Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Thảo luận nhóm TMU phân tích và đánh giá chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp khoa học và công nghệ của một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.56 KB, 31 trang )

Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP KHOA
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1
1.2

Các nhận thức cơ bản
Các yếu tố và điều kiện của việc hình thành và phát triển doanh nghiệp

1.3

khởi nghiệp khoa học và công nghệ
Vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
KHỞI NGHIỆP Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trang doanh nghiệp khởi nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam
2.2 Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp khoa học và cơng
nghệ tại Việt Nam
2.2.1 Các chính sách đã ban hành
2.2.2 Nội dung chính của các chính sách ưu đãi, hỗ trợ
2.3 Đánh giá các chính sách của chính phủ Việt Nam
2.3.1 Một số kết quả đạt được khi thực hiện chính sách
2.3.2 Một số khó khăn, tồn tại làm giảm cơ hội khởi nghiệp
Chương 3: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC TRONG VIỆC HỖ
TRỢ VÀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP TỪ ĐÓ ĐỀ
XUẤT MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
3.1. Kinh nghiệm một số quốc gia trên Thế giới

1




3.2 Một số giải pháp chính sách nhằm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp khởi
nghiệp Khoa học và Công nghệ tại Việt Nam
KẾT LUẬN

MỞ ĐẦU
Giai đoạn phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm qua đã chứng kiến sư
hình thành và phát triển rất năng động của phong trào khởi nghiệp. Có nhiều nhân
tố dẫn đến khởi nghiệp như là một lưc lượng mới của nền kinh tế. Trong đó có thể
kể đến khả năng sáng tạo, tinh thần kinh doanh của người Việt; sư phát triển gia tốc
của thị trường khi Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập trung bình; sư bùng nổ của
công nghệ và sử dụng công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin; sư tham gia của
các quỹ đầu tư và các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp nói chung và doanh
nghiệp khoa học và công nghệ lĩnh vưc công nghệ thông tin nói riêng.
Ngoài ra, tại Việt Nam hiện nay cũng có nhiều quỹ hỗ trợ khởi nghiệp không thuộc
loại đầu tư rủi ro của nước ngoài và tổ chức quốc tế, với phương pháp tiếp cận và
hình thức thưc thi khác nhau, từ hỗ trợ kết nối kinh doanh song phương, như
chương trình B2B của Chính phủ Đan Mạch, chương trình hỗ trợ về đào tạo nhân
lưc cho khởi nghiệp và thương mại hóa kết quả nghiên cứu như của Chính phủ Anh
và Israel, đến cung cấp tài chính không hoàn lại như chương trình IPP của Chính
phủ Phần Lan, hay Quỹ Đổi mới sáng tạo dành cho người thu nhập thấp VIIP của
Ngân hàng Thế giới... Thưc tế chưa cho thấy những kết quả thật sư nổi bật của
những chương trình này do những khác biệt về trình độ phát triển kinh doanh, thiết
2


chế tài chính và văn hóa. Tuy vậy, các chương trình đó thể hiện sư quan tâm và kỳ
vọng đặc biệt của cộng đồng quốc tế đối với phong trào khởi nghiệp của Việt Nam.
Vai trị của Nhà nước đới với phong trào khởi nghiệp tại Việt Nam cho đến nay vẫn

chưa rõ nét. Nhà nước chưa có những quy định pháp luật điều chỉnh sư hình thành
và phát triển của những doanh nghiệp khởi nghiệp theo phương thức mới, như quỹ
đầu tư mạo hiểm Việt Nam, sư công nhận giá trị bằng tiền của tài sản vô hình trong
góp vốn thành lập DN hay bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hữu hiệu đối với doanh
nghiệp khởi nghiệp... Vai trò của Nhà nước cũng chưa được thấy rõ trong lĩnh vưc
tài chính, đặc biệt là đối với việc khởi sư kinh doanh tại Việt Nam và tín dụng ngân
hàng đối với hoạt động khởi nghiệp của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Vì thế, nhóm em xin lưa chọn đề tài nghiên cứu “Phân tích và đánh giá chính sách
hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp khoa học và công nghệ của một số quốc gia trên
thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”

3


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP KHOA
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Các nhận thức cơ bản
* Khái niệm doanh nghiệp khoa học và công nghệ
Doanh nghiệp KH&CN là doanh nghiệp do tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá
nhân nước ngoài có quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp các kết quả nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ (NC&PT) thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động
theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật KH&CN. Hoạt động chính của
doanh nghiệp là thưc hiện sản xuất, kinh doanh các loại sản phẩm hàng hóa hình
thành từ kết quả NC&PT do doanh nghiệp được quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp
pháp; thưc hiện các nhiệm vụ KH&CN. Doanh nghiệp KH&CN thưc hiện sản xuất,
kinh doanh và thưc hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật” (Điều 1.2,
Điều 2, Nghị định 80; Điều 2, Nghị định 96).
* Khái niệm “Doanh nghiệp khởi nghiệp”
Khởi nghiệp (tiếng Anh là: startup hoặc start-up) là thuật ngữ chỉ về những doanh
nghiệp đang trong giai đoạn bắt đầu kinh doanh nói chung, nó thường được dùng

với nghĩa hẹp chỉ các DN công nghệ trong giai đoạn lập nghiệp. Khởi nghiệp là
một tổ chức được thiết kế nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong những điều
kiện không chắc chắn nhất.
Vì luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về chế định startup, cho nên thuật ngữ
này đang được hiểu theo thuật ngữ kinh doanh. Tuy nhiên, startup thưc chất là một
“quá trình” khởi sư một hoạt động kinh doanh, sư xuất hiện của startup không nhất
thiết là phải gắn với việc thành lập của một DN mới, thậm chí đôi khi bắt đầu chỉ là
một ý tưởng, dư án khởi nghiệp. Khía cạnh khác, mặc dù DN nào, ngành, nghề hoạt
4


động kinh tế nào cũng phải trải qua giai đoạn khởi nghiệp ban đầu nhưng startup lại
thường được dùng với nghĩa hẹp hơn rất nhiều, ám chỉ các DN công nghệ trong
giai đoạn khởi nghiệp.

1.2. Các yếu tố và điều kiện của việc hình thành và phát triển doanh nghiệp khởi
nghiệp khoa học và công nghệ
Các yếu tố và điều kiện để DN KH&CN tồn tại và phát triển bao gồm: Yếu tố chính
trị và pháp luật, Yếu tố kinh tế và Yếu tố Kỹ thuật và Công nghệ.
- Yếu tố chính trị và pháp luật: Mức độ ổn định về chính trị và luật pháp của một
quốc gia cho phép doanh nghiệp có thể đánh giá được mức độ rủi ro, của môi
trường kinh doanh và ảnh hưởng của của nó đến doanh nghiệp như thế nào, vì vậy
nghiên cứu các yếu tố chính trị và luật pháp là yêu cầu không thể thiếu được khi
doanh nghiệp khoa học và công nghệ tham gia vào thị trường.
- Yếu tố kinh tế:
Có thể tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc xâm nhập mở rộng thị trường, thúc đẩy
ngành hàng này nhưng lại hạn chế sư phát triển cuả ngành hàng khác. Các yếu tố
kinh tế ảnh hưởng đến sức mua, sư thay đổi nhu cầu tiêu dùng hay xu hướng phát
triển của các ngành hàng, các yếu tố kinh tế bao gồm:
Hoạt động ngoại thương: Xu hướng đóng mở của nền kinh tế có ảnh hưởng các cơ

hội phát triển của doanh nghiệp khoa học và công nghệ, các điều kiện cạnh tranh,
khả năng sử dụng ưu thế quốc gia về công nghệ, nguồn vốn.

5


Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay sẽ tác động mạnh đối với các
ngành kinh tế nói chung và các doanh nghiệp khoa học và công nghệ nói riêng. Đặc
biệt, khi Việt Nam gia nhập vào ngôi nhà chung WTO, FTA…
Lạm phát và khả năng điều khiển lạm phát ảnh hưởng đến thu nhập, tích luỹ, tiêu
dùng, kích thích hoặc kìm hãm đầu tư...
Đối với các doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong lĩnh vưc sản xuất, tỷ lệ lạm
phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sư ổn định
giả tạo của quá trình sản xuất. Sư mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động
hạch toán kinh doanh. Nếu một doanh nghiệp khoa học và công nghệ nào đó có tỷ
suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. Lạm phát ở nước ta
mấy năm nay dao động trên dưới 7%, đây cũng là một lợi thế cho các doanh nghiệp
khoa học và công nghệ vì với tỷ lệ lạm phát này, các DN KH&CN có thể không bị
ảnh hưởng nhiều nhưng trong giai đoạn dài hạn có thể gây ra những biến động
trong chiến lược nếu doanh nghiệp dư tính đến hoạt động xuất nhập khẩu…
Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Thể hiện xu hướng phát triển chung của nền kinh tế
liên quan đến khả năng mở rộng hay thu hẹp quy mô kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp khoa học và công nghệ.
- Yếu tố kỹ thuật công nghệ
Tình hình phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ, tình hình ứng dụng của khoa học
kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất trên thế giới cũng như trong nước ảnh hưởng
tới trình độ kỹ thuật công nghệ và khả năng đổi mới kỹ thuật công nghệ của doanh
nghiệp do đó ảnh hưởng tới năng suất chất lượng sản phẩm tức là ảnh hưởng tới
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Doanh
nghiệp khoa học và công nghệ thì yếu tố khoa học, công nghệ lại càng quan trọng,

6


nó khẳng định vị thế, địa vị của doanh nghiệp trên thị trường khoa học và công
nghệ. Yếu tố công nghệ sẽ giúp cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ tiết
kiệm được chi phí sản xuất, tạo ra giá thành sản phẩm thấp hơn so với các đối thủ
khác, tạo ra lợi thế trong cạnh tranh. Đồng thời, yếu tố khoa học và kỹ thuật sẽ tạo
ra năng suất lao động cao hơn, tạo ra lợi thế tối ưu hơn trên thị trường các sản phẩm
khoa học và cơng nghệ.
1.3. Vai trị của nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, một quốc gia có trình độ đổi
mới sáng tạo cao sẽ có nhiều cơ hội tham gia sân chơi lớn. Khởi nghiệp châm ngòi
sức sáng tạo, vì vậy, việc thôi thúc “ngọn lửa” khởi nghiệp bùng cháy đang là quyết
tâm chung của toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện nay, môi trường và các điều kiện cho
khởi nghiệp, gồm hệ thống khung pháp luật, các chính sách hỗ trợ, quỹ đầu tư mạo
hiểm (ĐTMH)… giúp bảo đảm tính ổn định và đợ sẵn sàng vẫn cịn gặp nhiều
vướng mắc. Hoàn thiện các điều kiện cho khởi nghiệp chính là yêu cầu bức thiết
nhất, giúp cộng đồng khởi nghiệp Việt Nam vươn lên và phát triển mạnh mẽ.
Đánh giá gần đây về năng lưc cạnh tranh quốc gia Việt Nam chỉ là nền kinh tế vận
hành ở giai đoạn cơ bản cịn mợt khoảng cách khá xa để vươn tới nền kinh tế tri
thức. Do đó, các DN KH&CN cần rất nhiều nổ lưc và sư quan tâm của chính phủ
mới có thể thưc hiện được nhiệm vụ gia tăng số lượng và chất lượng DN KH&CN.
Việt Nam xác định 4 ngành ưu tiên là CNTT, vật liệu mới, công nghệ sinh học, cơ
khí tư động nhưng thưc sư vẫn chưa có qui hoạch tổng thể cho phát triển công
nghiệp. Do vậy phạm vi và quy mô đầu tư về vật chất, nguồn nhân lưc cho các
ngành công nghiệp không trọng điểm. Theo đó việc thưc hiện mục tiêu tái cấu trúc
nền công nghiệp sẽ lúng túng trong xây dưng mục tiêu hoạt động.
7



Ngân sách cho KHCN Việt Nam chỉ đạt 0.5% GDP, nếu so với Nhật Bản, Hoa Kỳ
thì đầu tư từ 2.7-3.4% GDP thì đây là con số nhỏ. Đầu tư KHCN Việt Nam gồm
40% chi xây dưng cơ sở hạ tầng, 40% chi thường xuyên (bộ máy quản lý và nghiên
cứu). Bên cạnh đó tồn tại cơ chế thu chi vướng thủ tục hành chánh, không theo thị
trường, tăng chi phí thời gian (60% thời gian của nghiên cứu trong nước).
Từ khi thừa nhận vai trò thành phần kinh tế tư nhân thông qua hiến pháp, luật DN,
luật KHCN, luật công nghệ cao, sở hữu trí tuệ, chuyển giao KHCN… trong đó xác
nhận “quyền” tư do của các tổ chức, cá nhân. Khởi đầu thưc hiện phi tập trung hóa
trong hoạt động KHCN (1981) cho phép các đơn vị nghiên cứu tham gia sản xuất,
chấm dứt cơ chế bao cấp. Năm 1983 đến nay đã có nhiều nghị định nâng dần mức
độ tư do các thành phần trong xã hội như nghị định 115/2005/NĐ-CP về cơ chế tư
chủ, tư chịu trách nhiệm của tổ chức KHCN công lập, thưc tế nghị định này gặp
khó khăn do yếu kém trong thưc hiện bản thân cá nhân và tổ chức, “sức ỳ” do thời
gian dài sống trong “bao cấp”, qui định thiếu chặt chẽ, thiếu đồng bộ của các văn
bản dưới luật. Chính sách khuyến khích DN đầu tư cho KHCN như nghị định
119/1999/NĐ-CP hỗ trợ DN đổi mới công nghệ, năm 2010 con số của tổng cục
thống kê đưa ra chỉ 509/290767 DN có đầu tư cho KHCN tức khoảng 2.8% nguồn
vốn DN.
Tham gia đầu tư cho DN KHCN từ quỹ KHCN, quỹ đầu tư mạo hiểm cịn là mợt
trong ng̀n tài chính hỗ trợ khởi nghiệp ngày càng phổ biến ở Hoa Kỳ, Châu Âu,
TQ và một số nước khác. Tại Việt Nam gồm có Dragon Capital, Mekong Capital,
IDG Venture, Vina Capital, Thanh Việt, Vietfund, Phangxiphang… nhưng đa phần
đầu tư vào lĩnh vưc bất động sản, đầu tư chứng khoán, gần đây một số quỹ ưu tiên
đầu tư trong lĩnh vưc CNTT nhưng không đáng kể. Các điều kiện tiếp cận quỹ hầu

8


như các khởi nghiệp khó đạt được bởi những yêu cầu về chuẩn mức trong quản lý,
khả năng phát triển thị trường tiềm năng đối với sản phẩm.

Sở dĩ quỹ đầu tư mạo hiểm Việt Nam không tham gia đầu tư cho DN KH&CN do
một số các nguyên nhân thị trường tiềm năng KH&CN Việt Nam chưa nổi trội,
riêng thị trường gia công CNTT mới nổi cũng được quỹ này quan tâm. Các yếu tố
hỗ trợ cho thị trường KHCN như chính sách phát triển tư nhân, nhân lưc, bảo vệ sở
hữu trí tuệ chưa đủ mạnh. Đồng thời chính sách khuyến khích quỹ đầu tư mạo hiểm
chỉ chung chung (nghị định 99/2003/NĐ-CP Ban hành qui chế khu công nghệ cao
tại điều 19 và 29 chương VI của qui chế khu công nghệ cao).
Hệ thống hành lang pháp lý bảo vệ và phát triển DN KH&CN đóng vai trò quan
trọng. Luật chuyển giao KHCN phục vụ mục tiêu nghiên cứu gắn với thị trường,
tuy nhiên giới nghiên cứu đánh giá can thiệp của nhà nước quá nhiều vào thị trường
KHCN. Vấn đề cần bàn khác luật công chức cấm cán bộ công chức thành lập DN,
trong khi đa phần các cán bộ và giảng viên là cán bộ công chức cũng là nhóm có tỷ
lệ lao động trình độ cao chiếm rất lớn/ lưc lượng lao động toàn xã hội.
Riêng về chính sách dành cho vườn ươm, có thể nói mô hình vườn ươm tại Việt
Nam chưa được xem trọng, đến nay vườn ươm DN vẫn chưa có chính sách cụ thể
để hoạt động. Các đầu tư cho vườn ươm không tương xứng với mục tiêu vườn ươm
phục vụ cho địa phương trong hỗ trợ DN KHCN.
Chất lượng nguồn nhân lưc quyết định sư ra đời của DN KHCN. Một số đề án giáo
dục như đề án 322, đề án “Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại
học, cao đẳng giai đoạn 2010 - 2020”, tận dụng quỹ giáo dục quốc tế, chính sách xã
hội hóa giáo dục đại học cho phép tư nhân tham gia đầu tư giáo dục… thời gian
gần đây tạo ra những thay đổi tốt trong chất lượng nhân lưc. Đối với thu hút trí thức
kiều bào đã có những thay đổi đáng kể như luật quốc tịch sửa đổi, miễn thị thưc
9


người Việt Nam ở nước ngoài; quy chế cư trú người Việt Nam ở nước ngoài; sửa
đổi bổ sung luật nhà ở, luật đầu tư, luật DN. Tuy nhiên để phát huy tác dụng thu hút
kiều bào trí thức cần có thêm sư đồng bộ về môi trường làm việc, chính sách sử
dụng người tại tổ chức, môi trường nghỉ ngơi, giáo dục, chăm sóc sức khỏe y tế.

Chính sách thẩm thấu công nghệ từ FDI đối với nhân lưc chưa đem lại kết quả đáng
kể do cấu trúc ngành FDI tập trung nhiều ngành công nghệ thấp như dệt may, da
giày, đồ gỗ; số lượng quá ít của DN FDI công nghệ cao cũng như mức độ chuyển
giao do hạn chế của trình độ nhân lưc. Kết quả mức độ chuyển giao công nghệ của
FDI xếp hạng trung bình 62/142.

Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
KHỞI NGHIỆP Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trang doanh nghiệp khởi nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam
Theo báo cáo mới nhất của Bộ Khoa học và Công nghệ, hiện nay, cả nước đã có
trên 3.000 doanh nghiệp (DN) khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, số lượng và
chất lượng các DN này ngày càng tăng, thể hiện ở giá trị thương vụ đầu tư. Chẳng
hạn, nền tảng kết nối ẩm thưc trưc tuyến Foody đã có khoản bán cổ phần lên tới 64
triệu USD; trang thương mại điện tử Tiki.vn nhận được khoản đầu tư 44 triệu USD
từ công ty bán lẻ trưc tuyến lớn nhất Trung Quốc là JD.com; đại lý du lịch trưc
tuyến Vntrip tuyên bố nhận được 10 triệu USD từ Hendale Capital…Có thể thấy,
KHCN và đổi mới sáng tạo đóng góp quan trọng ở tất cả các ngành, lĩnh vưc, các
địa phương trong cả nước. Căn cứ báo cáo của các Sở Khoa học và Công nghệ, tính
đến tháng 11/2020, cả nước đã có 538 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận
Doanh nghiệp khoa học – công nghệ (DNKHCN). Sau khi Nghị định số
10


13/2019/NĐ-CP có hiệu lưc thi hành, số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận DNKHCN có xu hướng gia tăng nhanh, đặc
biệt ở các thành phố như Hồ Chí Minh, Hà Nội là những địa phương chú trọng xây
dưng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, tăng cường triển khai
các hoạt động truyền thông, giới thiệu chính sách và hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo
Về tình hình hoạt động của DNKHCN: căn cứ báo cáo của 235 doanh nghiệp cung

cấp thông tin về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh trong giai đoạn 20192020:
- DNKHCN tạo việc làm cho 31.264 người lao động.
- Tổng doanh thu của 235 doanh nghiệp năm 2019 đạt: 147.170,5 tỷ đồng. Trong
đó, có 217 doanh nghiệp có doanh thu từ sản phẩm KH&CN với tổng: 24.123,1 tỷ
đồng (chiếm 16,3% tổng doanh thu).
Năm 2019, GDP theo giá hiện hành của Việt Nam đạt 6294000 tỷ đồng. Như vậy,
tổng doanh thu của 235 DNKHCN đạt 2,39 % GDP cả nước.
- 198 doanh nghiệp có lãi với tổng lợi nhuận trước thuế năm 2019 đạt: 5.268,5 tỷ
đồng.
Trong đó, tổng lợi nhuận trước thuế của sản phẩm KH&CN đạt: 1.343,9 tỷ
đồng/183 doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp có doanh thu trên 100 tỷ đồng: 56 doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp báo cáo lỗ: 9 doanh nghiệp.
- Thu nhập bình quân tháng của người lao động: 15 triệu đồng/người.
11


Trong năm 2020, nhiều địa phương trên cả nước đã tham gia và triển khai hiệu quả
hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cả về chất và lượng như: Hà Nội, TP Hồ
Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu; Đà Nẵng, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa
Thiên - Huế, Cần Thơ… Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hoạt động ngày
càng sôi động, quy mô của các thành phần được mở rộng. Các địa phương đã kết
nối được hàng chục tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo (cơ sở ươm tạo, không gian
làm việc chung, quỹ đầu tư); thiết lập nền tảng kết nối chia sẻ dữ liệu với 134
phòng thí nghiệm, 626 chuyên gia, 275 tổ chức KH&CN... Qua đó, đã giúp các
thành phần của hệ sinh thái khởi nghiệp nói chung và doanh nghiệp nói riêng có
những chuyển biến rõ rệt về nhận thức, vai trị của khoa học, cơng nghệ và đổi mới
sáng tạo.
Điều đáng ghi nhận là trong năm 2020, đại dịch Covid-19 khiến rất nhiều doanh
nghiệp gặp khó khăn, nhưng đây lại là năm ghi nhận các doanh nghiệp khởi nghiệp

tham gia các cuộc thi khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đông đảo nhất với chất lượng
và số lượng vượt trội. Điều này chứng tỏ hệ sinh thái khởi nghiệp của các địa
phương đã bắt đầu vững vàng sau nhiều năm được đầu tư, ươm tạo và phát triển.
Với hàng trăm hồ sơ dư thi trên nhiều lĩnh vưc, nhiều sản phẩm tham dư của các
nhóm startup ở địa phương đã và đang gây tiếng vang trên thị trường trong và
ngoài nước . Bên cạnh đó, nhiều giải pháp đổi mới sáng tạo đến từ các khối giáo
dục, y tế, doanh nghiệp… đã được triển khai thành công, đem lại hiệu quả cao và
phục vụ lợi ích cho chính cộng đồng.
Nhiều doanh nghiệp cho biết, khi được chứng nhận DNKHCN, ngoài những ưu đãi
hỗ trợ của Nhà nước về thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, thì giá trị thương
hiệu mà DNKHCN mang tới có hỗ trợ rất lớn đối với việc thương mại hóa sản
phẩm, phát triển doanh nghiệp. Tuy nhiên, tại một số địa phương, việc tiếp cận
12


chính sách ưu đãi hỡ trợ vẫn cịn khó khăn, doanh nghiệp đề xuất các cơ quan quản
lý cần trao đổi cụ thể, rõ ràng giữa các đơn vị để đạt được việc thống nhất trong
triển khai chính sách.
Các DNKHCN chú trọng tới việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển,
đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Khoảng 7%
doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận từ kết quả KH&CN có nguồn gớc từ ngân
sách nhà nước; hơn 90% doanh nghiệp cịn lại tư đầu tư nghiên cứu hoặc nhận
chuyển giao kết quả KH&CN bằng toàn bộ nguồn vốn của chính doanh
nghiệp.DNKHCN chú trọng tới việc xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với
các kết quả KH&CN và sản phẩm được tạo ra: có 138 doanh nghiệp được cấp văn
bằng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và 9 doanh nghiệp đã đăng ký bảo hộ và đang chờ
kết quả.
Trong hệ sinh thái khởi nghiệp, doanh nhân khởi nghiệp đóng vai trò chủ đạo, nhà
nước có vai trò tạo ra sân chơi thuận lợi cho hoạt động khởi nghiệp, cịn đại học là
ng̀n cung/tạo ra các doanh nhân khởi nghiệp. Các trường đại học với nguồn lưc

về công nghệ, cơ sở vật chất/phòng thí nghiệm tham gia vào hệ sinh thái khởi
nghiệp vì nhu cầu phát triển của mình (nhu cầu chuyển giao công nghệ). Trong đó,
việc hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp nhằm tạo ra các doanh nhân khởi nghiệp. Để hiệu
quả, hệ thống hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp phải toàn diện, với dư án khởi nghiệp
thật, trong môi trường thật, bằng các đối tác cốt lõi, nguồn lưc cốt lõi, các hoạt
động cốt lõi,… Nguồn lưc cớt lõi chính là vai trị của KH&CN, ứng dụng KH&CN,
sử dụng máy móc thiết bị để phát triển sản phẩm, dịch vụ khởi nghiệp.
Trước làn sóng khởi nghiệp, sáng tạo diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, Chính phủ
Việt Nam đã có nhiều nỗ lưc xây dưng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và ban
hành các văn bản liên quan nhằm hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp, cụ thể là về khoa
13


học – công nghệ đơn cử có thể đề cập tới như: ngày 7/2/2017, Bộ Khoa học và
Công nghệ (KH&CN) phê duyệt danh mục nhiệm vụ đặt hàng thuộc và quy định
tạm thời xử lý hồ sơ tham gia Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia đến
2025”(Quyết định 3362/QĐ-BKHCN)… Trên cơ sở đó, các tỉnh, thành phố trưc
thuộc Trung ương cũng đã ban hành các quyết định, kế hoạch, chương trình về khởi
nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo, để định hướng, đề ra mục tiêu và giải pháp cơ bản
về hỗ trợ, thúc đẩy phát triển hoạt động khởi nghiệp.
Thời gian tới, Việt Nam cần ưu tiên thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong phát triển công
nghệ số, thưc hiện chuyển đổi số trên các lĩnh vưc kinh tế, xã hội, quản trị…, từng
bước hình thành kinh tế số, xã hội số, chính phủ số, tạo ra những giá trị mới và sức
mạnh tổng hợp mới của đất nước. Đồng thời Chính phủ cần lưa chọn và có chính
sách đặc thù đối với một số doanh nghiệp có khát vọng và bản lĩnh, có đủ năng lưc
và quy mô cho đầu tư, nghiên cứu, phát triển công nghệ mới, tiên phong vươn tầm
thế giới. Từ đó, dẫn dắt các doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi giá trị khu
vưc, chuỗi giá trị toàn cầu; từng bước làm chủ công nghệ, xây dưng thương hiệu,
nâng cao năng lưc cạnh tranh và hấp dẫn trong “sân chơi” toàn cầu.
Mặc dù có nhiều chương trình hỗ trợ đổi mới sáng tạo nhưng các hoạt động khởi

nghiệp về khoa học-công nghệ vẫn còn gặp khó khăn . Khó khăn lớn nhất chính là
nhận thức. Các bạn trẻ cần phân biệt sư khác nhau giữa lập nghiệp với khởi nghiệp
và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Khái niệm startup tương ứng với khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo, nghĩa là khởi nghiệp từ những ý tưởng mới, những mô hình mới,
hình thức kinh doanh mới, những kết quả khoa học - công nghệ mới để nhanh
chóng phát triển doanh nghiệp và cạnh tranh trên toàn cầu. Cịn lập nghiệp thơng
thường, như mở cửa hàng để bán hoặc làm lại một mô hình cũ mà không được nhân
rộng hoặc phát triển thì khác hoàn toàn.Giới trẻ cần thay đổi quan điểm về độ tuổi
14


khởi nghiệp thành công. Một vấn đề nữa cũng rất quan trọng đó là các bạn trẻ phải
biết “chấp nhận thất bại”. Các nước thành công trong việc phát triển doanh nghiệp
đổi mới sáng tạo đã tạo ra được văn hóa chấp nhận thất bại. Sau mỗi thất bại, doanh
nghiệp sẽ đánh giá được hướng đi hiện tại và tìm ra con đường tốt hơn cho tương
lai.
Nguồn lưc cho KH&CN ở các địa phương cịn hạn chế, ng̀n kinh phí cho
KH&CN chủ yếu dưa vào ngân sách nhà nước và đang rất thiếu so với nhu cầu, các
nguồn xã hội hóa cịn thấp. Trừ mợt sớ thành phớ lớn, cịn lại hầu hết các địa
phương đều hạn chế về nguồn nhân lưc KH&CN, nhất là nguồn nhân lưc chất
lượng cao. Quá trình đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp cịn chậm, thiếu
nhiều ́u tớ để thúc đẩy thưc hiện đổi mới. Chưa có nhiều nhiệm vụ KH&CN có
sư liên kết, phân công triển khai giữa các địa phương trong vùng. Các công tác
quản lý nhà nước khác như: thông tin, thống kê, xây dưng cơ sở dữ liệu về hoạt
đợng KH&CN cịn ́u; năng lưc thẩm định cơ sở khoa học cho các đề án phát triển
kinh tế - xã hội, thẩm định dư án đầu tư trên địa bàn còn yếu, chưa đáp ứng được
yêu cầu phục vụ cho phân tích, định hướng trong phát triển kinh tế - xã hội; công
tác quản lý an toàn bức xạ hạt nhân cũng còn có những hạn chế, chưa có được nơi
cất trữ tập trung an toàn các nguồn bức xạ khơng sử dụng…
2.2 Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp khoa học và công nghệ

tại Việt Nam
2.2.1 Các chính sách đã ban hành
1) Quyết định 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt
đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”
(gọi tắt là Đề án 844). Đây là văn bản chính sách đầu tiên, bao quát nhất và là nền
tảng về chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp khởi nghiệp Khoa học công nghệ
15


của Việt Nam. Đề án được xây dưng và chủ trì triển khai thưc hiện bởi Bộ Khoa
học và Công nghệ, có phạm vi bao trùm toàn quốc.
2) Luật số 04/2017/QH14 ra đời ngày 12/6/2017 do Quốc hội ban hành về “Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa” là hành lang pháp lý quan trọng trong việc xây dưng các
chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt
Nam.
3) Quyết định 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề
án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025”
4) Quyết định 1665/QĐ-TTg ngày 30/10/2017 của Thủ tướng chính phủ về phê
duyệt Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”.
5) Nghị định: Số: 13/2019/NĐ-CP ngày 1/2/2019 của Thủ tướng chính phủ, quy
định về “Doanh nghiệp khoa học và công nghệ”
Các quyết định trên đã có các Thông tư, chỉ thị, nghị định ban kèm để hướng dẫn
và quy định chi tiết về việc triển khai các quyết định đó.
2.2.2 Nội dung chính của các chính sách ưu đãi, hỡ trợ


Hỡ trợ tài chính – tín dụng cho khởi nghiệp

Mục tiêu chính của các chính sách này là tăng khả năng tiếp cận vốn cho các cá
nhân khởi nghiệp vì thưc tế điều kiện mà các nhà khởi nghiệp quan tâm và coi

trọng nhất là nguồn vốn để họ hiện thưc hóa ý tưởng của mình. Cụ thể, tại Nghị
định: Số: 13/2019/NĐ-CP, các ưu đãi giành cho doanh nghiệp khoa học công nghệ
là:

16


Các dư án đầu tư sản xuất sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ
của doanh nghiệp khoa học và công nghệ được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà
nước theo quy định của pháp luật hiện hành.
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ thưc hiện các nhiệm vụ khoa học và công
nghệ, ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh sản phẩm
hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ được Quỹ Đổi mới công nghệ quốc
gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trưc thuộc trung ương tài trợ, cho vay với lãi suất
ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay và bảo lãnh để vay vớn.


Miễn, giảm th́ thu nhập doanh nghiệp

Thu nhập của doanh nghiệp khoa học và công nghệ từ hoạt động sản xuất, kinh
doanh các sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ được hưởng ưu
đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp như doanh nghiệp thưc hiện dư án đầu
tư mới thuộc lĩnh vưc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, cụ thể: được
miễn thuế 04 năm và giảm 50% số thuế phải nợp trong 09 năm tiếp theo.


Miễn, giảm tiền th đất, thuê mặt nước

Doanh nghiệp khoa học và công nghệ được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước

theo quy định của pháp ḷt về đất đai.


Hỡ trợ hoạt đợng nghiên cứu, thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ

Doanh nghiệp khoa học và công nghệ được hưởng ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hoạt động
sản xuất kinh doanh.

17


Doanh nghiệp khoa học và công nghệ được ưu tiên, không thu phí dịch vụ khi sử
dụng máy móc, trang thiết bị tại các phịng thí nghiệm trọng điểm q́c gia, cơ sở
ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu khoa học và công
nghệ của Nhà nước để thưc hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ, sản xuất thử nghiệm sản phẩm mới, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và
công nghệ.
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ được sử dụng Quỹ phát triển khoa học và
công nghệ của doanh nghiệp và các nguồn huy động hợp pháp khác để thương mại
hóa kết quả khoa học và công nghệ.
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ được ưu tiên tham gia các dư án hỗ trợ
thương mại hóa kết quả khoa học và cơng nghệ, tài sản trí ṭ của Nhà nước.


Hỡ trợ phát triển hoạt động giáo dục đào tạo, nâng cao năng lưc kinh doanh

Chính sách hỗ trợ phát triển giáo dục đào tạo là những quan điểm, giải pháp mà nhà
nước sử dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp để đào tạo và nâng cao năng lưc quản lý,
quản trị điều hành doanh nghiệp, nâng cao năng lưc chuyên môn, bồi dưỡng tay

nghề cho người lao động trong doanh nghiệp.
Quyết định số 1230/QĐ-BDGĐT của Bộ giáo dục đào tạo ngày 30/3/2018 về ban
hành kế hoạch triển khai đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm
2025” của ngành giáo dục đã nêu rõ: Cần trang bị các kiến thức về kỹ năng khởi
nghiệp thông qua việc xây dưng đồng bộ khung năng lưc cả về kiến thức, kỹ năng
và thái độ. Ngoài ra, cần bồi dưỡng, cung cấp cán bộ cho cán bộ tư nhân tư vấn hỗ
trợ khởi nghiệp bộ tài liệu hướng dẫn, chú trọng cung cấp kiến thức không chỉ cho
sinh viên mà cần quan tâm đến cả học sinh phổ thông, bồi dưỡng các kiến thức về
kỹ năng đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp
18


2.3 Đánh giá các chính sách của chính phủ Việt Nam
2.3.1 Một số kết quả đạt được khi thưc hiện chính sách
Nguồn vốn hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đang ngày một
tăng lên.
Tới hết năm 2017, có khoảng 40 quỹ đầu tư cho khởi nghiệp hoạt động tại Việt
Nam với phần lớn là các quỹ đầu tư nước ngoài. Ngoài ra có những quỹ đầu tư
doanh nghiệp tư nhân, không tập trung đầu tư vào startup nhưng có thể đầu tư vào
giai đoạn chuyển tiếp từ startup thành doanh nghiệp trưởng thành như quỹ Mekong
Capital, Dragon Capital, Vina Capital.
Bên cạnh sư gia tăng các quỹ đầu tư cho khởi nghiệp, số lượng các nhà đầu tư thiên
thần cũng bắt đầu có xu hướng tăng. Hầu hết đây là doanh nhân đã thành công và
mong muốn đầu tư cho startup ở thế hệ sau. Một số Việt Kiều, du học sinh Việt tại
nước ngoài đã và đang trở về Việt Nam để tham gia đầu tư cho Khởi nghiệp sáng
tạo.
Gần đây một số ngân hàng đã bất đầu có các chương trình hỗ trợ lãi suất cho doanh
nghiệp khởi nghiệp như: Vietcombank, Vietinbank, VPBank, BIDV. Năm 2016 –
2017 chứng kiến sư tham gia của nhiều tập doàn của Việt Nam trong việc đầu tư
cho Startup như Quỹ đầu tư của FPT (FPTVentures), Quỹ đầu tư của Viettel

(Viettel Ventures), Quỹ sáng tạo CMC.
Cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp khoa học công nghệ ngày
càng phát triển và hiện đại.
Số lượng các không gian làm việc chung trong cả nước đang ngày càng một gia
tăng, đến nay đã có gần 50 khu làm việc chung, tập trung chủ yếu ở ba thành phố
lớn là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Đây là nơi cung cấp không gian
19


làm việc, sáng tạo ý tưởng, kết nối cộng đồng khởi nghiệp. Một số khu làm việc
chung có thể kể tới như: Up, Vietnam Silicon Valley Accelerator (VSVA), BK Hub,
Đà Nẵng Startup Network,…
Theo thống kê sơ bộ của cục phát triển thị trường, bộ Khoa học và Công nghệ, hiện
có khoảng 40 cơ sở ươm tạo và tổ chức thúc đẩy kinh doanh. Trong đó có khoảng
10 cơ sở ươm tạo trưc thuộc các cơ quan nhà nước hoặc đơn vị sư nghiệp, 7 cơ sở
ươm tạo thuộc các trường Đại học và còn lại là các cơ sở ươm tạo và tổ chức thúc
đẩy kinh doanh do các tổ chức tư nhân hoặc nước ngoài thành lập. Một số cơ sở
ươm tạo tiêu biểu có thể kể đến như: Vườn ươm doanh nghiệp Cơng nghệ cao Hịa
Lạc, Vườm ươm doanh nghiệp công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh; Vườn ươm doanh
nghiệp công Công nghệ thông tin Hà Nội.
Các hoạt động truyền thông về Khởi nghiệp đang diễn ra khá sôi nổi, qua nhiều
kênh như báo chí, truyền hình, mạng xã hội,… điển hình như: chuỗi chương trình
“quốc gia khởi nghiệp” và chương trình truyền hình thưc tế về khởi nghiệp
“Thương vụ bạc tỷ - Shark Tank” của VTV,… Đây là nơi các startup và các nguồn
lưc hỗ trợ startup gặp gỡ, chia sẻ về kiến thức, kinh nghiệm, cơ hội, thách thức của
khởi nghiệp.
Căn cứ báo cáo của các Sở Khoa học và Công nghệ, tính đến tháng 11/2020, cả
nước đã có 538 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận Doanh nghiệp khoa học
công nghệ (DNKHCN). Sau khi Nghị định số 13/2019/NĐ-CP có hiệu lưc thi hành,
số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận

DNKHCN có xu hướng gia tăng nhanh, đặc biệt ở các thành phố như Hồ Chí Minh,
Hà Nội là những địa phương chú trọng xây dưng và phát triển hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo, tăng cường triển khai các hoạt động truyền thông, giới
thiệu chính sách và hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
20


Nhiều doanh nghiệp cho biết, nhờ được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp,
tiền thuê đất, vay vốn tín dụng đầu tư, thưc hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn
nhà nước, doanh nghiệp tập trung được nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho KH&CN,
đầu tư cơ sở vật chất, nhân lưc, không ngừng tạo ra các sản phẩm mới có chất
lượng và sức cạnh tranh. Ngoài những ưu đãi hỗ trợ của Nhà nước về thuế thu
nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, thì giá trị thương hiệu mà DNKHCN mang tới có
hỗ trợ rất lớn đối với việc thương mại hóa sản phẩm, phát triển doanh nghiệp. Tuy
nhiên, tại một số địa phương, việc tiếp cận chính sách ưu đãi hỡ trợ vẫn cịn khó
khăn, doanh nghiệp đề x́t các cơ quan quản lý cần trao đổi cụ thể, rõ ràng giữa
các đơn vị để đạt được việc thống nhất trong triển khai chính sách.
2.3.2 Một số khó khăn, tồn tại làm giảm cơ hội khởi nghiệp
Quy mô nền kinh tế Việt Nam nhỏ, trong khi tỷ lệ chi cho khoa học và công nghệ
so với GDP lại thấp, nên tổng số chi cho Khoa học và Công nghệ ở Việt Nam còn
hạn chế.
Chính sách khởi nghiệp còn nhiều bất cập, chưa tạo được sư thu hút đối với các nhà
đầu tư trong khi sư cạnh tranh quốc tế ngày càng cao. Tại Việt Nam chưa có nền
tảng pháp lý cho mô hình tài chính mới liên quan đến khởi nghiệp. Một trong
những hình thức huy động vốn đầu tư giai đoạn đầu đang phát triển rất mạnh trên
thế giới là hình thức gọi vốn cộng đồng trên nền tảng internet (crowd funding). Ở
Việt Nam đã bắt đầu hình thành các nền tảng gọi vốn cộng đồng như Fund start,
Tima, Betado, tuy nhiên cho có các văn bản pháp lý quy định về các hình thức gọi
vốn này.
Theo kinh nghiệm quốc tế, Nhà nước thường tham gia vào giai đoạn đầu của khởi

sư, hỗ trợ về mặt tài chính, thông qua các khoản tài trợ không hoàn lại nhằm phục
vụ mục đích nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ, tìm hiểu thị trường, thuê chuyên
21


gia, hoàn thiện sản phẩm mẫu và đưa sản phẩm ra thị trường. Tuy nhiên, ở Việt
Nam các định mức chi và nội dung chi cho các hoạt động này hiện nay còn thấp,
chưa có nhiều nhà đầu tư tư nhân, nếu không có sư hỗ trợ của nhà nước, startup rất
dễ “chết yểu” và không thể bước thêm các bước phát triển phía sau.
Tại Việt Nam, hệ thống về thuế, ưu đãi cho đầu tư khởi nghiệp chưa phù hợp, chưa
tạo được sư thu hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài, chưa có quy định về việc hỗ
trợ thuế thu nhập cá nhân đối với các nhà đầu tư khởi nghiệp sáng tạo. Do vậy, cá
nhân đầu tư sẽ phải đóng thuế thu nhập dưa trên các khoản có lãi nhưng lại không
được bù các khoản đầu tư lỗ. Điều này gây bất lợi lớn do tính chất của đầu tư khởi
nghiệp là đầu tư rủi ro cao với tỷ lệ thất bại có thể lên tới 90%.
Chính sách giáo dục chưa thưc sư đưa nội dung giáo dục khởi nghiệp vào chương
trình giảng dạyChưa phát huy được nguồn nhân lưc tốt nhất cho hoạt động Khoa
học công nghệ. Tỷ lệ cán bộ nghiên cứu/1 vạn dân của Việt Nam thấp hơn nhiều so
với các nước trong khu vưc, kiến thức của người lao động và chất lượng đào tạo
nghề của Việt Nam vẫn chưa được cải thiện. Nhìn chung, năng lưc của đội ngũ
nhân lưc khoa học cơng nghệ của Việt Nam cịn hạn chế, chưa có chính sách đột
phát trong trọng dụng cán bộ khoa học công nghệ trong nước và thu hút trí thức
Việt kiều.
Hoạt động thông tin Khoa học và công nghệ phục vụ cho cợng đờng cịn nhiều bất
cập, mặc dù các trang thông tin điện tử chính thức của các cơ quan nhà nước vẫn
đăng tải và cập nhật thông tin Khoa học công nghệ thường xuyên, nhưng thưc tế
các thông tin này chưa được nhiều tầng lớp nhân dân chú ý. Hạn chế trong việc tiếp
cận thông tin khoa học và công nghệ ảnh hưởng đến năng lưc sáng tạo và quyết
định khởi nghiệp của các cá nhân, đặc biệt là những khu vưc xa trung tâm.
22



Chính sách hỗ trợ của Nhà nước mới dừng lại ở giai đoạn tạo ra kết quả KH&CN
mà chưa tập trung hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường cho sản phẩm mới đó;
trong khi giai đoạn thương mại hóa tiềm ẩn nhiều rủi ro không kém giai đoạn
nghiên cứu và phát triển.
Cơ sở vật chất cho hoạt động KH&CN của các DNKHCN cịn thiếu, do thiếu vớn
đầu tư hoặc không thuê được đất để xây dưng mở rộng cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Các sản phẩm của nước ngoài đặc biệt là các nước tiên tiến xâm nhập mạnh mẽ vào
thị trường trong nước khiến cho sản phẩm của doanh nghiệp bị cạnh tranh gay gắt.

Chương 3: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC TRONG VIỆC HỖ
TRỢ VÀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP TỪ ĐĨ ĐỀ
XUẤT MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
3.1 Kinh nghiệm một số quốc gia trên Thế giới
3.1.1 Kinh nghiệm của Hoa Kì: Hợp tác Nhà nước-tư nhân trong đầu tư khởi
nghiệp
Chương trình này bao gồm việc mở rộng các hoạt động thúc đẩy tinh thần kinh
doanh và tăng cường thương mại hóa khoảng 148 tỷ USD được Chính phủ liên
bang đầu tư hàng năm, với tham vọng tạo ra những lĩnh vưc kinh doanh hoàn toàn
mới; loại bỏ các rào cản không cần thiết cho việc khởi nghiệp kinh doanh; mở rộng
hợp tác giữa các DN lớn và DN khởi nghiệp.
Có thể thấy là các quỹ đầu tư của Chính phủ Mỹ không thưc hiện đầu tư trưc tiếp
cho các doanh nghiệp khởi nghiệp mà hợp tác, đầu tư cùng với các quỹ tư nhân,
theo tỷ lệ tùy thuộc vào mức độ rủi ro của doanh nghiệp khởi nghiệp. Phương thức
23


này cho phép Nhà nước tác động được vào tiến trình khởi nghiệp trong toàn nền
kinh tế trong khi nguồn vốn tư nhân chưa đủ, đồng thời cũng giảm bớt được rủi ro

cho nguồn vốn của Nhà nước.
3.1.2 Kinh nghiệm của Israel: Quốc gia khởi nghiệp
Yozma trong tiếng Israel có nghĩa là “sáng kiến”. Đây cũng là tên của chương trình
đưa ra vào những năm 1990 bởi Chính phủ với đầu tư 100 triệu USD để tạo ra 10
quỹ đầu tư mạo hiểm mới ở Israel. Chương trình này đã được đưa ra để khắc phục
vấn đề thiếu kinh nghiệm và năng lưc của các DN Israel trong việc chiếm lĩnh thị
trường trên quy mô toàn cầu.
Các chương trình Yozma là xúc tác cho sư hình thành các chương trình khác: Quỹ
Israel Gemini Advent, Seed Israel vào năm 1994. Tính đến năm 2009, Israel đã có
45 quỹ đầu tư mạo hiểm của Israel. Ngay sau đó, Chính phủ các nước khác chú ý
và đến thăm Israel để học tập sư thành công của chương trình Yozma, một chương
trình đầu tư do Nhà nước khởi động rất thành công, khác biệt với Mỹ, luôn do các
quỹ đầu tư tư nhân dẫn đầu. Với mục tiêu hỗ trợ phát triển khởi nghiệp, Israel cũng
quan tâm đặc biệt đến việc cải cách cơ chế tài chính quan liêu bằng việc nới lỏng
các điều kiện khắc nghiệt của ngành tài chính, bao gồm loại bỏ dần của trái phiếu
Chính phủ, mở rộng tiếp cận vốn cho các nhà đầu tư.
3.1.3 Kinh nghiệm của Phần Lan: Quốc gia khởi nghiệp phúc lợi
Hỗ trợ khởi nghiệp của Chính phủ Phần Lan đối với các doanh nghiệp khởi
nghiệp thường là không có yêu cầu hoàn lại. Việt Nam chính là một trong những
quốc gia nhận được sư hỗ trợ đó của Chính phủ Phần Lan với chương trình Hợp
tác sáng tạo IPP – Innovation Partnership Program, đã vận hành từ năm 2012, và
24


cho đến nay, ngày càng tập trung vào các doanh nghiệp khởi nghiệp, các tổ chức
hỗ trợ khởi nghiệp, và đặc biệt hơn, vào các doanh nghiệp Việt Nam với sản phẩm
và công nghệ có tiềm năng vươn ra thị trường quốc tế.
3.1.4 Bài học rút ra từ kinh nghiệm quốc tế
Sư kết hợp Nhà nước và tư nhân trong thúc đẩy khởi nghiệp quốc gia là bước đi
cần thiết của Chính phủ trong vấn đề xóa bỏ tư duy định kiến với tính chất mạo

hiểm trong kinh doanh, bởi vì, kinh nghiệm của Thế giới đã cho thấy, sư thịnh
vượng của các quốc gia có đóng góp rất lớn của các đột phá khởi nghiệp thành
công từ kinh doanh mạo hiểm.
3.2 Một số giải pháp chính sách nhằm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp khởi
nghiệp Khoa học và Công nghệ tại Việt Nam
3.2.1 Vấn đề tồn tại hạn chế trong chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại Việt Nam
- Chưa có một chính sách đặc thù đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp nói chung,
quy định về chính sách thuế, tài chính đối với doanh nghiệp khởinghiệp nói riêng,
chưa có sư phân biệt theo hướng dành ưu đãi cao hơn cho cácdoanh nghiệp khởi
nghiệp.
- Về định mức hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đã được quy định
khá rõ trong các nghị định, tuy nhiên hai vấn đề ảnh hưởng tới tính khả thi của các
chính sách hỗ trợ tài chính, đầu tư là tiêu chí lưa chọn và sư phối hợp của các cơ
quan nhà nước vẫn cịn rất hạn chế.
- Thiếu các thơng tin liên quan để kết nối các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp và các nhà
khởi nghiệp.
25


×