Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Vấn đề con người trong tác phẩm buồn nôn của jean paul sartre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 66 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
------------------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài

VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TÁC PHẨM “BUỒN
NÔN” CỦA JEAN-PAUL SARTRE

Sinh viên thực hiện: Bùi Trần Huyền Trâm
Lớp

:15SGC

Giảng viên hướng dẫn: TS. Dương Đình Tùng

Đà Nẵng, tháng 01 năm 2019


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
------------------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Đề tài :

VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TÁC PHẨM


“BUỒN NÔN” CỦA JEAN-PAUL SARTRE

Sinh viên thực hiện: Bùi Trần Huyền Trâm
Lớp

: 15SGC

Giảng viên hướng dẫn: TS. Dương Đình Tùng

Đà Nẵng, tháng 01 năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa
học của TS. Dương Đình Tùng. Các nội dung nghiên cứu trong đề tài này là trung thực
và chưa được công bố bằng bất kì hình thức nào trước đây. Ngồi ra, khóa luận cịn sử
dụng một số quan điểm, nhận xét của các tác giả khác đều có trích dẫn và chú thích
nguồn gốc. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về nội dung khóa luận của mình.

LỜI CẢM ƠN


Để hồn thành đề tài khóa luận và kết thúc chương trình học, với tình cảm chân
thành, tơi xin gửi lời cảm ơn tới thầy Dương Đình Tùng đã giúp đỡ tơi trong suốt q
trình nghiên cứu và trực tiếp hướng dẫn tơi hồn thành đề tài luận văn tốt nghiệp này.
Đồng thời, tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn tới thầy cơ trong Khoa Giáo dục chính trị Trường
Đại học Sư phạm Đà Nẵng, bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình
học tập và hồn thành Khóa luận tốt nghiệp lần này.
Em xin chân thành cảm ơn!



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết .......................................................................................................... 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu: ....................................................................... 2
2.1. Mục tiêu nghiên cứu: ....................................................................................... 2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: ...................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ....................................................................... 2
3.1. Đối tượng nghiên cứu: ..................................................................................... 2
3.2. Phạm vi nghiên cứu: ........................................................................................ 2
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu: .......................................................... 2
5. Bố cục của đề tài:.................................................................................................... 2
6. Tổng quan tài liệu: ................................................................................................. 2
CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC CỦA JEAN-PAUL SARTRE VÀ
TÁC PHẨM “BUỒN NÔN” ......................................................................................... 5
1.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Jean-Paul Sartre .............................. 5
1.2. Những nội dung cơ bản trong triết học của Jean-Paul Sartre ........................ 8
1.2.1. Những tiền đề cho sự ra đời của triết học Jean-Paul Sartre ....................... 8
1.2.2.

Một số tư tưởng triết học của Jean-Paul Sartre ..................................... 11

1.3. Tác phẩm “Buồn Nơn” của Jean Paul Sartre ................................................ 16
1.3.1.

Hồn cảnh ra đời của tác phẩm Buồn Nôn ............................................ 16

1.3.2.

Nội dung và bố cục của tác phẩm “Buồn Nôn” ..................................... 18


1.3.3. Ý nghĩa của tác phẩm “Buồn Nơn” ............................................................ 19
1.3.4.

Tính chất của tác phẩm ........................................................................... 21

Kết luận chương I ........................................................................................................ 24
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM CỦA JEAN-PAUL SARTRE VỀ VẤN ĐỀ CON
NGƯỜI QUA TÁC PHẨM “BUỒN NÔN” .............................................................. 25
2.1. Nhân vật Roquentin và hình ảnh của tác giả qua nhân vật Roquentin trong
tác phẩm “Buồn Nôn”.............................................................................................. 25
2.1.1. Nhân vật Roquentin trong tác phẩm “Buồn Nơn” .................................... 25
2.1.2. Hình ảnh tác giả thông qua nhân vật Roquentin trong tác phẩm “Buồn
Nôn” ....................................................................................................................... 33


2.2. Con người trong tác phẩm “Buồn Nôn” của Jean-Paul Sartre .................... 37
2.2.1. Con người cô đơn ........................................................................................ 37
2.2.2. Con người dự phóng .................................................................................... 40
2.2.3. Con người tha nhân..................................................................................... 42
2.2.4. Con người dấn thân ..................................................................................... 44
2.3. Giá trị của vấn đề con người trong tác phẩm Buồn Nôn của Jean-Paul
Sartre ......................................................................................................................... 45
2.3.1. Con người hướng đến đời sống là chính mình .......................................... 45
2.3.2. Con người trách nhiệm ............................................................................... 49
2.3.2.1. Con người trách nhiệm với chính bản thân ........................................... 49
2.3.2.1. Con người trách nhiệm đối với sự phát triển của xã hội ....................... 52
Kết luận chương II ...................................................................................................... 56
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 59



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Trong mỗi giai đoạn lịch sử của triết học, con người luôn là đối tượng được nghiên
cứu đầy đủ và trên nhiều phương diện nhất. Con người ln gắn liền với thời đại, khơng
có con người trừu tượng, mà luôn tồn tại trong một xã hội nhất định, một giai cấp, một
hình thái kinh tế xã hội nhất định. Trong sự tồn tại, với những tác động mang tính xã hội
– lịch sử, đặc biệt từ vấn đề giai cấp và vấn đề kinh tế, đã làm cho bản chất con người
ngày càng bị tha hóa, và trong sứ mệnh của mình, triết học đi tìm lại cái bản nguyên của
con người, cái con người trong tính tồn vẹn của nó. Theo Husserl: “Hình thức tha hóa
chiếm ưu thế trong xã hội phương Tây chính là sự tha hóa về tinh thần”.
Xã hội càng giàu có về vật chất, con người càng bị cuốn vào lối sống thực dụng, thì
những giá trị tinh thần ngày bị xem nhẹ, đặc biệt mặt trái của các cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật đã làm cho tư duy con người ngày càng khơ cứng hơn, sự riêng biệt, tính
cá nhân ngày càng bị lãng quên. Triết học hiện sinh ra đời với mục đích đi tìm sự hiện
tồn của con người, tìm lại những giá trị nhân bản mà thời đại công nghiệp con người đã
bỏ qua. Triết học hiện sinh tìm về đời sống nội tâm, ý thức tự quy và cách thức phản
ứng của con người không phải theo bản năng hay theo một cách thức nhất định mà phản
ứng một cách tự do. Người có tự do hiện sinh là người hành động vì cảm thấy phải hành
động, hành động để thể hiện sự hiện sinh của chính mình, hành động để làm sự hiện sinh
của mình thêm phong phú và sâu sắc chứ khơng phải hành động vì chiều theo số động
hay vì truyền thống hay vì cưỡng ép hay vì một bất kỳ một lý do nào khác mà khơng vì
sự hiện sinh của chính mình.
Jean-Paul Sartre là nhà triết học người Pháp, là một trong những đại diện hàng đầu
của triết học hiên sinh. Ông được biết đến với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Buồn nôn
(1938), Bức tường (1938), Tồn tại và hư vô (1943), Những con đường của tự do (19451949), Những người bị cầm tù ở Altona (1960),… Trong số các tác phẩm để lại tên tuổi
của ông với hậu thế chúng ta phải bàn đến cuốn tiểu thuyết “Buồn Nôn”. Bởi lẽ tác phẩm
đã làm nổi bật được cảm xúc nội tâm của con người, đồng thời cho chúng ta thấy cảm
xúc con người được lột tả thông qua nhân vật Roquentin. Ông đã mổ xẻ đến kiệt cùng

sự nhận thức của Roquentin về chính mình, về từng động tác, từng cảm giác, từng tri
giác của chính mình để dẫn dắt chúng ta đi đến nhận thức sâu sắc hơn về con người hiện
sinh. Để làm rõ được con người hiện sinh trong tác phẩm này tôi quyết định chọn đề tài:

1


“Vấn đề con người trong tác phẩm Buồn Nôn của Jean-Paul Sartre” góp phần nghiên
cứu giúp chúng ta nhận thức đúng về con người dưới góc nhìn hiện sinh.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Từ việc phân tích vấn đề con người trong tác phẩm, đề tài chỉ ra những giá trị những
vấn đề về con người đối với tính lịch sử và xã hội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát về Jean-Paul Sartre, triết học của ơng và tác phẩm “Buồn Nơn”.
- Phân tích vấn đề con người trong tác phẩm “Buồn Nôn”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Vấn đề con người trong tác phẩm “Buồn Nôn” của Jean-Paul Sartre.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Tác phẩm “Buồn Nôn” của Jean-Paul Sartre.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở
nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ đạo
sau: phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, đối chiếu, so sánh, khái qt hóa, trừu tượng
hóa.
5. Bố cục của đề tài:
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo bố cục đề tài gồm 2 chương:
- Chương I: Khái lược về Triết học của Jean-Paul Sartre và tác phẩm “Buồn Nôn”.

- Chương II: Vấn đề con người trong tác phẩm “Buồn Nôn” của Jean-Paul Sartre.
6. Tổng quan tài liệu:
Buồn Nôn của Jean-Paul Sartre là một tác phẩm mang lại giá trị tinh thần rất lớn cho
nhân loại. Chính vì thế, nó ln được quan tâm và được nhiều học giả đi sâu vào nghiên
cứu trên nhiều khía cạnh, đặc biệt là về góc độ con người, chủ nghĩa hiện sinh,… Bởi
Buồn Nơn chính là một làn sóng của chủ nghĩa hiện sinh nên nó đã khơi lên rất nhiều
dư luận trái chiều đối với các học giả. Họ quyết tâm đi nghiên cứu tác phẩm để có thể
hiểu rõ hơn về nội dung của nó, đồng thời họ cũng dành nhiều thời gian đi nghiên cứu
về tác giả Jean Paul Sartre. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam cũng đã có nhiều cơng

2


trình nghiên cứu về tác phẩm Buồn Nơn và tác giả Jean-Paul Sartre, bên cạnh đó, có một
số cơng trình được viết thành sách.
Trong thời kì kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam, có nhiều tác giả viết về
chủ nghĩa hiện sinh như: “Chủ nghĩa hiện sinh và thuyết cấu trúc” của Trần Thiện Đạo;
“Triết học hiện sinh” của Trần Thái Đỉnh; “Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam
1954-1975” (trên bình diện lí thuyết) của Huỳnh Như Phương… Các tác giả này đã viết
nhiều về Sartre nhưng tiểu thuyết Buồn Nơn chỉ được trình bày một cách ngắn gọn, chưa
tác giả nào dành hẳn một mục nói về tác phẩm quan trọng này.
Mới đây, ở những trang tạp chí văn học, báo,… nhiều bài viết nghiên cứu về chủ
nghĩa hiện sinh, bài viết về Jean-Paul Sartre với Buồn Nôn được nghiên cứu và bàn luận
sôi nổi. Các cơng trình này đã trình bày một cách khái quát và có hệ thống quan niệm
của chủ nghĩa hiện sinh cũng như tư tưởng của Sartre. Đó là những tri thức gợi mở cho
những người nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh.
Francis Jeanson viết cuốn “Sartre” vào năm 1947, do chính Sartre tái bản dưới tựa
“Vấn đề luân lí và tư tưởng của Sartre”, cuốn sách đi giới thiệu, trình bày lại chính xác,
mạch lạc, dễ hiểu triết lí của Sartre và những vấn đề ln lí nó đặt ra. J.P. Sartre đặc biệt
nhấn mạnh yếu tố xã hội trong khi nghiên cứu một nhà văn. Điều đó thể hiện trước hết

qua sự nghiệp sáng tác của chính bản thân ông: “Tôi nghĩ rằng trong tôi đã có sự phát
triển liên tục từ tác phẩm Buồn Nơn đến Phê bình lí trí biện chứng. Sự phát hiện lớn của
tơi, đó là các vấn đề xã hội, trong chiến tranh, tôi đã là người lính trên chiến trận, đó
thực sự là nạn nhân của một xã hội mà anh thuộc về nó, nơi ấy anh khơng muốn có mặt
và là xã hội đem lại cho anh những luật lệ mà anh khơng muốn. Các vấn đề xã hội khơng
có trong tác phẩm Buồn Nơn, nhưng người ta có thể thấy thống qua”. Sartre quan tâm
đến việc hòa nhập con người và thời đại, thống nhất một cách hữu cơ việc nghiên cứu
lịch sử và phân tích tác phẩm của nhà văn.
Bài viết “Jean-Paul Sartre - Nỗi đam mê làm người trong thế kỉ XX” của tác giả
Phan Huy Đường. Nó đi vào nghiên cứu về hiện sinh của Jean-Paul Sartre cùng những
tác phẩm của ông. Với những nội dung như: Một con người quái đản; Một kiếp sống, tư
duy, hành động và sáng tác nghệ thuật phi thường. Cùng với đó là quan điểm của các
nhà hiện sinh lớn như Descartes, Kant, Hegel khi trả lời 3 câu hỏi: Thực-thể có thực hay
khơng có thực. Nếu có, bản chất của nó là gì?, Tinh-thần có thực hay khơng có thực.
Nếu có, bản chất của nó là gì?, Tinh-thần có thể hiểu thực-thể hay khơng? Vì sao? để từ
đó tác giả có thể đi sâu nghiên cứu vào tư tưởng và hành động của Sartre.

3


Các nhà nghiên cứu dành nhiều đánh giá cho chủ nghĩa hiện sinh của Jean-Paul
Sartre như: “Từ hiện tượng học đến triết học hiện sinh là con đường tất yếu của tư tưởng
thế kỉ 20, mà lịch sử đã chọn Jean-Paul Sartre là người phát ngôn của thời đại”. Tất cả
những vấn đề Sartre đặt ra để làm sáng tỏ thân phận làm người, cụ thể là: “Hữu thể là
một thảm kịch, là phi lí, là hư vơ; con người luôn cô đơn và cái chết luôn hiện diện.
Nhưng con người biết bất chấp cái chết để nhập cuộc tự do làm nên lịch sử của mình
bằng những dự phóng”. Những tác phẩm văn học của Sartre đều bộc lộ tư tưởng triết
học của Sartre trong Tồn tại và Hư vơ, đó là: Hiện sinh từ thân phận và hồn cảnh con
người trong thế giới, một thế giới mà trong đó ta bị đẩy vào và chờ đợi ở ta một ý nghĩa.
Bên cạnh đó cịn có một số cơng trình nghiên cứu như: Jean-Paul Sartre là nhà văn

dấn thân và nhập cuộc trong cuốn “Sứ mệnh của tiểu thuyết trong thời đại chúng ta” của
Svetlana viết năm 2005; “Cửa sổ văn chương thế giới” (Ngô Tự Lập sưu tầm, tuyển
chọn) của Trần Thiện Đạo viết năm 2003; “Về tư tưởng và văn học hiện đại phương
Tây” của Phạm Văn Sĩ viết năm 1986.

4


CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC CỦA JEAN-PAUL SARTRE
VÀ TÁC PHẨM “BUỒN NÔN”
1.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Jean-Paul Sartre
Jean-Paul Sartre là nhà triết học hiện sinh, nhà soạn kịch, nhà biên kịch, tiểu thuyết
gia và là nhà hoạt động chính trị người Pháp. Ơng là một trong những nhân vật nòng cốt
trong hệ thống triết học của chủ nghĩa hiện sinh, và một trong những nhân vật có ảnh
hưởng lớn trong nền triết học Pháp thế kỷ XX và chủ nghĩa Marx. Tác phẩm của ông
cũng đã ảnh hưởng đến xã hội học, lý thuyết phê bình, lý thuyết hậu thuộc địa, phê bình
văn học, và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng đến các ngành này. Sartre cũng có mối quan hệ
với nhà lý thuyết nữ quyền nổi tiếng là Simone de Beauvoir.
Ông sinh ngày 21 tháng 05 năm 1905 tại Paris, trong một gia đình gia giáo và giàu
có. Ơng là người con duy nhất của Jean-Baptiste Sartre, một sĩ quan của Hải qn Pháp,
và Anne-Marie Schweitzer. Mẹ ơng có ngun qn là người vùng Grand Est, bà là chị
họ của Albert Schweitzer, người cũng từng đoạt giải Nobel (cha của Anne-Marie
Schweitzer - ông Charles Schweitzer - là anh ruột của Louis Théophile Schweitzer - cha
của Albert Schweitzer). Năm 1907, khi Satre mới có 2 tuổi thì cha của ơng mất vì bị sốt.
Bà Anne và đã đưa ông về ở với ông bà ngoại ở Meudon. Tại đây, Satre được mẹ giáo
dưỡng với sự trợ giúp ông ngoại là một thầy giáo tiếng Đức. Ơng ngoại của Satre đã dạy
ơng tốn học và văn học cổ điển từ khi ơng cịn ấu thơ. Vào năm 1917, khi Sartre 12
tuổi bà Anne Marie tái giá với ông Joseph Mancy, một kỹ sư và về sau được cử làm
giám đốc xưởng hải quân tại La Rochelle. Cậu Jean-Paul Sartre đã lớn lên trong một
khung cảnh tư sản thành thị, không hề cảm thấy hạnh phúc khi theo học tại trường trung

học La Rochelle và luôn cảm thấy cô độc. Về sau trong cuốn tự thuật, J.P. Sartre đã viết:
“Tôi lớn lên trong cảnh tối tăm, tôi trở thành một người lớn cô đơn, không cha và không
mẹ, không nhà và không cả trái tim, và hầu như khơng có cả tên gọi” và “cái hệ thống
này đã làm tơi kinh hồng”.
Sartre sớm đã bộc lộ thiên hướng văn chương. Vào những năm 1920, khi còn là một
thiếu niên, Satre đã bị triết học thu hút khi ông đọc bài khảo luận “Các dữ liệu trực cảm
của ý thức” của Henri Bergson. Năm 1924, ông đã theo học và đạt được văn bằng triết
học tại Trường Sư Phạm nổi tiếng ở Paris (École normale supérieure), một trường alma
mater của nhiều nhà tư tưởng và trí thức nổi tiếng của Pháp. Trong thời gian này Sartre
đã gặp một cô bạn cùng lớp: Simone de Beauvoir – là người phụ nữ đầu tiên đậu thạc sĩ
ở Pháp, người mà sau này cũng trở nên một nhà tư tưởng danh tiếng, một nhà văn và

5


một phụ nữ vận động cho phong trào nam nữ bình quyền, sau này tác phẩm nổi tiếng
nhất của bà Beauvoir là cuốn “Giới Tính Thứ Hai” (The Second Sex). Sartre và Beauvoir
là đơi bạn thân, đơi tình nhân, trao đổi các mối tình lãnh mạn và cả hai đều không là
“những người một vợ một chồng”. Cả hai đều coi thường các quy ước văn hóa và xã
hội, họ coi đây là những điều thừa nhận mang tính tư sản (bourgeois), theo cả về tư
tưởng lẫn lối sống.
Sartre đã chịu ảnh hưởng từ nhiều khía cạnh của triết học phương Tây, kế thừa tư
tưởng của Immanuel Kant, Georg Wilhelm Friedrich Hegel, Søren Kierkegaard,
Edmund Husserl và Martin Heidegger. Có lẽ quyết định có ảnh hưởng lớn nhất đến sự
phát triển trong triết học của Sartre là ông đã tham dự hội thảo Alexandre Kojève hàng
tuần trong nhiều năm liền.
Vào những năm đầu học tại École Normale, Sartre là một trong những sinh viên quậy
nhất trường. Năm 1927, ông cùng Georges Canguilhem vẽ 1 bức biếm họa về chủ nghĩa
chống quân phiệt trên bản tin của trường, bức tranh này đặc biệt gây khó chịu cho hiệu
trưởng Gustave Lanson. Cũng trong năm này, Sartre cùng với các bạn thân của mình

gồm Nizan, Larroutis, Baillou and Herland đã dựng lên một trò chơi khăm giới truyền
thông. Nhân sự kiện chuyến bay New York - Paris thành công của Charles Lindbergh,
họ đã thông cáo với báo chí rằng Lindbergh sẽ được trao giải thưởng sinh viên danh dự
của École. Nhiều tờ báo, bao gồm cả tờ Le Petit Parisien, đồng loạt cho công bố tin này
vào ngày 25 tháng 5. Hàng ngàn độc giả, bao gồm các nhà báo và những khán giả tị mị
đến xem đều khơng biết rằng những gì họ đã được chứng kiến chỉ là một diễn viên đóng
thế nhìn giống như Lindbergh mà thơi. Sự việc bị phanh phui, và trước làn sóng phản
đối của cơng chúng đã buộc Lanson phải từ chức hiệu trưởng. Năm 1933-1934 J.P.
Sartre sang Đức dạy học, đồng thời chịu ảnh hưởng nhiều từ triết học Đức, nhất là Hiện
tượng học và những tư tưởng của Heiddeger.
Sau khi tiếp tục dạy ở Le Havre và ở Lyon, Sartre dạy ở trường trung học Pasteur ở
Paris trong thời gian 1937-1939. Cuối thập niên 1930 Sartre bắt đầu viết những tác phẩm
lớn của đời mình, trong đó có La Nausée (Buồn Nơn, 1938), Le Mur (Bức Tường, 1938),
là những cuốn sách tiêu biểu cho dòng văn học phi lý đã giúp Sartre trở thành một trong
những nhà văn hóa lớn nhất của nước Pháp thời kỳ này. Trong Thế chiến thứ hai, do
mắt kém ông không nhập ngũ nhưng vẫn tham gia kháng chiến, bị bắt làm tù binh ở
Padoux (Lorraine), sau đó bị nhốt vào trại tập trung. Đến tháng 5 năm 1941, ông được
phóng thích Sartre trở về Paris tiếp tục dạy học, viết văn, làm quen với Albert Camus.

6


Năm 1945, sáng lập và chủ trương tạp chí Les Temp Modernes (Thời mới). Sau khi Thế
chiến thứ hai kết thúc, ông thôi dạy học và chuyên tâm vào sáng tác văn học. Là nhà
triết học của Chủ nghĩa Hiện sinh, tác phẩm của ông nổi tiếng đến nỗi ông được mệnh
danh là “Nhà triết học best-sellers”. Ông đồng thời là nhà viết kịch, nhà tiểu thuyết và
nhà phê bình văn học nổi tiếng.
Năm 1964, ông lại càng nổi tiếng cùng với việc ông từ chối giải Nobel văn học. Ông
cho rằng giải Nobel không thật sự vô tư và ông không muốn gắn tên tuổi mình với sự
không vô tư ấy. Mặt khác, ông là một nhà văn độc lập, ơng muốn giữ sự tự do của mình,

khơng muốn bị phụ thuộc vào vinh quang, vì chính nó sẽ ràng buộc lại mình. Vào năm
1970, J.P. Sartre đã bị nhà cầm quyền Pháp bắt giữ vì bán trên đường phố một tài liệu
Mao-ít bị cấm đốn, có tên là “Lý Do của dân tộc” (La cause du people). J.P. Sartre rất
hiểu rõ các tư tưởng của Mao Trạch Đông. Ông đã từng qua Trung Hoa với Simone de
Beauvoir vào năm 1955 và bà này đã quyết định viết một cuốn sách dày về nước này.
Tuy nhiên, vào đầu thập niên 1960, cuộc cách mạng kinh tế và xã hội tại xứ Cuba đã ám
ảnh ông J.P. Sartre nhiều hơn. Ông đã từng gặp ông Fidel Castro nhưng về sau đoạn
giao với nhà độc tài này.
Chủ nghĩa Hiện sinh của J.P. Sartre mang tính chất vơ thần. Theo ơng, sự tồn tại của
con người khơng phụ thuộc vào Chúa. Ơng khẳng định: con người là tương lai của con
người, con người là chính những gì mình tự tạo nên. Đối với J.P. Sartre, Chúa đã chết,
chỉ còn con người tự cứu lấy mình, mỗi người tự làm cho mình trở thành con người
trong những hoàn cảnh khác nhau. J.P. Sartre coi cuộc đời là vơ nghĩa, khơng có thế lực
nào bên ngồi có thể giải thốt được tình trạng đó của con người, kể cả Chúa.
Từ việc xác nhận tính chất vơ thần trong hệ thống tư tưởng của mình, J.P. Sartre
nhấn mạnh trách nhiệm của con người trong cuộc đời. Trách nhiệm đó thể hiện ở sự tự
lựa chọn của con người trong từng tình huống cụ thể. Cho rằng “khơng có lý thuyết nào
có thể lạc quan hơn thuyết Hiện sinh bởi nó cho rằng số phận con người nằm trong bản
thân con người”, J.P. Sartre khẳng định “Thuyết Hiện sinh là một lý thuyết hành động
và của tinh thần dấn thân”. Cũng từ đây xuất hiện những quan niệm tích cực của J.P.
Sartre liên quan đến vấn đề người viết.
Chúng ta đã biết vấn đề người viết trong q trình sáng tác, hay nói khác đi, vấn đề
tác giả là một trong những vấn đề thu hút sự chú ý của giới lý luận phê bình của nhiều
nước trên thế giới ở thế kỷ XX. Cũng từ vấn đề này mà nhiều cách tiếp cận, nhiều trào

7


lưu, trường phái phê bình khác nhau đã ra đời, đã tranh luận sôi nổi và nhiều khi chưa
thể đi đến những kết luận cuối cùng.

Vấn đề người viết đã được J.P. Sartre thể hiện cụ thể qua nhiều tác phẩm khác nhau
trong quá trình hoạt động trên lĩnh vực văn học của mình.
J.P. Sartre cũng được biết đến nhiều với tư cách một nhà viết kịch phi lí. Ơng nổi
tiếng với các vở kịch Ruồi và Kín cửa. Ngồi ra, J.P. Sartre cịn viết phê bình văn học
và các bài nghiên cứu về Baudelaire (1947), Jean Genet (1952). Cuốn sách viết về thời
niên thiếu của ơng, Lời nói, được xuất bản năm 1964.
Ông đã để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm như Đề cương lí thuyết tình cảm
(Esquisse d’une théorie des émotions, 1939), khảo cứu [Outline of a theory of the
emotions]; Cái tưởng tượng (L’Imaginaire, 1940), nghiên cứu tâm lí [Psychology of
imagination]; Buồn nơn (La nausée, 1938), tiểu thuyết [Nausea]; Bức tường (Le mur,
1938), truyện [Intimacy]; Tồn tại và hư vô (L’Etre et le néant, 1943), tác phẩm triết học
[Being and nothingness]; Ruồi (Les mouches, 1943), kịch [The flies]; Kín cửa (Huis
clos, 1944), kịch; Con đĩ biết lễ nghĩa (La putain respectueuse, 1946), kịch; Chết không
mai táng (Mort sans sépulture, 1947), tập kịch ngắn; Chủ nghĩa hiện sinh là chủ nghĩa
nhân đạo (L’Existentialisme est un humanisme, 1946), tiểu luận [Existentialism is a
humanism]; Sự đã rồi (Les jeux sont faits, 1947); Guồng máy (L’engrenage, 1948);
Những bàn tay bẩn (Les mains sales, 1948), kịch; Những con đường của tự do (Les
chemins de la liberté, 1945 - 1949), tiểu thuyết [The roads to freedom]; Phê phán lí trí
biện chứng (La Critique de la raison dialectique, 1960), khảo luận; Những người bị cầm
tù ở Altona (Les sequestres d’Altona, 1960), kịch; Lời nói (Les mots, 1964), hồi kí [The
words].
Tóm lại, ơng là nhà văn, là một trong những nhân vật nòng cốt trong hệ thống triết
học của chủ nghĩa hiện sinh, cũng là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong
nền triết học Pháp thế kỷ XX và chủ nghĩa Marx. Các tác phẩm phong phú cùng những
hoạt động sôi nổi trong cuộc đời ơng đã có một tác động sâu rộng trong đời sống xã hội
Pháp thập niên 1950 – 1960, khiến ông trở thành thần tượng của thanh niên Pháp một
thời.
1.2. Những nội dung cơ bản trong triết học của Jean-Paul Sartre
1.2.1. Những tiền đề cho sự ra đời của triết học Jean-Paul Sartre
Tư tưởng Sartre nối tiếp và phát triển tư tưởng Heidegger. Điều này có thể do triết

luận của Heidegger trừu tượng trong khi cách trình bày của Sartre lại khá cụ thể. Một

8


vấn đề quan trọng là Sartre thể hiện tư tưởng ấy qua văn chương. Chính vì thế chủ nghĩa
hiện sinh nảy nở với tâm điểm là Sartre. Với Sartre, con người hiện sinh có hai đặc điểm
chính: một là, con người tự tạo nên mình; hai là, để tạo nên mình con người phải lựa
chọn tự do. Sartre đã khẳng định vai trò của chủ thể và con người tạo dựng cho thế giới
những giá trị của con người gán cho nó.
Dịng chảy xun suốt lịch sử triết học phương Tây thế kỉ XX, là hiện tượng học đến
chủ nghĩa hiện sinh. Heidegger là người đã tạo ra nét mới trong nghiên cứu về tâm thức
của con người, nếu Husserl nghiên cứu về các hiện tượng trong đời sống tâm lý người,
thì Heidegger nghiên cứu về nó như một hữu thể, nghĩa là như một sự hiện tồn để xác
định được bản thể của đối tượng. Có thể nói, nghiên cứu của Heidegger là một cách tiếp
cận mới về vấn đề con người, ơng khác các nhà triết đó, là đặt con người trong tính tồn
diện của nó, song đó khơng phải là con người trong tính biệt lập, mà tồn tại trong một
trật tự xã hội. Và trong cái trật tự, con người sẽ ý, hướng, và tính như thế nào để tồn tại
với tư cách là một hữu thể, có thể nói, cách đặt vấn đề như vậy, là cơ sở, nền tảng lý
luận cho các nhà hiện sinh về sau nghiên cứu về vấn đề con người.
Có thể nói, sau Heidegger, khơng thể hiểu được triết học châu Âu thế kỉ XX mà
không biết tới Heidegger, không có Heidegger thì triết học hiện sinh của Jean-Paul Sartre
khó hình thành. Heidegger cũng là triết gia thế kỉ XX có cái nhìn mới mẻ về lịch sử triết
học; nhờ ông mà các tác giả cổ điển như Platon, Aristote, Kant, Hegel được đọc lại theo
kiểu mới.
Vậy có thể thấy rằng Husserl và Heidegger có vị trí quan trọng đối với sự ra đời của
triết học hiện sinh. Bên cạnh tiền đề tư tưởng, thì đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của
xã hội phương Tây sau thế chiến thứ 2 cũng là điều kiện cho sự ra đời của triết học hiện
sinh. Xã hội phương Tây sau thế chiến thứ 2 là một bãi chiến trường, con người về mặt
tinh thần bị hoảng loạn, sự cô đơn đang xâm chiếm tâm thần họ, những suy nghĩ về cuộc

đời con người, về các giá trị nhân sinh được đặt ra nhiều hơn, và người ta chú trọng hơn
vào nó, và đây là mảnh đất màu mỡ cho sự ra đời của triết học hiện sinh. Con đường từ
Heidegger đến Sartre là một biến thể đặc biệt: đó là quá trình biến đổi từ hiện tượng học
sang triết học hiện sinh mà Heidegger chỉ đóng vai trị bắc cầu. Nói cách khác, tư tưởng
Sartre nối tiếp và phát triển tư tưởng Heidegger về thân phận con người trong xã hội
đương đại. Điều này có thể do triết luận của Heidegger trừu tượng, trong khi cách trình
bày của Sartre lại khá cụ thể. Một vấn đề quan trọng nữa là Sartre thể hiện tư tưởng ấy
qua văn chương nên nó dễ đi vào đời sống nhân sinh hơn những triết luận có phần trừu

9


tượng và khó hiểu của Heidegger, chính vì thế chủ nghĩa hiện sinh nảy nở với tâm điểm
là Sartre. Với Sartre, con người hiện sinh có hai đặc điểm chính: Một là con người tự
tạo nên mình, làm mình thành người. Hai là để tạo nên mình con người lựa chọn tự do.
Như vậy, Husserl và Heidegger chỉ đặt ra một cái nhìn mới về chủ thể cịn Sartre khẳng
định vai trò của chủ thể và con người tạo dựng cho thế giới những giá trị mà con người
gán cho nó.
Sartre khi nói về hiện tồn, ơng cho rằng đó là chủ thể nhận thức về mình như một cá
thể đặc thù. Jean Paul Sartre thường đưa ra quan niệm nổi tiếng trong tác phẩm “Tồn tại
và Hư vô”: “Tôi chỉ hiện hữu khi tôi sẽ không hiện hữu nữa” [16]. Theo Sartre con người
luôn phải đối diện với cái chết bởi cuộc đời họ chính là những đường hầm khơng lối
thốt. Chính vì trách nhiệm của bản thân nên buộc con người phải đi vào trạng thái lo
âu. Bạn đồng hành trong suốt quá trình sinh tồn của con người là lo âu, và khi lo âu kéo
dài không có đường giải thốt thì con người rơi vào tuyệt vọng vì con đường trước mắt
là hư vơ. Hành trình làm người là một quá trình mâu thuẫn, đau khổ vì khơng có một
thước đo, chuẩn mực để hướng tới. Trong cái vòng bắt buộc của thân phận người ta có
quyền lựa chọn để làm nên con người của mình. Vì vậy cuộc đời khơng phải là số phận
mà là những lựa chọn, những lựa chọn giúp ta trở thành con người. Chỉ khi hiện sinh,
đối mặt với mọi tình huống ta mới biết bản chất của mình.

Tất cả những vấn đề Sartre đặt ra để làm sáng tỏ thân phận làm người, cụ thể là: hữu
thể là một thảm kịch, là phi lí, là hư vơ; con người ln cô đơn và cái chết luôn hiện
diện. Nhưng con người biết bất chấp cái chết để nhập cuộc tự do làm nên lịch sử của
mình bằng những dự phóng. Những sự nhập cuộc này đã làm cho con người tha hóa vì
tha nhân. Sartre bằng những quan điểm được đặt ra, đã mang đến cho văn chương một
luồng sinh khí mới. Ông chứng minh được rằng: “sáng tạo nghệ thuật khơng chỉ là con
đường giải thốt khỏi hư vơ mà sáng tạo còn là cách thức cao nhất bộc lộ tự do cá nhân”.
Bên cạnh đó, khi con người phải tự làm nên mình thì sáng tạo cịn là sự trải nghiệm
trong cuộc đời. Sartre còn vận dụng luận thuyết của mình trong sáng tạo nghệ thuật.
Những tác phẩm văn học của Sartre đều bộc lộ tư tưởng triết học của Sartre trong “Tồn
tại và Hư vơ”, đó là: Hiện sinh từ thân phận và hoàn cảnh con người trong thế giới, một
thế giới mà trong đó ta bị đẩy vào và chờ đợi ở ta một ý nghĩa; trong “Buồn Nôn” con
người bằng những cảm xúc hiện thực, luôn sống trong sự ngờ vực và suy tư, từ đó quyết
tâm đi tìm con người hiện sinh của mình.

10


Từ cách tư duy của Husserl và Heidegger về ý thức, “Theo Hussel, tư duy chỉ thực
sự mang tính triết học khi nó hướng tới một suy tư tổng thể hoặc suy tư tuyệt đối. Suy
tư này được quan niệm như cái có thể làm hiện ra ý nghĩa cuối cùng của nhận thức và
các đối tượng của nhận thức” [5, tr.44]. Sartre đã nhận ra cái phi lí của cuộc đời con
người. Con đường từ hiện tượng học đến triết học hiện sinh là con đường đi từ phương
pháp luận của Husserl đến cách thức lí luận và suy nghiệm của Sartre. Trước những biến
động của lịch sử con người trở nên mong manh và họ cảm thấy rằng cái chết đang rình
rập ở khắp nơi, những vấn đề của Sartre đặt ra dần trở thành tâm thức của thời đại mở
ra cho nền văn học những bước ngoặt mới. Cái bí ẩn và khơng thể biết trước được trong
luận thuyết của Heidegger đã được Sartre cụ thể hóa. Cuộc khai chiến của Nietzche về
việc lật đổ các giá trị đã tạo tiền đề cho phương pháp tìm kiếm nhìn nhận lại các giá trị
của Husserl và cũng giúp cho Heidegger nhìn vào chính giá trị của cuộc tồn hữu. Sartre

đã tiến thêm một bước, ông chứng minh các giá trị. Tất cả những chiêm nghiệm, suy tư
của Heidegger về hiện hữu cũng như lí luận về triết học hiện sinh của Sartre đã được soi
chiếu vào văn học nhân loại một cách nhìn, một cách suy tưởng về thân phận con người
mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Vậy con đường từ hiện tượng học đến chủ nghĩa hiện
sinh cũng là con đường từ triết học đến văn học. Trên con đường ấy có rất nhiều ngã rẽ
nhưng cái đích đến cũng chỉ là một - cái đích cao cả nhất - là hướng tới con người.
1.2.2. Một số tư tưởng triết học của Jean-Paul Sartre
Vào thế kỉ XX, cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc gây ra
hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc, dẫn tới tình trạng khủng hoảng tinh thần trầm
trọng là nguyên nhân trực tiếp nhất làm bộc phát hàng loạt những phong trào phản kháng,
phủ định trên bình diện văn hóa nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời trong bối cảnh
đó và là một trào lưu phát triển mạnh cả trong triết học và văn học mà Jean-Paul Sartre
là một trong những gương mặt tiêu biểu. Jean-Paul Sartre đã để lại sự ảnh hưởng vô
cùng rộng lớn không chỉ bao trùm đất nước và thời đại của mình mà cịn lan tỏa ở nhiều
nơi trên thế giới cho đến ngày hôm nay.
Sartre là khuôn mặt mà nhà xã hội học Pháp Pierre Bourdieu gọi là trí thức toàn diện.
Tư tưởng của Sartre đi vào đời sống, ảnh hưởng lên toàn bộ tri thức của người Pháp
trong thế kỷ XX như một hiện hữu không thể tách rời. Sartre là người nói: Bên cạnh đứa
bé sắp chết đói, cuốn Buồn Nơn khơng có nghĩa lý gì. Đối với dân tộc Pháp, Sartre trở
thành lương tâm thời đại. Sartre - với những khúc mắc, những sai lầm, những ngõ quanh
lịch sử, những thất bại, những ngộ nhận, những gặp gỡ, và những đấu tranh không ngừng

11


- là nhà văn, nhà tư tưởng trường kỳ đứng về phía những thành phần yếu kém, suốt đời
bị đàn áp. Sartre đặt con người trước tự do và trách nhiệm của mình. Con người tự do
và nhân bản, là hai yếu tố chính trong triết học hiện sinh của Sartre. Ý thức về con người
tự do và nhân bản xuyên suốt các tác phẩm tiểu thuyết, kịch bản, truyện ngắn, tiểu luận
của Sartre, ảnh hưởng lớn đến tầng lớp thanh niên, và cũng là đường lối chính trong

trong phê bình văn học của Sartre.
Sartre đưa ra quan niệm: “Hiện sinh có trước bản chất” [15]. Bởi chủ nghĩa hiện sinh
cho rằng con người chỉ là “hư vơ” vì thế sự tồn lại của họ ngay từ ban đầu đã là một sự
“phi lý”. Vì vậy, chính họ phải làm cho cuộc đời mình trở nên có ý nghĩa. Quan niệm
này, hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy lý trong quan niệm của R.Decartes, con người
được xem là “tồn tại” và ngay từ đầu họ đã có lý trí. Theo Sartre mỗi người có thể làm
nên chính bản thân mình, để làm được điều đó họ hồn tồn có sự lựa chọn tự do, theo
những dự phóng mà mình đặt ra. Trong quá trình tiến đến chứng minh sự tồn tại của bản
thân, con người ln có sự lo âu siêu hình. Nhờ có sự lo âu đó mà con người cảm thấy
cái hư vô làm nơi xuất phát của họ và tính bấp bênh của sự lựa chọn tự do. Sartre chỉ ra
rằng những hướng tiếp cận mang tính tơn giáo khi nói về bản chất con người thường chỉ
dựa trên sự tương đồng với nghề thủ công của con người – bản chất con người trong
tinh thần của Chúa cũng giống như bản chất con dao rọc giấy trong tinh thần người thợ
làm ra nó. Sartre từng cho rằng nhưng học thuyết phi tơn giáo khi nói về bản chất con
người cũng được bắt nguồn từ sự tư duy mang tính tơn giáo, vì chúng chỉ tiếp tục nhất
quyết cho rằng bản chất có trước hiện sinh, hay nói cách khác chúng ta sinh ra là để thực
hiện một mục đích đặc biệt. Khi tuyên bố hiện sinh có trước bản chất, Sartre đang đưa
ra một quan điểm mà ông tin là nhất quán hơn với chủ nghĩa vơ thần của ơng. Ơng cho
rằng: “Khơng có cái bản chất con người cố định phổ quát nào bởi vì khơng có Chúa Trời
nào tồn tại để mà quy định một bản chất như vậy”. Chính nhờ quan điểm hiện sinh có
trước bản chất mà con người, một khi đã biết giũ sạch mọi trói buộc giả tạo để được tự
do hồn tồn, mới biện chứng đời mình bằng hành động có ý thức và trách nhiệm.
Ở đây Sartre đang dựa vào một thứ định nghĩa rất đặc biệt về bản chất con người,
kiểu xác định bản chất thứ gì đó dựa trên mục đích của nó. Ơng bác bỏ khái niệm mà
các triết gia gọi là mục đích luận về bản chất con người – rằng nó là thứ gì đó mà ta có
thể suy ngẫm dựa theo mục đích của hiện sinh con người. Dù vậy, cũng có vẻ như Sartre
đang đề xuất một lý thuyết về bản chất con người bằng cách tuyên bố chúng ta là những

12



sinh vật bị buộc phải ấn định một mục đích cho cuộc đời ta. Vì khơng có sức mạnh thần
thánh nào tiên định mục đích đó, ta phải tự xác định cho mình.
Tuy nhiên định nghĩa bản thân khơng phải chỉ là để tuyên bố chúng ta là gì với tư
cách con người. Thay vào đó, nó là vấn đề về định hình bản thân vào bất cứ loại người
nào mà ta chọn để trở thành. Đây là gốc rễ khiến chúng ta khác với mọi loại sinh vật
khác trên thế giới – ta có thể trở thành bất kỳ ai mình chọn. Một hịn đá đơn giản là một
hịn đá; một bó súp lơ đơn giản là một bó súp lơ; và một con chuột thì đơn giản là một
con chuột. Nhưng con người sở hữu khả năng định hình bản thân một cách chủ động.
Vì triết học của Sartre giải phóng ta khỏi sự câu thúc đến từ cái bản chất tiền định của
con người, nên nó là thứ triết học của tự do. Chúng ta được tự do lựa chọn định hình bản
thân như thế nào, dù đúng là ta phải chấp nhận một số giới hạn. Ví dụ, dù ta có cố mọc
cánh (theo nghĩa đen) thế nào đi nữa thì điều đó cũng sẽ khơng xảy ra. Nhưng ngay cả
trong phạm vi những lựa chọn thực tế ta có, ta vẫn thường thấy mình bị bó buộc và đơn
thuần quyết định dựa theo thói quen, hoặc vì cách nhìn bản thân mà ta vốn quen.
“Sartre muốn ta phá vỡ những lối suy nghĩ theo thói quen, kêu gọi ta đối diện với ý
nghĩa của việc sống trong một thế giới mà khơng có gì là tiền định. Để tránh sa vào kiểu
hành vi vô định, ông tin chúng ta phải tiếp tục đối mặt những lựa chọn về cách thức
hành động.” [22]
Theo ông, con người là dự tính của mình, và tự mình tạo ra mình, thì tất nhiên phải
chịu trách nhiệm việc làm của mình và có trách nhiệm với người khác, vì lúc họ hành
động, họ hoàn toàn tự do và họ buộc phải hồn tồn tự do. Dù muốn hay khơng, chúng
ta lúc nào cũng phải ở trong một hoàn cảnh hay một tình thế nào đó. Con người buộc
phải lựa chọn và tự do của con người cũng nằm trong sự lựa chọn này: vấn đề khơng
phải là tự chọn mình trong hồn cảnh và tính thế đó. Ơng ln đặt ra câu hỏi lựa chọn
là gì nếu khơng phải là để hành động? Khơng thể có tự do trừu tượng cũng như khơng
thể có lựa chọn tiêu cực, con người thiết yếu là con người sống trong thực tại. Vì vậy,
đối với Sartre, hành động đích thực là hành động do con người gánh vác, sau khi đã đảm
nhiệm toàn diện hồn cảnh và tình thế trong đó họ đang sống và nhất là sau khi họ vượt
lên hoàn cảnh và tình thế này bằng chính hành động đó. Mỗi hành động điều có hai khía

cạnh mà chúng ta buộc phải nhớ, đó là khía cạnh khách quan và khía cạnh chủ quan và
đặc biệt chỉ có khía cạnh khách quan của hành động mới đáng kể, hay ít ra chỉ nó mới
được trơng thấy. Có thể hiểu rằng giá trị của chúng ta nằm trong hành động của chúng
ta và chỉ có hành động mới có thể đánh giá chúng ta. Bên cạnh đó con người cũng thường

13


hay xuất hiện thái độ ngụy tín, đó là sự biện minh cho thất bại của mình và nó khơng
ngừng bị ý thức tha nhân tố cáo triệt để và khơng bng tha. Bởi trong cuộc sống, khơng
phải có một mình chúng ta, chúng ta khơng sống cơ độc, ý thức của chúng ta cũng khơng
hồn tồn độc lập, chúng ta phải ln sống trong sự dịm ngó của kẻ khác và phải chịu
sự dị nghị từ bên ngoài.
Như vậy, triết lý của Sartre là chủ nghĩa hiện sinh hành động. Để cho mình có được
những hành động đích thực, thì phải đặt ra những tiêu chuẩn để cho hành động. Đối với
Sartre hành động con người phải hướng thiện, trong một hồn cảnh hiện thời và trong
chính tình thế mà mình đang sống. Cịn những cái xấu, cái nạn mà con người trên thế
giới phải gánh chịu đó là nghèo đói, là bóc lột, là tư bản, là thực dân, là thái độ gian trá
của đạo đức tư bản.
Bằng cách đưa ra lựa chọn, ta cũng đang tạo ra một khuôn mẫu cho cách ta nghĩ về
những khả thể của một đời người. Điều này có nghĩa tự do chính là trách nhiệm lớn hơn
hết thảy. Chúng ta khơng chỉ chịu trách nhiệm cho tác động từ những lựa chọn của ta
lên bản thân, mà còn chịu trách nhiệm cho tác động của chúng lên toàn thể nhân loại.
Và vì khơng có ngun tắc hay quy luật bên ngồi nào biện minh cho những hành động
của ta, ta không có lý do gì để nấp sau những lựa chọn của mình. Vì lý do này, Sartre
tuyên bố chúng ta bị “kết án tự do.”
Triết học gắn liền tự do với trách nhiệm của Sartre đã bị gắn mác là bi quan, nhưng
ơng bác bỏ sự quy chụp đó. Thật ra ơng cịn nói rằng nó là thứ triết học lạc quan nhất có
thể, vì bất chấp việc phải chịu trách nhiệm cho tác động từ những hành động của ta lên
người khác, ta có thể lựa chọn thực hiện chỉ mỗi việc kiểm soát cách ta tạo nên bản thân

và thế giới của mình. Tư tưởng của Sartre đặc biệt ảnh hưởng lên sáng tác của người
bạn đời và đồng nghiệp của ông, triết gia Simone de Beauvoir, nhưng chúng cũng có tác
động rõ rệt lên văn hóa và đời sống thường ngày ở Pháp. Những người trẻ tuổi đặc biệt
xúc động trước lời kêu gọi sử dụng tự do họ có để tạo nên hiện sinh của họ. Ông truyền
cảm hứng cho họ thách thức những quan điểm truyền thống, độc đoán phổ biến ở Pháp
trong những năm 1950 và 1960. Sartre được liệt là nguồn ảnh hưởng chính tới những
cuộc biểu tình đường phố ở Paris tháng Năm 1968 giúp lật đổ chính phủ bảo thủ và tạo
ra một khơng khí tự do hơn khắp nước Pháp.
Tham gia các vấn đề chính trị là một phần quan trọng trong cuộc đời Sartre. Mối
quan hệ luôn thay đổi giữa ơng với các đảng phái chính trị, cũng như những hoạt động
khơng ngừng xoay quanh chính trị, triết học và văn học của ơng, bản thân chúng có lẽ

14


là minh chứng cho một cuộc đời sống theo ánh sáng tư tưởng hiện sinh có trước bản
chất.
Sartre cho rằng người ta chỉ sống chứ không phải là tồn tại, trong mỗi phút giây và
kinh nghiệm về cuộc sống của mỗi người ln có tính chất độc đáo khác biệt hoàn toàn
với kinh nghiệm của mọi người, và chủ thể được hiểu thông qua sự dấn thân của anh ta
vào cuộc sống. Ơng chối bỏ quan điểm về khn mẫu lí tưởng của “Con Người”, hoặc
của nhân loại, bởi trong đó mỗi người chỉ là một hình ảnh của con người phổ qt. Ơng
đặt ra câu hỏi “Tơi là ai?” thay vì câu hỏi “Nhân loại là gì?” với sự gợi ý về tính độc đáo
và kì bí của mỗi thân phận và sự nhấn mạnh đến chủ thể tính, tức nhân vị, hơn là đến
khách thể tính, tức sự vật. Nếu xét về vẻ ngồi thì con người cũng chỉ giống như muôn
vàn những sinh linh khác, nhưng bên trong họ là cả một vũ trụ quan cần được khám phá,
họ chính là trung tâm của cái vơ cùng. Khi đề cập đến chiều sâu trong đời sống con
người thì lí trí khơng thể nào giải thích hết được. Bởi những lý do: thứ nhất, lý trí của
con người thường mềm yếu, dễ giao động và bất toàn; thứ hai, Sâu thẳm trong đời sống
con người là những khoảng tối nó mang đặc tính “phi lý trí” mà lý trí khơng thể nào xâm

nhập được. Nhưng chúng ta cũng khơng thể phủ nhận một điều là lý trí và tư duy chúng
luôn đi cùng với nhau tạo thành một thể thống nhất. Con người cần phải được thừa nhận
là một thực thể thống nhất bao gồm cả cái tốt và cái xấu trong chính bản thân anh ta.
Chúng ta khơng thể thừa nhận một tình trạng phân chia nào đó và phải là một con người
trọn vẹn có cả tri thức, ước vọng, tội lỗi và cả những thứ lấn át lý trí đang tồn tại trong
bản thân con người. Con người được nhìn thấy dưới quan niệm này là một con người về
cơ bản, hết sức mơ hồ, huyền bí, đầy rẫy những vấn đề mâu thuẫn và căng thẳng tiềm
ẩn, những vấn đề không thể giải quyết một cách đơn giản chỉ bằng tư duy. Vì vậy sẽ dẫn
đến sự tuyệt vọng và tình trạng bất khả tự lực của con người khi đứng trước xã hội. Đây
là một trong những đề tài quan trọng của văn học phương Tây, và một lần nữa, mặc dù
hầu như không khám phá được sự nguy hiểm hay tiến hành một sự phản đối nào, nhưng
Sartre đã khôi phục sự phản kháng trước bất cứ khuôn mẫu hoặc thế lực nào manh nha
dập tắt tính độc đáo và sự tự tại trong đời sống cá nhân. Sự đông đúc nơi đơ thị, sự chia
nhỏ lao động nhấn chìm con người trong chức năng kinh tế của anh ta, sự phát sinh
chính quyền trung ương tập quyền… đã xé nát con người bằng cách hủy diệt cá tính và
khiến họ phải sống trên bề mặt của cuộc đời, sẵn lòng giao du với “vật” hơn là với người.
Sartre là một tác giả hiếm hoi vừa làm chủ tư tưởng của mình vừa làm chủ ngịi bút
hành văn của mình, ơng khơng bao giờ cho phép triết lí và văn chương chia lìa nhau.

15


Cho tới nay, chưa ai phát hiện được mâu thuẫn nào giữa triết lí, văn chương, hành động,
cuộc sống của ông. Từ ấy, ông theo đuổi cả hai hoài bão, tư tưởng luôn luôn thống nhất,
“văn chương nêu vấn đề cho triết lí, triết lí làm nền tảng cho văn chương, rồi văn chương
hiện sinh hố.” [11] triết lí qua tác phẩm nghệ thuật và... giải quyết những bế tắc triết
học.
1.3. Tác phẩm “Buồn Nơn” của Jean Paul Sartre
1.3.1. Hồn cảnh ra đời của tác phẩm Buồn Nôn
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, châu Âu bước vào tình trạng khủng hoảng về tất cả

mọi mặt như tư tưởng, chính trị, văn hóa, xã hội,… Chiến tranh thế giới thứ I nổ ra, hàng
triệu người trở thành nạn nhân của trò chơi chiến tranh của các tài phiệt chủ nghĩa đế
quốc. Tinh thần con người lúc này rơi vào tình trạng hoang mang tột độ, nhân tính giờ
đây được thay bằng thú tính, cơ cấu xã hội bị đảo lộn lung lay đến tận gốc rễ, pháp luật
dần trở thành trò chơi trong tay những người cầm quyền, mọi luân lý bị xem thường,
biết bao nhiêu nghịch cảnh xảy ra. Con người trong giai đoạn này dường như mất hết
niềm tin vào cuộc sống, nghi ngờ mọi giá trị, con người trở nên buồn chán, vô nghĩ phi
lý và nhân cách bị tha hóa theo hồn cảnh sống.
Cuối thế kỉ XIX, trong lòng châu Âu bùng nổ cuộc khủng hoảng có cội nguồn sức
nặng từ thứ văn hóa chuyên chế bóp ngặt nhân cách cá nhân. Chúng soi xét cá nhân bằng
những giáo lý của Cơ Đốc giáo trong suốt gần 20 thế kỉ. Những giá trị, chuẩn mực và
nguyên tắc tuyệt đối đã giam hãm tồn tại người vốn tự do, đột biến và đầy sáng tạo. Tồn
tại người rạn nứt, nhiều tầng cảm xúc bị đè nén bừng tỉnh với câu hỏi: hiện sinh của tơi
là đích thực hay khơng đích thực? Chính những câu hỏi mang tính thức tỉnh này đã dấy
lên phong trào mạnh mẽ những tư tưởng triết học hiện sinh lấy tồn tại con người làm
cứu cảnh của mọi triết lý. Triết thuyết này dần trở nên có tác động mạnh mẽ đến đời
sống xã hội phương Tây lúc bấy giờ.
Cách mạng mạng khoa học kĩ thuật cùng với sự bành trướng của phương tiện truyền
thông khiến cho cuộc sống con người trở nên phức tạp và nguy hiểm hơn. Nó tạo ra một
lượng của cải khổng lồ nhưng đời sống của mọi người lại không được ấm no, giai cấp
công nhân và nhân dân lao động phải sống một cuộc sống cơ cực trong những khu nhà
ổ chuột. Họ đang sống trong một xã hội tư bản đầy rẫy những bất công sự giàu có thì có
thừa nhưng họ lại khơng được hưởng thụ trong khi đó cũng chính là của cải do họ làm
ra. Kinh tế phát triển nhưng kết quả của sự phát triển kinh tế lại là chiến tranh xảy ra
liên miên, chỉ chưa đầy một phần tư thế kỉ mà lại xảy ra hai cuộc thế chiến lớn trên phạm

16


vi toàn thế giới. Chiến tranh đẩy nhân dân vào vịng lầm than, khổ ải. Những cuộc chiến

xảy ra khơng có một chút chính nghĩa nào mà chỉ là để chứng tỏ xem ai làm người đi ăn
cướp được nhiều nhất. Chiến tranh làm cho mọi thứ trên đời không có một nghĩa lý nào
cả.
Triết lý hiện sinh tất yếu phải xuất hiện. Cá nhân con người trong nhiều thế kỉ đã bị
đẩy vào hậu trường bởi những ý tưởng khơng mang tính độc đáo của con người, khinh
rẻ khát vọng sống và chủ nghĩa cá nhân. Triết học hiện sinh khẳng định tự do của con
người, từ chối việc ý thức cá nhân phụ thuộc vào những khái niệm trừu tượng hay các
cấu trúc xã hội bị phi nhân tính hóa. Nó là biểu tượng nổi loạn chống lại những tư tưởng
và định chế kìm hãm tự do cá nhân và biến cá nhân trở thành kẻ chối bỏ trách nhiệm với
chính bản thân mình.
Bối cảnh của xã hội lúc bấy giờ cũng chính là chủ đề mà các tác phẩm văn chương
hay triết học trong giai đoạn này đều mô tả và đề cập đến. Qua các tác phẩm các tác gia
đều trở thành những nhà hiện sinh, họ đều muốn tìm một nơi nào đó để chia sẻ sự chán
chường về cuộc sống thực tại đầy đau khổ, khơng lối thốt, mọi thức trên đời trở nên
phi lý buồn bã, sự đảo lộn trật tự xã hội, nhân sinh quan về cuộc sống của con người
trong giai đoạn này. Và những tác phẩm đó họ muốn lối thoát, muốn chứng minh sự tồn
tại của họ đối với xã hội.
Jean-Paul Sartre – một trong những nhà văn tiêu biểu trong thời kì này, đồng thời
cũng là một triết gia hiện sinh. Năm 1929-1930, Sartre đã đi quân dịch ở Tours, trong
ngành khí tượng. Qn dịch xong, ơng được bổ nhiệm làm giáo dư triết học ở Le Havre,
J.P. Sartre dạy ở trường trung học ở thành phố này 3 năm liền (1931-1933). Với bối
cảnh xã hội của châu Âu, vào năm 1938 trước trận chiến tranh thế giới thứ II một năm,
ông đã cho ra đời tác phẩm Buồn Nôn (La Nausée). Thành phố Le Harve được lấy làm
khung cảnh cho tiểu thuyết Buồn Nôn (La Nausée) nhưng trong sách được đổi thành
Bouville. Lúc đó Sartre chỉ mới 23 tuổi, tác phẩm đã để lại tên tuổi của ông cho đến thế
hệ ngày nay. Người đọc có thể cảm nhận được tính chất độc đáo của một thế giới mà
Sartre tạo ra. Đó là thế giới của một triết gia. Độc đáo hơn là ông đã lồng ghép chính
bản thân mình vào nhân vật trong quyển nhật kí, để có thể thỏa sức bộc lộ những cảm
xúc và tư tưởng của mình. Buồn Nơn (La Nausée) khơng chỉ là tiếng nói của tác giả mà
cịn là nổi lịng của những con người khao khát tự do ở giai đoạn này. Họ ln sống và

đi tìm sự tồn tại của bản thân trong xã hội. Đồng thời tác phẩm đã cho người đọc những
cảm nhận rõ nét hơn về hơi thở của thời đại ở những năm 90 của thế kỉ XX.

17


1.3.2. Nội dung và bố cục của tác phẩm “Buồn Nôn”
Dựa trên dụng ý của tác giả, tác phẩm “Buồn Nơn” có thể chia bố cục ra làm 3 phần
tương ứng với nội dung như sau:
Phần đầu: Lời thưa trước của người xuất bản (trang 9)
Đây là lời dẫn dắt cho tồn bộ nội dung phía sau. Người xuất bản nhấn mạnh những
tập vở này đã được tìm thấy trong các giấy tờ của Antone Roquentin (nhân vật chính
trong tác phẩm). Người xuất bản cũng chỉ ra những trang viết này được viết vào khoảng
đầu tháng Giêng, 1932 sau khi Antoine Roquentin đi du lịch ở Trung Âu, Bắc Phi và
Viễn Đông và đã đến định cư tại Bouville 3 năm để hồn thành cơng trình nghiên cứu
lịch sử về hầu tước De Rollebon.
Phần 2: Tờ rơi không ngày tháng (trang 11 – 15)
Roquentin muốn ghi lại những biến cố từng ngày một. Anh cảm thấy mình đã sợ hãi
nhưng khơng biết mình sợ gì. Anh khơng nghĩ là mình điên nhưng lại nghĩ đó là một
cơn khủng hoảng thống qua của bệnh điên khi anh khơng dám ném hịn sỏi trên mặt
biển như lũ trẻ.
Phần 3: Nhật kí (trang 17 - 438)
Trong toàn bộ cuốn tiểu thuyết, 31 lần thứ tự thời gian được nhân vật Roquentin viết
trong cuốn nhật kí như: thứ ba, 30 tháng giêng; sáng thứ năm tại thư viện; xế trưa thứ
năm; thứ sáu, năm giờ rưỡi; thứ năm, 2 giờ rưỡi; ba giờ; thứ sáu; thứ sáu, 3 giờ; trưa thứ
bảy; chúa nhật; thứ hai; bảy giờ chiều; mười một giờ khuya; thứ tư; thứ năm; thứ sáu;
sáng thứ bảy; xế trưa; thứ hai; thứ ba; thứ tư; sáu giờ chiều; giữa đêm; thứ sáu; thứ bảy;
Bouville, thứ ba; thứ tư, ngày cuối cùng của tơi ở Bouville. Trình tự thời gian được nhân
vật kể lại khơng theo một trình tự định sẵn mà nó được viết theo cảm xúc riêng của nhân
vật. Trong đó chỉ có hai lần nhân vật nhắc đến Bouville trên bảng ghi thời gian, đó là

khi anh ta chuẩn bị rời khỏi nơi này.
Những bài viết trong tập truyện được xốy quanh một chủ đề buồn nơn, nỗi chán
ngấy đó là thảm kịch mà Roquentin trực diện với cuộc đời đang sống, tất cả mọi tình
huống được ghi lại như chứng tích dưới dạng thức nhật ký.
Nhật kí ghi chép các sự kiện và tâm trạng của Roquentin trong 22 ngày. Antoine
Roquentin giới thiệu mình là một người sống một mình, hồn tồn một mình, chẳng bao
giờ nói với ai, khơng cho gì và cũng khơng nhận gì. Hàng ngày, ông ăn ở các quán quen
và làm việc tại thư viện và nếu muốn thì ngủ với một cơ chủ qn cà phê Francois ở gần
đó. Cơng việc của ông ở Bouville là để tìm kiếm các tư liệu về bá tước De Rollebon –

18


một người có bộ mặt xấu xí nhưng lại được rất nhiều cơ gái u thích. Nhưng dần dà,
càng đi sâu vào cuộc đời bịp bợm của tên bá tước, Roquentin khơng cịn hứng thú với
cơng việc giả tạo đó nữa. Sau khi làm đến chương VII thì chàng quyết định từ bỏ, bởi
vì “tơi mà đã khơng có đủ sức giữ lại q khứ của tơi, thì tơi có thể nào hy vọng cứu vớt
quá khứ của người khác”. Và cứ thế, hàng ngày chàng lại ghi chép lại đầy đủ mọi ý nghĩ
cay đắng về những điều tai nghe mắt thấy. Trong những lần vào thư viên để tìm kiếm tư
liệu viết đề tài nghiên cứu chàng quen với Ogier.P, thường được gọi là “chàng Tự Học”
- ông này có tính kỉ luật cao, đã và dành hàng trăm giờ đọc tại thư viện tất cả các đầu
sách theo chữ cái ABC. Ơng thường nói với Roquentin và tâm sự với chàng rằng ông là
cả một xã hội. Có một thời gian ơng u và sống cùng một cô gái Anh tên là Anny,
nhưng giữa họ xảy ra cãi vã và chàng bỏ đi luôn, sau bốn năm gặp lại, lúc Anny ghé qua
Paris, và muốn gặp lại chàng, nhưng chàng cảm thấy nàng đã già và tình cảm cũng phai
nhạt, những khoảnh khắc tuyệt vời khơng cịn nữa. Anny tiếp tục đi du lịch với một
người đàn ông Đức, đang chung sống với nàng. Trong suốt thời gian này, có một thứ
ln theo và ám ảnh Roquentin đó chính là những cơn Buồn Nơn. Càng ngày Roquentin
càng nhận thức được sự phi lý của một vũ trụ vơ cớ khơng được biện minh bởi một cái
gì cả. Cơn buồn nôn xuất hiện ở bất cứ đâu trong suy nghĩ của ơng và càng ngày nó càng

trở nên mạnh mẽ: Buồn Nơn khi sắp ném hịn cuội, Buồn Nơn với dự án nghiên cứu của
mình, với chàng Tự Học, những kỉ niệm của ông về Anny, dáng bộ lố bịch của những
bức chân dung treo trong viện bảo tàng thành phố, những lời lẽ tự cao của một anh chàng
miệng lưỡi ba hoa tưởng rằng mình đang đem tài năng giúp ích đồng loại, ngay cả bàn
tay của mình và vẻ đẹp của thiên nhiên,… ơng quyết định từ bỏ tất cả để đi đến Ba Lê
khi nhận ra mình đang sống thừa giống Anny. Những ngày cuối cùng ở Bouville, ông
đã bắt đầu quan tâm tới mọi người xung quanh, đặc biệt là khi chứng kiến chàng Tự Học
bị đánh. Và chính bản nhạc với những giai điệu nối tiếp nhau trong quán Rendez-vous
des Cheminots.

1.3.3. Ý nghĩa của tác phẩm “Buồn Nôn”
Tác giả đã biến câu chuyện thành một lý thuyết sâu xa với hình thức trình bày mới
lạ, đây cũng là một trong những cái hay của tác phẩm. Với một trạng thái tâm linh đa
dạng, tác giả đã làm cho người đọc ngạc nhiên với triết lý hiện sinh của tác phẩm. Truyện
là một tiểu thuyết nhật kí chứ khơng phải là hồi kí hay tự truyện, mỗi lần giở những

19


×