từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học” và “Đổi mới hệ thống
GD theo hướng mở, linh hoạt, liên thơng giữa các bậc học, trình độ và phương
thức đào tạo”[13]. Có thể nói Nghị quyết 29/NQ-TƯ là sự tổng kết toàn diện
Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về phát triển GD&ĐT trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa, qua đó đề ra mục tiêu đổi mới toàn diện GD&ĐT từ

quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính
sách, điều kiện đảm bảo thực hiện… Mục tiêu của Nghị quyết đã tạo chuyển
biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả GD&ĐT, đáp ứng ngày càng tốt
hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Đồng
thời mở ra cơ hội để ngành GD&ĐT quyết tâm đổi mới toàn diện công tác GD,


9

trong đó có đổi mới, cải tiến cơng tác TDTT trường học ngày càng hiệu quả,
chất lượng hơn.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác
giáo dục thể chất và thể thao trong trường học, được thể hiện qua các văn bản
chỉ đạo của Đảng và Chính phủ. Sự nghiệp thể dục thể thao đã và đang phát
triển mạnh mẽ, đúng hướng, góp phần quan trọng vào thành tựu chung của công
cuộc đổi mới đất nước, từng bước đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của quần
chúng nhân dân.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “...Đẩy mạnh các hoạt động
TDTT cả về quy mơ và chất lượng. Khuyến khích và tạo điều kiện để toàn xã hội
tham gia hoạt động và phát triển sự nghiệp TDTT.Phát triển mạnh thể thao
quần chúng, thể thao nghiệp dư, trước hết là trong thanh niên, thiếu niên. Làm
tốt công tác GDTC trong trường học...”[12]; Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh phong trào TDTT đại chúng, tập trung
đầu tư nâng cao chất lượng một số mơn thể thao thành tích cao nước ta có ưu
thế. Kiên quyết khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong thể thao”[13]. Nghị
quyết 08-NQ/TW, ngày 1-12-2011 của Bộ Chính trị cũng khẳng định: “Phát
triển TDTT là một yêu cầu khách quan của xã hội, nhằm góp phần nâng cao sức
khoẻ, thể lực và chất lượng cuộc sống của nhân dân, chất lượng nguồn nhân
lực; giáo dục ý chí, đạo đức, xây dựng lối sống và mơi trường văn hóa lành
mạnh...”[5] và “...cần quan tâm đúng mức TDTT trường học với vị trí là bộ

phận quan trọng của phong trào TDTT; là một mặt của giáo dục toàn diện nhân
cách học sinh, sinh viên...”[16].
Sau hơn hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng với
sự cố gắng chung của các ngành Giáo dục và Đào tạo và ngành Văn hoá, Thể
thao và Du lịch từ Trung ương đến cơ sở, với sự quan tâm chỉ đạo và đầu tư của
Đảng, Chính phủ và chính quyền các địa phương, cơng tác GDTC và thể thao
trường học đã có bước phát triển đáng khích lệ, góp phần tích cực vào thành tích
chung trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, được thể hiện như:


10

Công tác GDTC và thể thao trong trường học đã có những chuyển biến
bước đầu. Tính đến năm 2012, cả nước có trên 90% số trường học thực hiện tốt
chương trình GDTC chính khố có nề nếp theo quy định; có trên 60% số trường
học có hoạt động TDTT ngoại khố thường xun; có trên 85% học sinh, sinh
viên đạt tiêu chuẩn thể lực theo quy định.
Hình thức tổ chức và nội dung tập luyện TDTT của học sinh, sinh viên
ngày càng đa dạng và dần đi vào nề nếp. Trong đó, hình thức câu lạc bộ TDTT
trường học có tổ chức, có người hướng dẫn ngày càng được phát triển; nhiều nội
dung tập luyện được đưa vào các hoạt động ngoại khố, đặc biệt là các mơn thể
thao dân tộc, trò chơi dân gian được lồng ghép với phong trào thi đua “xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Đội ngũ giáo viên TDTT ở các trường học được đào tạo, nâng cao kiến
thức, từng bước đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ; cơ sở vật
chất, sân chơi, bãi tập, cơng trình thể thao, dụng cụ tập luyện thi đấu thể thao ở
trường học các cấp bước đầu được quy hoạch và đầu tư xây dựng; công tác chỉ
đạo điều hành về GDTC tiếp tục được tăng cường; công tác nghiên cứu khoa
học về GDTC và y tế học đường ngày càng được chú trọng…
Hoạt động TDTT của học sinh, sinh viên đã được quan tâm. Hàng năm,

ngành Giáo dục và Đào tạo tổ chức các giải thể thao cho học sinh, sinh viên
nhằm đánh giá công tác GDTC và luyện tập của các nhà trường. Đặc biệt, các
hoạt động lớn được tổ chức theo chu kỳ 4 năm/lần như: Hội khỏe Phù đổng toàn
quốc, Đại hội thể thao sinh viên toàn quốc, Hội thi nghiệp vụ sư phạm văn nghệ
thể thao các trường sư phạm tồn quốc, Hội thi Văn hố thể thao các trường phổ
thơng dân tộc nội trú tồn quốc... Qua các hoạt động phong trào, đã tuyển chọn
lực lượng đại diện cho học sinh, sinh viên Việt Nam tham dự các đại hội thể
thao học sinh, sinh viên quốc tế đạt được nhiều kết quả tốt. Việt Nam cũng đã
đăng cai tổ chức thành công Đại hội thể thao sinh viên Đông Nam Á và nhiều
giải thi đấu thể thao quốc tế quan trọng khác.


11

Tuy có những chuyển biến bước đầu, song nhìn chung công tác GDTC và
thể thao trường học chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí có nơi, có lúc cịn
bị coi nhẹ, thiếu bình đẳng so với các mơn học khác. Cơ sở vật chất còn nghèo
nàn, nên chưa thực sự tạo được sự hứng thú cho học sinh, sinh viên tập luyện và
thi đấu; chương trình, giáo trình phương pháp giảng dạy, công tác quản lý chậm
đổi mới; đội ngũ giáo viên thể dục còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng
chun mơn; chế độ, chính sách đối với đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu.
Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết 08NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát
triển mạnh mẽ về TDTT đến năm 2020”[13], công tác GDTC và thể thao trường
học cần tập trung vào một số nhiệm vụ và giải pháp chính:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị của TDTT trong sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Phát triển TDTT trường học
phải được coi là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các tổ chức
chính trị xã hội và của nhân dân; đẩy mạnh cơng tác xã hội hóa trong các hoạt
động thể thao trường học các cấp, tạo sân chơi lành mạnh cho học sinh, sinh
viên tham gia tập luyện và thi đấu thể thao.

Hai là, Nhà nước cần có chính sách cụ thể và tăng cường ngân sách để
đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, hướng dẫn viên TDTT; đầu tư cơ sở vật chất, sân
bãi và dụng cụ tập luyện cho hoạt động GDTC trong các trường học từ cấp học
mầm non trở lên; thực hiện mỗi trường đều có giáo viên TDTT và có sân bãi,
dụng cụ tập luyện. Đặc biệt, cần tập trung đầu tư một cách hiệu quả và thiết thực
cho miền núi, vùng sâu, vùng cao, cho những địa phương cịn nghèo và khó
khăn. Nhà nước cần xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách khuyến khích
về GDTC đối với trường học, cũng như đối với giáo viên, học sinh. Có thể coi
đây là khâu đột phá để phát triển thể thao trường học…
Ba là, tăng cường sự phối hợp liên ngành, trước hết ngành Giáo dục và
đào tạo tiếp tục đổi mới chương trình và phương pháp GDTC (kể cả giờ học thể
dục nội khóa và hoạt động TDTT ngoài giờ học ở khu dân cư). Nội dung và


12

phương pháp GDTC cho học sinh cần phải tập trung giải quyết các nhiệm vụ
nâng cao tầm vóc; phát triển toàn diện các tố chất thể lực; cần xây dựng tiêu
chuẩn kiểm tra và đánh giá sức khỏe thể chất thống nhất và tổ chức đánh giá sức
khỏe thể chất cho trẻ em theo định kỳ hàng năm. Đổi mới quản lý GDTC theo
hướng phát huy vai trò chủ động sáng tạo của cơ sở trường học và sáng kiến của
giáo viên, học sinh, dựa trên những quy định có tính định hướng về nội dung,
tiêu chuẩn kiểm tra và phương pháp sư phạm. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng
dụng khoa học, cũng như tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm tốt về GDTC
trong nhà trường.
Ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch cần tích cực chủ động phối hợp và
hỗ trợ ngành Giáo dục và đào tạo tổ chức các hoạt động TDTT ngoài giờ học và
ngoài trường học cho trẻ em. Cần coi TDTT trường học là công tác trọng tâm,
thường xuyên trong chỉ đạo và phát triển TDTT ở tất cả các cấp. Chú trọng phát
triển TDTT trong hệ thống các nhà văn hóa, nhà thiếu nhi, từ cơ sở đến toàn

quốc; xây dựng và thực hiện chương trình phát triển TDTT trong các đối tượng
trẻ em khuyết tật, trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn.
Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát của các cấp uỷ và chính quyền
trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư cơ sở vật chất, quy hoạch đất cho thể thao
trường học và tăng cường công tác giáo dục, truyền thông trong GDTC và hoạt
động thể thao trường học các cấp...
Phát triển thể thao trường học có ý nghĩa chiến lược to lớn, một mặt nhằm
thúc đẩy GDTC, nâng cao sức khỏe, đời sống văn hóa tinh thần của học sinh,
sinh viên để chủ động chuẩn bị nguồn nhân lực cho tương lai, mặc khác nhằm
góp phần phát hiện, đào tạo năng khiếu và tài năng thể thao cho đất nước.
Thực hiện tốt việc phát triển TDTT trường học là thực hiện tốt một nội
dung quan trọng của chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước.
1.1.2.

Chủ trương, chính sách của Nhà nước về TDTT trong Trường Đại học


13

Năm 2000, Pháp lệnh TDTT được ban hành, hoạt động TDTT lần đầu tiên
được luật hóa. Sau một thời gian chuẩn bị, luật TDTT được Quốc hội thông qua
năm 2006 ghi dấu ấn mới cho sự phát triển TDTT của nước nhà. Luật TDTT đã
dành riêng một mục gồm 6 điều để quy định về công tác GDTC và HĐTT trong
nhà trường, đây là cơ sở pháp lý để toàn xã hội tăng cường trách nhiệm đối với
công tác TDTT trường học.
Khơng chỉ lãnh đạo bằng đường lối, chính sách, mà Nhà nước còn đề ra
những giải pháp chỉ đạo thực hiện sâu sát. Một trong những giải pháp là đẩy
mạnh công tác XHH. Với quan điểm GD và TDTT là sự nghiệp của tồn dân,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 05/NQ-CP về đẩy mạnh XHH các lĩnh

vực GD và TDTT (2005) và Nghị định số 69/NĐ-CP (2008) về chính sách XHH
đối với các hoạt động trong lĩnh vực GD, dạy nghề, văn hóa, thể thao nhằm huy
động nguồn lực của toàn xã hội cho sự nghiệp GD và TDTT. Các văn bản này đã
tạo cơ sở pháp lý để các ngành tăng cường công tác XHH, làm cho mọi thành
phần trong xã hội đổi mới quan điểm, nhận thức và giải pháp thực hiện XHH,
tạo điều kiện để người dân tham gia hoạt động và đầu tư các nguồn lực để phát
triển GDTC trường học, phong trào thể thao cho mọi người, nâng cao thành tích
thể thao đỉnh cao và hội nhập quốc tế.
Chiến lược phát triển TDTT Việt Nam đến năm 2020 dành một phần quan
trọng cho GDTC và HĐTT trường học. Chiến lược đã đề cập đến những tồn tại
của công tác TDTT trường học: “Cơng tác GDTC trong nhà trường và các
HĐTT ngoại khóa của HSSV chưa được coi trọng, chưa đáp ứng yêu cầu duy trì
và nâng cao sức khỏe cho HS, là một trong số các nguyên nhân khiến cho thể
lực và tầm vóc người Việt Nam thua kém rõ rệt so với một số nước trong khu
vực… Chương trình chính khóa cũng như nội dung hoạt động ngoại khóa cịn
nghèo nàn, chưa hợp lý, không hấp dẫn HS tham gia các hoạt động TDTT ngoại
khóa”[21].
Chiến lược đã đề ra các chỉ tiêu đến năm 2015 có 100% số trường phổ
thơng thực hiện đầy đủ chương trình GDTC nội khóa, 45% số trường phổ thông


14

có CLB TDTT, có CSVC đủ phục vụ cho hoạt động TDTT, có đủ GV và hướng
dẫn viên TDTT, thực hiện tốt HĐTT ngoại khóa, 75% số HS được đánh giá và
phân loại thể lực theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể.
Nhằm phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, Thủ tướng đã phê duyệt Đề
án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030;
trong đó có chương trình phát triển thể lực, tầm vóc bằng giải pháp tăng cường

GDTC. Một trong những nội dung chủ yếu của chương trình này là: “Đảm bảo
chất lượng dạy và học TD chính khóa, các hoạt động TDTT ngoại khóa cho HS,
xây dựng chương trình GDTC hợp lý...”[5] và “Tận dụng các cơng trình TDTT
trên địa bàn để phục vụ cho hoạt động GDTC trong trường học”[16].
Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2011-2016 đã đề ra yêu
cầu nâng cao chất lượng GD&ĐT, trong đó có chất lượng GDTC. Mục 5 của
Nghị quyết 06/NQ-CP (2012) ghi rõ: “Nâng cao chất lượng GD tồn diện, đặc
biệt là GDTC. Đổi mới chương trình, nội dung, PPDH, gắn với việc đổi mới quy
chế thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập HS”[7].
Trên cơ sở phân tích và đánh giá hiện trạng tình hình GD Việt Nam, bối
cảnh, thời cơ và thách thức đối với GD trong thập kỷ tới, Thủ tướng ra Quyết
định số 771/QĐ-TTg phê duyệt "Chiến lược phát triển GD 2011-2020", khẳng
định quan điểm chỉ đạo: "Đầu tư cho GD là đầu tư cho phát triển. Đổi mới căn
bản, toàn diện nền GD theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, XHH, dân chủ hóa,
hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát triển GD gắn với phát triển KHCN, tập trung vào nâng cao chất
lượng GD đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành… Chú trọng
thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi người học.".[18].
Để đạt được mục tiêu, Chiến lược đã đề ra 8 giải pháp, trong giải pháp đổi
mới nội dung và PPDH, Chiến lược đã đưa ra biện pháp: "Đổi mới chương trình
và sách giáo khoa từ sau năm 2015 theo định hướng phát triển năng lực HS,


15

vừa đảm bảo tính thống nhất trong tồn quốc, vừa phù hợp với đặc thù của mỗi
địa phương. Chú trọng nội dung GD đạo đức, pháp luật, thể chất…".[18].
Tóm lại, TDTT trường học luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và
được xác định là một nội dung chủ yếu trong nhiệm vụ cách mạng, là nhiệm vụ
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Theo đó, TDTT là

một yêu cầu khách quan của xã hội nhằm góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực
và chất lượng cuộc sống nhân dân. Đầu tư cho TDTT trường học là đầu tư cho
con người, cho sự phát triển của đất nước. Vì vậy, thường xun chăm lo cơng
tác TDTT trường học là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền,
các đồn thể và tồn xã hội.
1.1.3.

Quy định của Bộ GD& ĐT về TDTT Trường Đại học, Cao đẳng
Xác định tầm quan trọng của mục tiêu GDTC trong nhà trường Đại học,
Cao đẳng, Bộ GD&ĐT rất quan tâm tạo điều kiện để các trường học tổ chức
nghiên cứu, ứng dụng, phổ biến những tiến bộ khoa học về GDTC và HĐTT. Bộ
GD&ĐT đã chỉ đạo việc giảng dạy TD chính khố và tổ chức HĐTT ngoại khố
cùng với việc ban hành các văn bản quy định về cơng tác GDTC trong nhà
trường. Điều đó được thể hiện rõ trong Quy chế GDTC và Y tế trường học; theo
đó giờ học nội khóa là giờ học mơn TD, sức khỏe theo chương trình quy định;
cịn hoạt động TDTT ngoại khóa được thực hiện theo kế hoạch của nhà trường
và các cấp quản lý GD . Đối với dạy học chính khóa, Bộ GD&ĐT đã ban hành
CTGD Đại học, Cao đẳng môn TD. Do đặc điểm dạy và học môn TD phụ thuộc
nhiều vào sân bãi, dụng cụ TDTT và khí hậu ở các vùng miền, Bộ đã giao cho
các ngành GD&ĐT địa phương căn cứ thực tiễn để xây dựng kế hoạch phân
phối chương trình cụ thể ở địa phương mình.
- Ngày 23/12/2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra quyết định số
72/2008/QĐ-BGDĐT về việc " Ban hành Quy định tổ chức hoạt động TDTT
ngoại khoá cho học sinh, sinh viên". Tại điều 2 chương I có nêu về mục đích,
yêu cầu, nguyên tắc tổ chức các hoạt động ngoại khoá:


16

1. Tổ chức các hoạt động thể thao ngoại khoá trong nhà trường nhằm

động viên, khuyến khích học sinh, sinh viên tự giác tham gia tập luyện thể thao,
hình thành thói quen rèn luyện thân thể thường xuyên cho học sinh, sinh viên.
2. Hoạt động thể thao ngoại khoá phải được quan tâm, chỉ đạo sâu sát,
chặt chẽ, xây dựng kế hoạch phù hợp và đảm bảo về tài chính, cơ sở vật chất,
sân bãi, dụng cụ, đáp ứng nhu cầu của học sinh, sinh viên.
3. Việc tổ chức hoạt động thể thao ngoại khoá cho học sinh, sinh viên
trong nhà trường phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
+ Phù hợp với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều kiện cụ
thể của từng địa phương, cơ sở giáo dục, tránh lãng phí, hình thức.
+ Người tham gia.
+ Có chương trình, kế hoạch và có thể được lồng ghép với các hoạt động
có ý nghĩa giáo dục của nhà trường. Phải tự nguyện, tự giác, phù hợp với sở
thích, giới tính, lứa tuổi và sức khoẻ.
+ Xã hội hoá các hoạt động thể thao ngoại khoá của học sinh, sinh viên.
Điều 4 chương II về nội dung của hoạt động ngoại khoá đã ghi:
1.

Tổ chức cho học sinh, sinh viên tập luyện các bài tập thể dục, thể dục
nhịp điệu, khiêu vũ thể thao trong các giờ nghỉ giải lao ở giữa các tiết học

2.

(đối với học sinh phổ thơng).
Khuyến khích học sinh, sinh viên hàng ngày tự tập luyện ngồi giờ (ngoại
khố) các mơn thể thao theo sở thích của từng cá nhân (điền kinh, thể dục,

3.

các mơn bóng, cầu lơng, đá cầu…).
Tổ chức cho học sinh, sinh viên tập luyện các môn thể thao dân tộc, trò


4.

chơi vận động theo điều kiện của từng địa phương.
Thành lập, duy trì tập luyện thường xuyên đội tuyển năng khiếu thể thao
của từng mơn để làm nịng cốt cho hoạt động thể thao cuả trường, cử đội

5.

VĐV tham gia thi đấu ở cấp huyện, tỉnh, khu vực, toàn quốc.
Tổ chức các giải thi đấu thể thao thường xuyên trong nhà trường và tham
gia các hoạt động thi đấu thể thao cấp huyện, tỉnh, khu vực và toàn quốc.
Điều 5: Hình thức tổ chức các hoạt động thể thao ngoại khoá


17
1.

Tổ chức hoạt động ngoại khoá thao kế hoạch của nhà trường và được
phân cấp tổ chức tập luyện với các hình thức tập theo tập thể ( tổ, đội,

2.

nhóm, lớp, khối) và tập có hướng dẫn.
Thành lập các câu lạc bộ thể thao, trung tâm thể thao của nhà trường, để
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của học sinh, sinh viên tham gia tập

3.

luyện và thi đấu.

Tổ chức các hoạt động thi đấu thể thao giao lưu và trao đổi, phổ biến
những kiến thức về tập luyện thể thao, giữ gìn sức khoẻ để tăng cường sự

4.

hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.
Tổ chức các Giải thể thao hoặc Hội thi thể thao ít nhất một năm một lần;
Đại hội thể dục thể thao (cho sinh viên, học sinh chuyên nghiệp).
Luật giáo dục được xây dựng trên cơ sở quán triệt quan điểm, đường lối,

chủ trương của Đảng về giáo dục, phù hợp Hiến pháp và pháp luật hiện hành.
Đảm bảo sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục và coi
đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển: "Đầu
tư cho giáo dục là đầu tư phát triển”.
Từ nhiệm vụ đặt ra cho công tác GDTC và thể thao trường học,Bộ giáo
dục và Đào tạo đã ban hành khung chương trình GDTC trong các trường Đại
học với quyết định 203/QĐ – TDTT ngày 23/1/1989. Nội dung chương trình
được khái quát như sau:
- Chương trình GDTC được tổ chức đào tạo trong 05 học kỳ;
- Học phần GDTC bắt buộc dành cho sinh viên sức khỏe bình thường
được bố trí giảng dạy trong năm học thứ nhất ở học kỳ I và học kỳ II tương ứng
với các học phần GDTC 1, 2;
- Học phần GDTC tự chọn được bố trí giảng dạy trong năm học thứ hai và
thứ ba ở học kỳ III, học kỳ IV và học kỳ V tương ứng với các học phần
GDTC 3, 4, 5.
Chương trình mơn học Giáo dục thể chất
1. Nội dung


18


TT

Tên học phần

1 Giáo dục thể chất 1

2 Giáo dục thể chất 2

3 Giáo dục thể chất 3

4

Giáo dục thể chất 4

5 Giáo dục thể chất 5

Nội dung
- Lý thuyết môn học GDTC
- Kiểm tra thể lực:
+ Chạy 30m xuất phát cao
+ Chạy tuỳ sức 5 phút
+ Bật xa tại chỗ
+ Gập bụng
- Điền kinh:
+ Chạy cự ly ngắn
+ Chạy cự ly trung bình
- Thể dục:
+ Thể dục tự do nam
+ Thể dục tự do nữ

+ Thể dục phát triển chung
Học phần thể thao tự chọn
cấp độ1:
- Bóng đá cấp độ 1
- Bóng rổ cấp độ 1
- Bóng chuyền cấp độ 1
- Bóng ném cấp độ 1
- Bóng bàn cấp độ 1
- Cầu lông cấp độ 1
- Võ Vovinam cấp độ 1
- Thể dục nhịp điệu cấp độ 1
Học phần thể thao tự chọn
cấp độ 2:
- Bóng đá cấp độ 2
- Bóng rổ cấp độ 2
- Bóng chuyền cấp độ 2
- Bóng ném cấp độ 2
- Bóng bàn cấp độ 2
- Cầu lông cấp độ 2
- Võ Vovinam cấp độ 2
- Thể dục nhịp điệu cấp độ 2
Học phần thể thao tự chọn
cấp độ 3:
- Bóng đá cấp độ 3

Số TC

Loại HP

1


Bắt buộc

1

Bắt buộc

1

Tự chọn

1

Tự chọn

1

Tự chọn


19

- Bóng rổ cấp độ 3
- Bóng chuyền cấp độ 3
- Bóng ném cấp độ 3
- Bóng bàn cấp độ 3
- Cầu lông cấp độ 3
- Võ Vovinam cấp độ 3
- Thể dục nhịp điệu cấp độ 3.
2. Phân phối chương trình mơn học Giáo dục thể chất

a) Học phần GDTC1
Điền kinh: (15 tuần tương đương 30 tiết), thi kết thúc học phần theo quy
định của tổ bộ môn.
STT
1
2
3
4

Nội dung
Lý thuyết
Thực hành
Kiểm tra thể lực
Kiểm tra giữa kỳ
b) Học phần GDTC 2

Số tiết
06
16
06
02

Ghi chú

Thể dục – Kiểm tra thể lực: (15 tuần tương đương 30 tiết), thi kết thúc
học phần theo quy định của tổ bộ môn.
STT
1
2


Nội dung
Thực hành
Kiểm tra giữa kỳ
c) Học phần GDTC 3

Số tiết
28
02

Ghi chú

Thể thao tự chọn: (15 tuần tương đương 30 tiết), thi kết thúc học phần
theo quy định của tổ bộ môn.

STT
1
2

Nội dung
Thực hành
Kiểm tra giữa kỳ
d) Học phần GDTC 4

Số tiết
28
02

Ghi chú



20

Thể thao tự chọn: (15 tuần tương đương 30 tiết), thi kết thúc học phần
theo quy định của tổ bộ môn.
STT
1
2

Nội dung
Thực hành
Kiểm tra giữa kỳ

Số tiết
28
02

Ghi chú

đ) Học phần GDTC 5.
Thể thao tự chọn – Kiểm tra thể lực: (15 tuần tương đương 30 tiết), thi
kết thúc học phần theo quy định của tổ bộ môn.
STT
1
2

Nội dung
Thực hành
Kiểm tra giữa kỳ

Số tiết

28
02

Ghi chú

Để thay đổi tiêu chuẩn rèn luyện sức khỏe phù hợp thực tiễn và quá trình
hội nhập quốc tế, Bộ GD&ĐT đã ban hành quy định về việc đánh giá, xếp loại
thể lực HSSV, qui định về đối tượng thực hiện và các yêu cầu, độ tuổi, các nội
dung đánh giá cũng như tiêu chuẩn cụ thể của từng độ tuổi và giới tính của HS
các cấp . Trong thực tế, số giờ quy định của môn học TD không nhiều nên công
tác TDTT trường học chỉ có thể đạt được hiệu quả khi tổ chức tốt các hoạt động
ngoại khoá cho SV.
Khoa học đã chứng minh muốn nâng cao thể chất thì phải tập luyện tích
cực và thường xuyên. Một trong những nguyên tắc của phương pháp GDTC có
liên quan đến tính thường xun trong tập luyện là hệ thống luân phiên lượng
vận động với nghỉ ngơi, cũng như tính tuần tự trong tập luyện và mối liên hệ lẫn
nhau 10 giữa các mặt khác nhau trong nội dung tập luyện. Tính liên tục của q
trình GDTC và luân phiên hợp lý giữa lượng vận động với nghỉ ngơi, tập thường
xuyên mang lại hiệu quả tất nhiên lớn hơn tập thất thường . Ý thức vấn đề đó,
Bộ GD&ĐT đã ban hành Quy định về tổ chức HĐTT ngoại khoá cho HSSV.
Văn bản này ra đời đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi để các cơ sở GD&ĐT tổ
chức các hoạt động ngoại khoá thể thao trong HSSV . Đồng thời, để thể chế hóa


21

vai trò của GDTC và thể thao trong nhà trường, Bộ GD&ĐT đã tổ chức nhiều
lần lấy ý kiến dự thảo Nghị định về GDTC và thể thao trong nhà trường để trình
Chính phủ ban hành . Nhìn chung, từ cơ sở lý luận và thực tiễn chỉ đạo của Bộ
GD&ĐT về TDTT trường học đã khẳng định vai trò của nó trong việc bảo vệ,

tăng cường sức khoẻ, thể chất, giúp hình thành và bồi dưỡng nhân cách, đáp ứng
yêu cầu GD toàn diện cho HSSV. Đây là mặt GD có ảnh hưởng trực tiếp tới sức
khoẻ và sự phát triển tầm vóc, thể trạng của thế hệ trẻ Việt Nam. Chính vì vậy,
trong những năm qua, Bộ GD&ĐT đã quan tâm, tạo điều kiện để các trường học
triển khai các nhiệm vụ GDTC và HĐTT, đồng thời thông qua việc ban hành các
văn bản, quy định liên quan đã tạo ra hành lang pháp lý chặt chẽ để tổ chức quản
lý công tác này
1.2. Những vấn đề cơ bản về GDTC trường học
1.2.1. Khái niệm GDTC trong trường học
1.2.1.1. Khái niệm GDTC
Thể chất chỉ chất lượng cơ thể con người, đó là đặc trưng tương đối ổn
định về hình thái và chức năng của cơ thể được hình thành và phát triển do bẩm
sinh di truyền và điều kiện sống (bao gồm cả giáo dục và rèn luyện). Theo định
nghĩa này, thể chất bao gồm cả hình thái, chức năng và khả năng thích ứng (thể
lực) . GDTC (physical education) theo nghĩa rộng là bộ phận của văn hóa thể
chất (physical cultural), một bộ phận hữu cơ của GD tồn diện nhằm tác động sư
phạm có hệ thống những năng lực thể chất toàn diện của con người. GDTC
trong trường học được quy định ở Luật TDTT và được định nghĩa: “là mơn học
chính khóa thuộc CTGD nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản
cho người học thơng qua các bài tập và trị chơi vận động, góp phần thực hiện
mục tiêu GD tồn diện”[39].
Giáo dục thể chất được hiểu là: " Quá trình sư phạm nhằm giáo dục và
đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm
việc, kéo dài tuổi thọ của con người".[22].


22

Giáo dục thể chất là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là
dạy học vận động (động tác) và phát triển có chủ định các tố chất vận động của

con người. Giáo dục thể chất là một trong những mục tiêu của giáo dục toàn
diện mà Đảng và Nhà nước đề ra trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục
thể chất là một mặt của giáo dục, là một q trình giáo dục có tổ chức, có mục
đích, có kế hoạch để truyền thụ những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo…từ thế hệ này
cho thế hệ khác.
Giáo dục thể chất như các loại hình giáo dục khác, là một quá trình sư
phạm với đầy đủ đặc điểm của nó, thể hiện mối quan hệ khăng khít trong hoạt
động giữa giáo viên và học sinh, trong đó nhà sư phạm (giáo viên) giữ vai trò
chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức hoạt động sao cho phù hợp với học sinh theo nguyên
tắc sư phạm và quy luật sinh học cịn học sinh đóng vai trị chủ động, tích cực,
sáng tạo, tự giác như một chủ thể của quá trình này. GDTC là một bộ phận của
TDTT, nhưng chính xác hơn, đó cịn là những hình thức hoạt động cơ bản có
định hướng rõ của TDTT trong xã hội, một q trình có tổ chức để truyền thụ và
tiếp thu những giá trị của TDTT trong hệ thống giáo dục - giáo dưỡng chung
(chủ yếu trong các nhà trường). Giáo dục thể chất là một lĩnh vực TDTT xã hội
với nhiệm vụ :"phát triển toàn diện các tố chất thể lực, và trên cơ sở đó phát
triển các năng lực thể chất, bảo đảm hồn thiện thể hình, củng cố sức khoẻ…
Đồng thời, giáo dục các phẩm chất đạo đức, giáo dục ý thức và nhân cách con
người".[22].
Nội dung chương trình GDTC trong các trường Đại học được tiến hành
trong cả quá trình học tập của sinh viên trong nhà trường bằng các hình thức:
giờ học thể dục thể thao chính khố, hoạt động thể dục thể thao ngồi giờ chính
khố (ngoại khố).
Đánh giá chất lượng GDTC trong trường học thơng qua: Nội khóa và
ngoại khóa
1.2.1.2. Giờ học TDTT chính khố (Nội khóa)


23


Giờ học TDTT chính khố có những đặc điểm chung của hình thức lớp bài. Dấu hiệu quan trọng nhất của hình thức này là nhà sư phạm (giáo viên
TDTT, HLV, hướng dẫn viên) giữ vai trò chủ đạo, điều khiển trực tiếp tổ chức
hoạt động dạy học.Sự tác động tương hỗ giữa người dạy và người học tạo nên
điều kiện sư phạm tốt nhất cho quá trình GDTC. Ưu thế của giờ học chính khố
cịn thể hiện ở chỗ: buổi tập được tiến hành chặt chẽ theo kế hoạch học tập của
nhà trường, theo thời khoá biểu chung của toàn trường; lớp học gồm một số
lượng học sinh ổn định, cùng lứa tuổi, hoạt động đã liên kết học sinh thành tập
thể. Đó là những điều kiện khơng kém quan trọng để giải quyết có hiệu quả
nhiệm vụ giáo dục - giáo dưỡng trong quá trình giáo dục thể chất. Đây là hình
thức cơ bản nhất của GDTC được tiến hành trong kế hoạch học tập của nhà
trường. Chủ yếu đào tạo giáo dụ về thể chất, thể thao cho sinh viên là nhiệm vụ
chủ yếu, nên trước hết phải có nội dung thích hợp để phát triển tố chất thể lực và
phối hợp vận động cho HS - SV. Đồng thời, giúp họ có năng lực nhất định để
tiếp thu được các kỹ thuật động tác TDTT.
Mục tiêu chính của đào tạo cơ bản về thể chất và thể thao trong trường
học là: "xúc tiến quá trình đào tạo năng lực đạt thành tích trong thể chất và thể
thao của học sinh, sinh viên, phát triển tố chất thể lực, phát triển năng lực tâm lý,
tạo ý thức tập luyện TDTT thường xuyên, giáo dục được đức tính cơ bản và lịng
nhân đạo cho học sinh”.
Giờ học chính khố TDTT mang tính chất hành chính pháp quy, quy định
đối với học sinh sinh viên và cán bộ giảng dạy. Là giờ học theo chương trình có
quy định thời gian và quy cách đánh giá chất lượng, được bắt đầu từ mẫu giáo,
sau đó là dạy TDTT theo chương trình ở các cấp học cho đến đại học.
Bản thân giờ học TDTT có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt với việc quản lý
và giáo dục con người trong xã hội. Việc học tập các bài tập thể dục, các kỹ
thuật động tác là điều kiện cần thiết để con người phát triển cơ thể một cách hài
hoà, bảo vệ và củng cố sức khoẻ, hình thành năng lực chung và chuyên môn.
Mặt khác, trong giờ học TDTT những phẩm chất ý chí của con người như: lịng



24

dũng cảm, tính mạnh dạn quyết đốn, tính kiên trì và khả năng tự kiềm chế…
được hình thành và hồn thiện. Các giờ học chính khố cịn có vai trị trong việc
giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tập thể, sự thẳng thắn trung thực.
1.2.1.3. Hoạt động TDTT ngoài giờ chính khóa (ngoại khóa)
Các buổi tập ngoại khố có cấu trúc đơn giản và nội dung hẹp hơn giờ
chính khố, đòi hỏi ý thức tự tập luyện, tinh thần độc lập sáng tạo cao. Nhiệm
vụ cụ thể và nội dung buổi tập ngoại khoá phụ thuộc vào hứng thú và sở thích cá
nhân, của một bộ phận học sinh, sinh viên có nhu cầu và ham thích tập luyện
TDTT trong thời gian nhàn rỗi để qua vận động tập luyện giúp nâng cao chất
lượng giờ nội khóa góp phần phát triển năng lực, thể chất toàn diện, và nâng cao
thành tích thể thao cho học sinh, sinh viên. Giờ học ngoại khố nhằm củng cố và
hồn thiện các bài học nội khoá, được tiến hành vào giờ tự học của sinh viên
dưới sự hướng dẫn của giáo viên TDTT, hướng dẫn viên hoặc tự tập luyện tự do.
Ngồi ra, cịn các hoạt động thể thao quần chúng ngoài giờ học cịn có: Luyện
tập trong các câu lạc bộ, các đội đại biểu từng môn thể thao, các bài tập thể dục
vệ sinh chống mệt mỏi hàng ngày, giờ tự tập luyện của học sinh, sinh viên,
phong trào tự tập rèn luyện thân thể. Như buổi tập nội khoá, cấu trúc buổi tập
ngoại khoá phải đảm bảo cơ thể dần dần bước vào hoạt động tạo điều kiện tốt
nhất để thực hiện phần cơ bản và phần kết thúc của buổi tập.
Do nội dung buổi tập ngoại khố có khác biệt nên cách tổ chức tập luyện
có đặc trưng riêng. Hoạt động ngoại khoá với chức năng động viên hấp dẫn
nhiều người hơn tham gia tập luyện các môn thể thao yêu thích, rèn luyện thân
thể, tham gia cổ vũ phong trào tự tập luyện rèn luyện thân thể.
Mục đích của tập luyện TDTT ngoại khoá tổ chức trong thời gian nhàn
rỗi của học sinh, sinh viên có nội dung: Giáo dục những hiểu biết và những kiến
thức sử dụng tự giác các phương tiện giáo dục thể chất khác nhau trong đời sống
và hoạt động hàng ngày. Những buổi tập ngoại khố có nội dung khác nhau giúp
cho học sinh, sinh viên nắm được nội dung trong trương trình học tập về TDTT,

chuẩn bị cho họ thi đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, ngoài ra giúp hoàn thiện


25

các nội dung thể thao vận động tự chọn. Tập luyện TDTT ngoại khóa là hình
thức tập luyện tự nguyện nhằm tăng cường vận động để củng cố sức khỏe, duy
trì và nâng cao khả năng hoạt động thể lực, rèn luyện cơ thể và chữa bệnh, đồng
thời giáo dục các tố chất thể lực và ý chí, tiếp thu các kỹ năng kỹ xảo vận động.
Giữa hình thức tập luyện nội khố và ngoại khố có mối liên hệ lẫn nhau.
Tập lun ngoại khố giữ vai trị, vị trí quan trọng là bổ xung và củng cố hiệu
quả của cơng tác GDTC trong nhà trường và góp phần tạo nếp sống vận động và
rèn luyện thân thể, lành mạnh, sôi nổi, phong phú, tươi vui, lạc quan, loại bỏ
được cuộc sống trống rỗng vô vị, chơi bời lêu lổng của một số học sinh, sinh
viên trong thời gian nhàn rỗi, nhất là học sinh, sinh viên ở thành thị. Việc kết
hợp tốt giữa tập luyện thể dục thể thao nội khoá với ngoại khoá giúp cho con
người vận động có sức khoẻ phát triển, có thân hình đẹp và tạo điều kiện nâng
cao thành tích học tập của học sinh, sinh viên.
1.2.2. Nhiệm vụ Giáo dục thể chất trong trường Đại học
GDTC là một trong mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước
ta, và nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục thể chất được hiểu là:
“Quá trình sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất
và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc, và kéo dài tuổi thọ của con người”.
[22].
Giáo dục thể chất cũng như các loại hình giáo dục khác, là quá trình sư
phạm với đầy đủ đặc điểm của nó, có vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức
hoạt động của nhà sư phạm phù hợp với học sinh với nguyên tắc sư phạm. Giáo
dục thể chất chia thành hai mặt tương đối độc lập: Dạy học động tác (giáo
dưỡng thể chất) và giáo dục tố chất thể lực. Trong hệ thống giáo dục nội dung
đặc trưng của giáo dục thể chất được gắn liền với giáo dục, trí dục, đức dục, mỹ

dục và giáo dục lao động.
GDTC là một lĩnh vực thể dục thể thao (TDTT) xã hội với nhiệm vụ là:
“Phát triển toàn diện các tố chất thể lực, và trên cơ sở đó phát triển các năng lực
thể chất, bảo đảm hồn thiện thể hình, củng cố sức khoẻ, hình thành theo hệ


×