Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.86 KB, 72 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC – MẦM NON
----------

TRẦN THỊ HUYỀN TRÂN

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch
lạc cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động
làm quen Tác phẩm văn học

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, là phương tiện quan trọng nhất cho sự
phát triển trí tuệ và giao tiếp của con người. V. I. Lênin nói: “ Ngơn ngữ là công
cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người”. Câu nói của Lênin đã chỉ ra bản
chất của ngơn ngữ là chức năng làm công cụ giao tiếp. Tồn tại song song với
chức năng giao tiếp của ngôn ngữ là chức năng phát triển nhận thức như U - sin
- xki đã nói: “Ngơn ngữ là cơ sở của sự phát triển, là vốn quí báu của mọi tri
thức”. Như vậy, ngôn ngữ là phương tiện hàng đầu để truyền đạt thông tin, kinh
nghiệm, kiến thức của nhân loại hay nói cách khác, ngơn ngữ là phương tiện để
phát triển nhận thức và giao tiếp hàng đầu của xã hội loại người.
Đối với trẻ 5 – 6 tuổi, ngôn ngữ nói chung và ngơn ngữ mạch lạc nói riêng
có vai trị đặc biệt quan trọng. Trong giao tiếp, nhờ có ngôn ngữ mạch lạc, trẻ
mới diễn đạt ý nghĩ của bản thân cho người khác hiểu và hiểu được ý của người
khác. Về mặt nhận thức và tư duy, mỗi từ của ngôn ngữ đều chứa đựng một khái


niệm giúp trẻ hiểu biết thêm hiện thực khách quan, nhìn vào bản chất của sự vật,
nắm được bản chất của sự vật khách quan, có cơ sở để làm đơn vị trong q
trình tư duy của mình. Điều đó chứng tỏ rằng để phát huy được chức năng làm
công cụ giao tiếp và nhận thức, trẻ nhất thiết phải nắm được và biết cách sử
dụng ngôn ngữ. Bởi vậy, cần phải chú trọng việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc
cho trẻ.
Phát triển ngơn ngữ nói chung và ngơn ngữ mạch lạc nói riêng được tích
hợp trong tất cả các hoạt động ở trường mầm non, đặc biệt phải kể đến hoạt
động làm quen TPVH. Hoạt động cho trẻ làm quen TPVH là quá trình cho trẻ
tiếp xúc, khám phá, rung động với vẻ đẹp về nội dung và nghệ thuật tác TPVH.
Văn học xây dựng các hình tượng nghệ thuật bằng phương tiện ngôn từ. Bằng
ngôn ngữ nghệ thuật, các TPVH đã làm cho hình tượng văn học khắc sâu vào
tâm khảm người đọc. Vì vậy, quan điểm tích hợp trong giáo dục mầm non hiện
2


nay rất chú trọng đến sự kết hợp việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua tổ chức
hoạt động làm quen TPVH.
Sau một thời gian đi thực tập tôi nhận thấy thực tế giáo dục mầm non hiện
nay, giáo viên tổ chức hoạt động làm quen TPVH nhằm mục đích thực hiện
nhiệm vụ phát triển ngơn ngữ mạch lạc cịn mang tính chung chung, giáo viên
chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và vai trò của hoạt động làm quen TPVH đối với
sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc của trẻ. Trong tổ chức hoạt động làm quen
TPVH cho trẻ, giáo viên chỉ chú ý đến nhiệm vụ nhận thức những sự kiện,
những hiện thực được thể hiện trong tác phẩm, mà chưa chú trọng phát triển
ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Hầu hết giáo viên chưa có sự tìm tịi, nghiên cứu áp
dụng các biện pháp thích hợp giúp trẻ lĩnh hội, tích lũy ngơn ngữ và vận dụng
ngơn ngữ vào hoạt động giao tiếp, làm hạn chế khả năng ngôn ngữ mạch lạc của
trẻ. Trong hoạt động làm quen TPVH giáo viên nói nhiều hơn là để trẻ nói, trẻ ít
khi được sử dụng ngơn ngữ của riêng mình để tự thể hiện, tự diễn đạt một vấn

đề nào đó, mặt khác do số lượng trẻ q đơng và cơng việc q nhiều nên giáo
viên ít chú ý nói chuyện với trẻ từ đó ngơn ngữ của mạch lạc của trẻ ngày một bị
hạn chế.
Chính vì thế, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn
ngữ mạch lạc cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen TPVH” để
nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là một trong những nhiệm vụ quan
trọng bởi vì ở lứa tuổi này, sự tăng trưởng và phát triển tâm lý, sinh lý đều diễn
ra với một gia tốc lớn. Sự lĩnh hội ngôn ngữ phát triển không chỉ ở chiều rộng
(số lượng từ, câu) mà còn cả ở chiều sâu (ngôn ngữ mạch lạc, ngôn ngữ nghệ
thuật, biểu cảm). Chính vì vậy, phát triển ngơn ngữ cho trẻ em đã thu hút các
nhà khoa học ở mọi lĩnh vực (triết lí học, tâm lý học, sinh lý học, giáo dục học,
ngôn ngữ học, xã hội học...) quan tâm nghiên cứu. Trong q trình nghiên cứu
chúng tơi đã tiếp cận với một số cơng trình của các tác giả trong và ngoài nước.

3


2.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài trong lĩnh vực phát triển ngơn ngữ cho
trẻ mẫu giáo
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau về ngôn
ngữ :
Đầu tiên phải kể đến hướng nghiên cứu về vai trị của ngơn ngữ đối với q
trình phát triển và giáo dục trẻ. Đây là hướng nghiên cứu nổi bật nhất xuất hiện
trong các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học nổi tiếng: D. B. Encônhin, L.
X. Vưgốtxki, V. X. Mukhina, K. D. Usinxki, A. Xôkhin ... quan tâm chú ý nghiên
cứu tìm hiểu Vai trị của ngôn ngữ được các tác giả khẳng định là công cụ nhận
thức thế giới, là phương tiện giao tiếp quan trọng bậc nhất và là “ cơ sở của mọi sự
phát triển tư duy, trí tuệ. Theo X. Vưgốtxki: “khi trẻ em gặp phải những khó khăn

trong cuộc sống, trẻ tham gia vào sự hợp tác của người lớn và của bạn bè có
năng lực cao hơn, những người này đã giúp đỡ trẻ và khuyến khích trẻ. Trong
mối quan hệ hợp tác này những quá trình tư duy trong một xã hội nhất định
được truyền giao sang trẻ, mà ở đó ngơn ngữ là phương thức đầu tiên trao đổi
các giá trị xã hội”, Vưgôtxki coi ngôn ngữ là vô cùng quan trọng đối với sự
phát triển tư duy của trẻ.
Trên cơ sở khẳng định vai trò của ngôn ngữ đối sự phát triển của trẻ em, xu
hướng thứ hai nghiên cứu đặc điểm sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em từ 0 – 6 tuổi
(tiêu biểu là V. I. Iadenco, E. I. Tikhêêva, P. A.Xokhin, K. Hainodich). Các tác giả
đã phân chia quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ em thành các giai đoạn: 0 – 12
tháng, 12 – 36 tháng, 36 – 72 tháng. Với mỗi giai đoạn, các tác giả đã nghiên cứu
từng nội dung cụ thể của nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ ở trẻ: đặc điểm phát triển
vốn từ, ngữ âm, ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc.
Đặc biệt, những kết quả nghiên cứu gần đây của nhà khoa học Phùng Đức
Tồn và nhóm cộng sự của ơng ở Trung Quốc đã cho thấy: Ngay từ trong bào thai,
trẻ đã có khả năng nghe và phân biệt được âm thanh ở bên ngồi và có phản ứng
với cường độ âm thanh khác nhau. Do đó, các nhà khoa học cho rằng: Việc giáo
dục và phát triển ngôn ngữ cho trẻ có thể được tiến hành ngay khi trẻ cịn trong bào
thai.
4


Hướng nghiên cứu thứ ba là về phương pháp, biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ thể hiện qua các cơng trình nghiên cứu của các tác giả:
Tác giả E.I. Tikheeva đã đề ra các phương pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ một cách hệ thống, trong đó bà nhấn mạnh cần dựa trên cơ sở tổ chức cho trẻ
tìm hiểu về thế giới thiên nhiên xung quanh trẻ thông qua các hoạt động chơi,
xem tranh, kể chuyện cho trẻ nghe,... để hình thành và phát triển kỹ năng kể
chuyện cho trẻ. Những tư tưởng này đến nay vẫn còn nguyên giá trị đối với khoa
học giáo dục mầm non.

Tác giả Ph. A. Sôkhin [Trang 38, 8] và các cộng sự trong tác phẩm "Sự
phát triển ngôn ngữ trẻ em lứa tuổi mẫu giáo"cho rằng các biện pháp dạy trẻ kể
chuyện: Kể lại tác phẩm văn học, kể chuyện theo tranh, theo đồ chơi, theo kinh
nghiệm, kể chuyện sáng tạo có tác dụng thúc đẩy q trình phát triển ngơn ngữ
mạch lạc cho trẻ.
Như vậy, trên cơ sở nghiên cứu ngôn ngữ trong mối liên hệ với các đặc điểm
tâm, sinh lý, môi trường sống, hầu hết các tác giả đã khẳng định vai trị quan trọng
của ngơn ngữ văn học trong việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, nhận thức và là
phương tiện quan trọng trong quá trình đứa trẻ giao tiếp. Từ đó, đưa ra các phương
pháp, biện pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Những kết quả trên là cơ sở rất quan trọng đối với các nhà giáo dục học
mầm non trong việc nghiên cứu, xây dựng mục tiêu, lựa chọn nội dung, phương
pháp và biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non.
2.2.Một số nghiên cứu ở Việt Nam trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mẫu giáo
Trên cơ sở kế thừa các quan điểm nghiên cứu về ngôn ngữ của các nhà
tâm lý học, giáo dục học trên thế giới, đặc biệt trong giai đoạn thực hiện đổi mới
giáo dục mầm non hiện nay, ở Việt Nam đã có nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề
phát triển ngơn ngữ nói chung, phát triển vốn từ cho trẻ mầm non nói riêng.
Hướng thứ nhất nghiên cứu đặc điểm phát triển lời nói của trẻ từ 0 – 6
tuổi của các tác giả Nguyễn Huy Cẩn , Lưu Thị Lan, Nguyễn Xuân Thức, Đinh
Hồng Thái. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy đặc điểm phát âm, vốn từ, phát triển
5


lời nói mạch lạc và các yếu tố ảnh hưởng đến q trình hình thành, phát triển
ngơn ngữ ở trẻ 0 – 6 tuổi.
Trên cơ sở khái quát các đặc điểm phát triển ngôn ngữ trẻ em, hướng thứ
hai đã xây dựng nội dung, phương pháp, biện pháp, hình thức phát triển ngôn
ngữ mạch lạc cho trẻ. Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn "Phương pháp phát triển

ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo" đã đề cập đến nhiều nhiệm vụ phát triển ngơn ngữ
khác nhau, trong đó có nhiệm vụ dạy trẻ nói mạch lạc. Tác giả đưa ra một số
biện pháp hướng dẫn trẻ kể chuyện nhằm phát triển lời nói độc thoại cho trẻ: kể
lại chuyện, kể chuyện theo tri giác, kể chuyện theo trí nhớ và kể chuyện theo
tưởng tượng.
Những luận điểm của tác giả đã thể hiện cái nhìn tồn diện, sâu sắc và
đúng đắn về ý nghĩa tác phẩm thơ ca đối với giáo dục toàn diện nhân cách trẻ
mầm non, trong đó, thơ ca có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển ngôn ngữ.
Đề cập đến hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen TPVH, các tác
giả Hà Nguyễn Kim Giang, Đinh Hồng Thái, Lã Thị Bắc Lý đều chú ý đến các
vấn đề: tích hợp hoạt động cho trẻ làm quen TPVH với các hoạt động giáo dục
khác trong đó có hoạt động phát triển ngơn ngữ; tích hợp nội dung hướng mục
tiêu giáo dục, đặc biệt là tích hợp văn học và phát triển ngôn ngữ trong tổ chức
hoạt động làm quen TPVH, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
tổ chức cho trẻ làm làm quen TPVH ở trường mầm non.
Qua tìm hiểu vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề chúng tơi nhận thấy:
nhìn chung những cơng trình này đã đề cập đến vấn đề phát triển ngơn ngữ cho
trẻ em ở các khía cạnh khác nhau rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, nghiên
cứu lĩnh vực phát triển ngôn ngữ mạch lạc trong hoạt động làm quen TPVH cho
trẻ mẫu giáo còn rất ít.
Các cơng trình trên là cơ sở phương pháp luận để chúng tôi thực hiện đề
tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5 - 6 tuổi thơng
qua hoạt động làm quen TPVH”
3. Mục đích nghiên cứu

6


Đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông
qua hoạt động làm quen TPVH.

4. Đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Phương pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi qua hoạt
động làm quen TPVH ở trường mầm non.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5 - 6 tuổi qua hoạt
động làm quen TPVH.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu tổ chức hoạt động làm quen TPVH kết hợp tạo môi trường sinh hoạt thơ
truyện giàu tính thẩm mỹ nhằm kích thích hứng thú, nâng cao khả năng cảm thụ
vẻ đẹp của ngơn từ trong TPVH. Phát huy tính chủ động, tự tin cho trẻ khi đọc
thơ, kể chuyện. Kết hợp với sử dụng trực quan khi dạy trẻ đọc thơ kể chuyện.
Dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện theo kinh nghiệm một cách hiệu quả sẽ góp phần làm
tăng vốn từ và khả năng diễn đạt của trẻ, từ đó phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho
trẻ.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu thực trạng việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông
qua hoạt động làm quen TPVH.
- Xây dựng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông
qua hoạt động làm quen TPVH
- Tổ chức TN sư phạm nhằm xác định tính hiệu quả của các biện pháp đã
đề ra.
7. Phạm vi nghiên cứu
Trẻ 5 – 6 tuổi ở trường Mầm non 19/5, trường Mầm non Tuổi Thơ trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
8. Phương pháp nghiên cứu

8.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
7



- Phương pháp tổng hợp, phân tích hệ thống hóa các vấn đề lí luận có liên
quan đến đề tài.
- Phương pháp phân tích TPVH.
8.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu Anket.
- Phương pháp trò truyện với giáo viên, phụ huynh và trẻ.
- Phương pháp quan sát sư phạm
- Phương pháp TN sư phạm.
8.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
9. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận bao gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng về việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5-6
tuổi thông qua hoạt động làm quen TPVH ở một số trường mầm non.
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ
5-6 tuổi thông qua hoạt động làm quen TPVH và TN sư phạm.
Phần kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phục lục

8


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở tâm, sinh lí có liên quan đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu

giáo lớn.
1.1.1. Cơ sở sinh lí học
Cơ sở sinh lí học của phương pháp phát triển ngôn ngữ được thể hiện ở
những đặc điểm của cơ quan sinh lí tham gia vào hoạt động ngơn ngữ của trẻ.
Sự phát triển hài hồ ngơn ngữ địi hỏi sự tồn vẹn về giải phẫu và các chức
năng của các cơ quan tham gia vào việc tiếp thu và sinh sản ngơn ngữ.
Nhiều cơng trình nghiên cứu đã xác nhận rằng ở trẻ mẫu giáo lớn đã có sự
phát triển mạnh mẽ về hình thái và chức năng của não. Bộ não của trẻ 5- 6 tuổi
không khác mấy so với bộ não của người trưởng thành, trọng lượng bộ não của
trẻ đã đạt tới 90% trọng lượng não của người lớn, trẻ đã biết biểu hiện năng lực
trí tuệ qua hoạt động tổng hợp của lời nói, biết suy nghĩ, quan sát, tập trung chú
ý, ghi nhớ, liên tưởng, tưởng tượng để giải quyết nhiệm vụ chơi, học, sinh hoạt
của mình một cách sáng tạo.
Ngồi ra, sự lớn khơn và trưởng thành của trẻ cịn phụ thuộc vào hoạt
động thích nghi với mơi trường. Để thích nghi, trẻ phải hình thành được những
phản xạ. Nếu như phản xạ khơng điều kiện có được do di truyền, mang tính ổn
định, bền vững thì phản xạ có điều kiện lại được hình thành trong quá trình sống
và ln thay đổi. Phản xạ có điều kiện là hoạt động tín hiệu nhờ hai loại kích
thích: kích thích cụ thể như màu sắc, âm thanh, hình ảnh…và kích thích ngôn
ngữ. Đối với trẻ mẫu giáo lớn, trẻ đang trong giai đoạn hồn thiện về ngơn ngữ,
các chức năng về não bộ cấu tạo và hoạt động thần kinh, thể lực của trẻ cũng
đang hoàn thiện dần nên ở lứa tuổi này chính là điều kiện quan trọng và thuận
lợi để trẻ phát triển ngơn ngữ mạch lạc, lưu lốt và biểu cảm để qua đó trẻ có thể
tiếp thu được các tri thức sơ đẳng ban đầu một cách thuận lợi nhất.

9


Bên cạnh đó cơ quan phát âm của trẻ cũng khá hoàn thiện cả về cấu tạo và
hoạt động cho phép trẻ diễn đạt nhu cầu, nguyện vọng của mình một cách rõ

ràng, dễ hiểu. Muốn nói được con người phải có một bộ máy phát âm bình
thường và được tập luyện đúng mức. Bộ máy phát âm của con người gồm: cơ
quan hô hấp, thanh hầu, khoang miệng, khoang mũi. Trẻ càng bé, khả năng điều
khiển bộ máy phát âm càng khó khăn, vì vậy cần có nhiều bài tập đối với từng
bộ phận của bộ máy phát âm.
Ngoài ra, muốn học nói, trẻ phải nghe được người khác nói. Trẻ điếc
khơng thể học nói được. Cho nên cơ quan thính giác cũng là một bộ phận quan
trọng trong q trình học nói. Tai nghe thu nhận những kích thích âm thanh
truyền về vùng thính giác trên vỏ não, rồi phân tích những kích thích đó. Tiếp
thu những kiến thức, những kinh nghiệm của thế hệ trước qua ngôn ngữ.
1.1.2. Cơ sở tâm lý học
1.1.2.1 Cảm giác, tri giác
Ở trẻ 5 -6 tuổi, tri giác nhìn và tri giác nghe phát triển đáng kể. Trẻ dần
tập trung nhìn, tập trung nghe những điều mà cô giáo yêu cầu. Về sau này tuỳ
theo từng hồn cảnh trẻ biết tự mình phát triển lên được những điều tri giác theo
nhiệm vụ của cô giáo đề ra. Một lĩnh vực đặc biệt phát triển tri giác của trẻ 5- 6
tuổi là sự hình thành tri giác thẩm mỹ các tác phẩm nghệ thuật. L.X.Vưgôtxki
nhà tâm lý học Nga coi sự tri giác của trẻ là sự xuất hiện các hình tượng nghệ
thuật. Việc tri giác thẩm mỹ các tác phẩm nghệ thuật của trẻ có những đặc điểm
riêng, nó có mối liên quan chặt chẽ với tình cảm và xúc cảm thẩm mỹ. Ở trẻ mẫu
giáo, có thể phát triển sự tri giác thẩm mỹ các TPVH nói, tức là bước đầu biết
nghe và cảm thụ được không chỉ nội dung mà cả hình thức nghệ thuật của tác
phẩm. Sự phát triển tri giác nghệ thuật của trẻ 5 - 6 tuổi có ý nghĩa quan trọng đặc
biệt đối với q trình phát triển tâm lý và tiếp nhận TPVH.
1.1.2.2 . Tư duy
Bước sang tuổi mẫu giáo lớn, tư duy của trẻ phát triển mạnh mẽ về các
kiểu loại, các thao tác và thiết lập mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng
thông tin giữa xa và gần, giữa mới và cũ. Đặc biệt tư duy của trẻ có bước ngoặt
10



cơ bản, đó là chuyển từ bình diện bên ngồi vào bình diện bên trong. Thực chất
đó là q trình chuyển những hành động định hướng bên ngoài thành những
hành động định hướng bên trong theo cơ chế nhập tâm.
Đến cuối tuổi mẫu giáo lớn, ở trẻ bắt đầu xuất hiện mầm mống tư duy
lơgic. Bởi vậy trong q trình hướng dẫn trẻ tìm hiểu TPVH, câu hỏi của cơ
khơng chỉ dừng lại ở mức độ tái hiện, tái tạo mà cần phải có những câu hỏi
mang tính khái qt, giúp trẻ biết suy luận, tổng hợp. Việc tổ chức các hoạt động
làm quen TPVH chính là con đường thuận lợi để kích thích phát triển tư duy cho
trẻ, đặc biệt là tư duy lôgic.
1.1.2.3 Ngôn ngữ
Trẻ 5 - 6 tuổi rất nhạy cảm với sự hình thành ngơn ngữ chúng biết mở
rộng câu theo hướng số từ trong câu tăng lên và số câu trong khi diễn đạt giảm
đi.
Sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự phát triển tư duy. Tư duy mạch lạc
tạo ra khả năng ngôn ngữ mạch lạc, cùng với sự hoàn thiện về mặt phát âm đã
giúp trẻ thể hiện lại TPVH bằng ngôn ngữ của mình một cách rõ ràng, chính xác
và biểu cảm. Với đặc điểm ấy, thông qua đọc và kể chuyện của cơ, trẻ hồn tồn
có thể tiếp thu rồi kể lại được truyện.Việc dạy trẻ kể lại truyện là một mục tiêu
mang tính phát triển của hoạt động đọc, kể chuyện cho trẻ nghe ở trường mầm
non.
1.1.2.4. Tưởng tượng
Tưởng tượng của trẻ 5 – 6 tuổi bắt đầu gần với tưởng tượng sáng tạo của
người lớn. Ở lứa tuổi này, khi tưởng tượng trẻ khơng phải xây dựng hình ảnh tái
tạo theo sự mô tả của người lớn mà hướng tới xây dựng dự định trước, sự sáng
tạo “cho mình”. Sự sáng tạo ở đây khơng phải do tham gia vào quá trình sản
xuất sản phẩm giá trị xã hội nhưng nó có ý nghĩa lớn đối với việc phát triển các
hành động tưởng tượng, chuẩn bị cho sự sáng tạo thực thụ trong tương lai.
Tưởng tượng tích cực của trẻ được nảy sinh và phát triển trong trò chơi. Khi trẻ
bắt đầu biết dùng vật thay thế trong trị chơi.

1.1.2.5. Xúc cảm, tình cảm
11


Nhờ tâm hồn nhạy cảm và cái nhìn hồn nhiên, thơ ngây, trẻ dễ dàng rung
động trước những sự vật hiện tượng rất đỗi đời thường. Chúng bước vào thế giới
ấy và tìm ra những mối liên hệ rất táo bạo, bất ngờ - Điều mà người lớn khó
nghĩ tới. Chính những hình tượng nghệ thuật gây xúc động đã đọng lại ấn tượng
sâu sắc, hình thành tình cảm một cách bền vững, giúp trẻ biết yêu ghét rõ ràng
và bước đầu biết đưa ra đánh giá của mình. Vì thế, chúng ta cần tăng cường hiểu
biết và làm sâu sắc những ấn tượng, tình cảm của trẻ về tác phẩm, làm cơ sở cho
sự hình thành những tình cảm đạo đức, thẩm mĩ ở trẻ.
1.1.2.6. Chú ý và ghi nhớ có chủ định
Trẻ mẫu giáo lớn đã có thể tập trung trong khoảng 30 - 50 phút nếu những
đối tượng đưa ra có tác dụng lơi cuốn và kích thích ở trẻ sự tị mị và thích thú.
Chính dựa váo đặc điểm này mà cô giáo khi đọc, kể tác phẩm nghệ thuật phải
nắm vững và sử dụng linh hoạt các thủ thuật để lôi cuốn, dẫn dắt nhằm tạo ra sự
phát triển chú ý có chủ định của trẻ.
1.2. Cơ sở ngôn ngữ
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm ngôn ngữ
Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì ngơn ngữ là phương tiện để
con người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất
của tư duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để
phát triển tâm lý, tư duy của con người và xã hội lồi người.
Ngơn ngữ được định nghĩa dưới 3 góc độ :
Dưới góc độ ngơn ngữ học: ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt có phạm
vi sử dụng vơ cùng to lớn và có những đặc trưng riêng. Ngôn ngữ là công cụ để
biểu hiện, để tích lũy và mở rộng các khái niệm tư duy, nhận thức và là phương
tiện để hình thành ý thức của con người. Cho nên ngôn ngữ phục vụ cho những

mục đích bình thường hằng ngày và cả những mục đích cao cả của cuộc sống
Dưới góc độ tâm lý học: ngơn ngữ là một q trình tâm lý. "Ngơn ngữ là
q trình con người sử dụng thực tiễn tiếng nói để giao tiếp với người khác

12


Trong quá trình giao tiếp con người biểu hiện ý nghĩ và cảm xúc nhờ tiế ng nói,
do đó hiểu nhau để cùng nhau tiến hành hoạt động".
Dưới góc độ sinh lý học: ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là sự hoạt
động đặc biệt của vỏ bán cầu đại não cho nên việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
phải liên quan mật thiết với việc phát triển, hồn thiện bán cầu đại não và hệ
thần kinh nói chung. Các nhà giải phẫu đã khẳng định: trong ba năm đầu là kết
thúc sự trưởng thành về mặt giải phẫu những vùng não chỉ huy ngơn ngữ. Vì thế
cần phải phát triển ngôn ngữ đúng lúc mới đạt kết quả tốt.
Tóm lại, nói một cách chung nhất ngơn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ
được con người lập nên do nhu cầu giao tiếp và nhận thức hiện thực
1.2.1.2. Khái niệm ngôn ngữ mạch lạc
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc là nhiệm vụ quan trọng nhất trong các
nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ em. Tuy nhiên, hiểu lời nói mạch lạc là gì
thì có nhiều ý kiến cịn chưa chính xác xuất hiện trong các nghiên cứu gần đây.
Khái niệm ngôn ngữ mạch lạc được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau
của nhiều nhà ngôn ngữ học, giáo dục học và tâm lý học
Theo D.B. Encơnhin "Lời nói mạch lạc như là sự bày tỏ bằng ngữ nghĩa
đầy đủ đảm bảo sự giao tiếp và hiểu biết lẫn nhau. Kết quả của sự phát triển lời
nói chung" [Trang 12, 8].
S.L.Rubinstein thì cho rằng tính mạch là “tính tương tự, tương xứng gần
giống nhau mà người nói hoặc viết cần phải dung đến nhằm làm cho người
nghe hoặc người đọc hiểu”. Ngôn ngữ mạch lạc là ngơn ngữ có thể hiểu hồn
tồn, hiểu một cách trọn vẹn trên cơ sở chính nội dung thể hiện của nó. Do vậy,

ơng cho rằng phát triển lời nói mạch lạc là phát triển tư duy, phát triển kỹ năng
thể hiện ý nghĩa.
Nhà sư phạm Nga, tiến sĩ ngôn ngữ hoc Xô- khin đã định nghĩa đơn giản
như sau: “Lời nói mạch lạc được hiểu là sự diễn đạt mở rộng một nội dung xác
định, được thực hiện một cách lơgic, tuần tự, chính xác, đúng ngữ pháp và có
tính biểu cảm”

13


Theo Nguyễn Xn Khoa thì tính mạch lạc trong lời nói của trẻ thể hiện
ở mối quan hệ chặt chẽ của sự liên kết nội dung và liên kết hình thức. Ơng cho
rằng: “…nắm vững lời nói mạch lạc khơng có được nếu khơng phát triển khả
năng tách biệt các yếu tố của nó như: câu, từ…”. Lời nói mạch lạc của trẻ được
xem như là một văn bản được tạo thành từ những câu có sợi dây liên hệ chặt chẽ
gọi là liên kết nội dung và liên kết hình thức.
Theo Hồng Thị Hoanh – Phạm Thị Việt – Nguyễn Kim Đức trong quyển
“Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi” quan niệm: ngôn ngữ
mạch lạc là ngơn ngữ trình bày có lơgic, có trình tự, chính xác, đúng ngữ pháp
và có hình ảnh”. Ngơn ngữ mạch lạc bao gồm ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ
đối thoại. Nó liên quan chặt chẽ với tư duy. Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ
là phát triển khả năng nghe, hiểu ngơn ngữ, khả năng trình bày có lơgic, trình tự,
chính xác, đúng ngữ pháp và có hình ảnh một nội dung nhất định.
Tóm lại, ngơn ngữ mạch lạc không phải được tạo nên bởi phép cộng đơn
thuần giữa các phát ngôn mà tồn tại bởi những sợi dây liên kết (liên kết nội dung
và liên kết hình thức) được thể hiện bởi tư duy lơgic về một chủ thể nhất định và
bởi các phương thức liên kết ngôn ngữ với nhau nhằm thực hiện chức năng giao
tiếp.
1.2.2. Vai trị của ngơn ngữ đối với sự phát triển của trẻ em
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp đặc trưng của con người. Ngôn ngữ

thường được dùng để chỉ một hệ thống kí hiệu ngữ âm có ý nghĩa chung đối với
cả một tập hợp người và có những qui tắc (Phát âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp) thống
nhất với nhau trong toàn bộ tập hợp người ấy. Hệ thống tín hiệu ấy được gọi là
tiếng nói hay ngơn ngữ. Ngôn ngữ là hiện tượng tồn tại khách quan trong đời
sống tinh thần của xã hội lồi người. Nó là phương tiện giao tiếp và là công cụ
của tư duy.
Đặc điểm nổi bật nhất của trẻ mẫu giáo lớn là sự phát triển ngôn ngữ
mạch lạc. Đây là dấu hiệu của sự phát triển tư duy, lời nói mạch lạc phản ánh
lôgic tư duy của trẻ, kĩ năng suy nghĩ về cái tiếp nhận được và phản ánh nó một
cách đúng đắn. Trước đây, trẻ sử dụng ngôn ngữ tình huống là chủ yếu, thay vào
14


đó, lứa tuổi này trẻ sử dụng ngơn ngữ ngữ cảnh, song song với loại ngôn ngữ
này ngôn ngữ giải thích, ngơn ngữ miêu tả cũng bắt đầu phát triển mạnh. Trẻ có
khả năng thể hiện suy nghĩ của mình một cách chặt chẽ, tuần tự, chính xác và có
hình ảnh có ảnh hưởng đến sự phát triển thẩm mĩ. Khi kể lại, khi sắp đặt những
câu chuyện của mình, trẻ cố gắng sử dụng những từ, câu có hình tượng học được
từ các tác phẩm nghệ thuật. kĩ năng kể lại chuyện một cách hào hứng và lôi cuốn
người nghe bằng sự diễn đạt của mình giúp cho trẻ trở nên thích giao tiếp hơn,
tự tin hơn, khắc phục được tình trạng rụt rè. Phát triển lời nói mạch lạc không
tách rời việc giải quyết các nhiệm vụ của phát triển lời nói: làm giàu và tích cực
hóa vốn từ, hình thành cấu trúc ngữ pháp, giáo dục chuẩn mực âm thanh lời nói.
Như vậy có thể nói, ngơn ngữ mạch lạc là điều kiện, phương tiện quan
trọng để phát triển nhân cách trẻ nói chung và tư duy trẻ em nói riêng.
1.2.2.1. Ngơn ngữ là phương tiện của giao tiếp
V.I. Lênin đã nói rằng: “Ngơn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của con người”. định nghĩa này chỉ ra bản chất của ngôn ngữ là chức năng
làm cơng cụ giao tiếp, trong giao tiếp nhờ có ngơn ngữ mà con người có khả
năng hiểu biết lẫn nhau. Qua ngôn ngữ con người đã thiết lập được các mối quan

hệ giữa con người với con người trong xã hội. Ngơn ngữ của con người càng
phong phú thì việc hoà nhập với cuộc sống xã hội cũng như học hành, nghiên
cứu càng thuận lợi.
Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta dùng để thể hiện
thái độ, tình cảm, mối quan hệ và những tâm lý khác của mình trong một cuộc
giao tiếp.
Trong đó ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người, bằng
ngơn ngữ con người có thể truyền đi một loại thơng tin nào, như diễn tả tình
cảm, ám chi, miêu tả sự vật. Nó dựa vào các yếu tố sau:
Trong tất cả các phương tiện mà con người sử dụng để giao tiếp thì
ngơn ngữ là phương tiện duy nhất thoả mãn được tất cả các nhu cầu của con
người. Sở dĩ ngôn ngữ trở thành một công cụ giao tiếp vạn năng của con
người vì nó hành trình cùng con người, từ lúc con người xuất hiện cho đến
15


tận ngày nay. Phương tiện giao tiếp ấy được bổ sung và hồn thiện dần theo
lịch sử tiến hố của nhân loại, theo những trào lưu và xu hướng tiếp xúc văn
hố có từ cổ xưa đến tận ngày nay.
Ở trẻ nhỏ nhu cầu giao tiếp rất lớn. Trong giao tiếp, trẻ sử dụng ngơn
ngữ của mình để trình bày ý nghĩa, tình cảm, hiểu biết của mình với mọi
người xung quanh. Cho nên, việc tạo cho trẻ được nghe, hiểu và được nói là
hết sức cần thiết trong giáo dục ngơn ngữ, nhờ có ngơn ngữ trong giao tiếp ta
mời dễ dàng hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.
1.2.2.2. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy
Tư duy là một quá trình tâm lý của việc tìm kiếm và khám phá
những điều mới, quá trình phản ánh cụ thể và tổng hợp hiện thực khách quan.
Tư duy xuất hiện trên cơ sở hoạt động thực tiễn từ nhận cảm đến nhận thức. Tư
duy được xem như một hoạt động (hoạt động tâm lý) khi nói về tính tự giác, tính
gián tiếp của sự phản ánh hiện thực, biểu hiện ở động cơ hoạt động, các mục

đích nhất định của chủ thể và các hành động thao tác trí tuệ hợp lí dựa vào
những phương tiện nhất định. Chẳng hạn, ngôn ngữ là phương tiện của tư duy
lôgic, biểu tượng tri giác là phương tiện của tưởng tượng... Không thể bác bỏ
được bản chất hoạt động của tư duy vì nó ln ln được nảy sinh và được thúc
đẩy bởi động cơ chủ quan của chủ thể mang tâm lí người. Vì vậy mà tư duy là
hiện tượng tâm lí chỉ có ở con người. Tư duy của con người cịn mang bản chất
xã hội, tính sáng tạo và tính ngơn ngữ. Bản chất xã hội của tư duy được thể hiện
ở chỗ tư duy nảy sinh từ tính huống có vấn đề được đặt ra do u cầu của hoạt
động cụ thể, song nó lại bị quy định bởi những nhu cầu và nguyên nhân xã hội.
Trong quá trình tư duy, con người sử dụng phương tiện ngơn ngữ, để nhận thức
tình huống các vấn đề, để tiến hành các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, so
sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá để đi đến khái niệm, suy đoán, suy luận, rút
ra những quy luật của sự vật hiện tượng dưới hình thức ngơn ngữ - đó là sản
phẩm khái quát của tư duy. Có thể phân loại tư duy theo nhiều cách khác nhau.
Xét về phương diện chủng loại và cá thể, tư duy có thể chia thành 3 loại: tư duy

16


trực quan hành động, tư duy trực quan hình tượng, tư duy trừu tượng (tư duy
ngôn ngữ - lôgic), đây là loại tư duy đặc trưng chỉ có ở con người.
1.3. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi
Ngôn ngữ của trẻ ngày càng phát triển mạnh trong suốt lứa tuổi mẫu giáo:
Ngữ âm được hoàn thiện dần, vốn từ được mở rộng, trẻ sử dụng tương đối đúng
ngữ pháp tiếng mẹ đẻ. Sự phát triển ấy được thể hiện rõ qua các đặc điểm sau
đây:
1.3.1.Đặc điểm về phát âm
Trẻ 5 - 6 tuổi cơ quan phát âm đã phát triển và đang trong quá trình hồn
thiện. Trẻ sử dụng thành thạo ngơn ngữ nói. Tai nghe âm vị của trẻ phát triển
khá tinh nhạy. Trẻ đã có thể phát âm đúng tất cả các âm vị của Tiếng Việt kể cả

các âm đệm như: thoăn thoắt, thuyền buồm, quang qc...Tuy nhiên vẫn cịn có
lỗi ở các âm vị khó, ý nghĩa có phần xa lạ đối với trẻ như: khúc khuỷu, quyết,
nhuyễn,… Điều đó do nhiều nguyên nhân: do tai nghe của trẻ chưa hoàn thiện,
do bẩm sinh, yếu tố tâm lý, do ngôn ngữ của nhữ người xung quanh trẻ… Tuy
nhiên số trẻ mắc lỗi về phát âm đã ít hơn nhiều so với các lứa tuổi trước.
1.3.2. Đặc điểm về cấu trúc ngữ pháp
Ở lứa tuổi 5 - 6 tuổi câu nói của trẻ tương đối hoàn chỉnh, rõ ràng, đầy đủ
và thể hiện nội dung khá phong phú. Trẻ biết phát triển các thành phần trong
câu, thông thường trẻ sử dụng các dạng câu như: Câu đơn mở rộng, câu phức
đẳng lập, câu phức chính phụ, câu kể, câu cảm. Các loại câu không rõ thành
phần, câu đơn giảm đi và số câu ghép, câu phức hợp tăng dần lên. Ngoài ra, trẻ
cịn biết sử dụng liên từ nhờ vậy câu nói của trẻ trở nên rõ ràng, mạch lạc. Điều
đó nói nên ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi có sự phát triển đáng kể về chất.
Tuy vậy, vẫn cịn những hạn chế trong sự phát triển ngơn ngữ của trẻ, đó là các
dạng câu thiếu thành phần, sai trật tự từ, dài dịng khơng mạch lạc, khơng rõ ý
mà nguyên nhân chủ yếu do vốn từ còn nghèo hoặc chưa biết sử dụng các từ liên
kết, chưa phát triển đúng trình tự lơgic của sự việc.
Trong hoạt động lời nói đơi lúc có hiện tượng tư duy và ngơn ngữ chưa
phát triển đồng thời. Có trường hợp ngôn ngữ của trẻ chưa phát triển kịp với khả
17


năng nhận thức tư duy nên khi diễn đạt trẻ bị ngắc ngứ dẫn đến câu nói sai, thiếu
thành phần hoặc trẻ có khả năng sử dụng ngơn ngữ trình bày lưu loát nhưng tư
duy hạn chế nên diễn đạt nội dung không rõ ràng, thông tin nghèo nàn.
1.3.3.Đặc điểm phát triển ngôn ngữ mạch lạc
Ngôn ngữ mạch lạc thể hiện trình độ phát triển tương đối cao, khơng
những về phương diện ngôn ngữ mà cả về phương diện tư duy. Ở tuổi mẫu giáo,
trước đây trẻ sử dụng ngôn ngữ tình huống là chủ yếu. Dần dần cuộc sống địi
hỏi trẻ phải có một kiểu ngơn ngữ khác, ít phụ thuộc vào tình huống hơn, nhất là

trẻ cần phải mơ tả lại cho người khác những điều mà mình mắt thấy, tai nghe. Ở
đây trẻ phải nói năng sao cho người khác có thể hình dung ra được những điều
mình định mơ tả mà khơng phải dựa vào một tình huống cụ thể trước mắt. Kiểu
ngơn ngữ này là ngơn ngữ ngữ cảnh, mang tính chất rõ ràng. Tuy nhiên, khi nắm
vững ngôn ngữ ngữ cảnh rồi, trẻ mẫu giáo lớn vẫn sử dụng ngơn ngữ tình huống
với người xung quanh.
Ngơn ngữ mạch lạc có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với việc hình thành
mối liên hệ qua lại trong nhóm trẻ và với những người xung quanh, đặc biệt là
đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ. Muốn có ngơn ngữ mạch lạc thì những điều
trẻ định nói ra cần phải được trẻ suy nghĩ rõ ràng, rành mạch ngay từ trong đầu
tức là cần được tư duy hỗ trợ. Mặt khác chính ngơn ngữ mạch lạc là phương tiện
làm cho tư duy của trẻ phát triển đến một chất lượng mới. Đó là việc nảy sinh
các yếu tố của tư duy lơgic, nhờ đó mà toàn bộ sự phát triển của trẻ được nâng
lên một trình độ mới cao hơn. Như vậy, sự phát triển ngôn ngữ đồng thời với sự
phát triển nhận thức.
Như vậy, lời nói mạch lạc khơng tách rời thế giới tư duy. Sự mạch lạc của
lời nói chính là sự mạch lạc của tư duy. Lời nói mạch lạc phản ánh lôgic tư duy
của trẻ, kĩ năng suy nghĩ về cái tiếp nhận được và phản ánh nó một cách đúng
đắn. Theo mức độ trẻ nói ra suy nghĩ của mình có thể đánh giá được trình độ
phát triển ngơn ngữ của trẻ.
Ở mẫu giáo 5 – 6 tuổi, trẻ tích cực tham gia trò chuyện với người lớn, với
bạn hơn. Trẻ có thể đàm thoại về những gì đã biết hoặc đã được nghe. Trẻ có thể
18


suy đốn, tranh luận, đưa ra ý kiến của mình. Tư duy của trẻ phát triển hơn, trẻ
có thể nhận biết được những dấu hiệu, đặc điểm đặc trưng, có thể đưa ra những
phân tích đầy đủ về sự vật, hiện tượng. Bằng ngơn ngữ, trẻ có thể diễn đạt rõ
ràng, mạch lạc ý nghĩ, sự hiểu biết của mình. Trẻ biết xây dựng câu chuyện
tương đối liên tục rõ ràng, phong phú theo đề tài cho sẵn hoặc kể chuyện theo

tranh, đồ chơi, đồ vật.
Ở trẻ mẫu giáo lớn, ngơn ngữ mạch lạc đã đạt được trình độ khá cao. Để
trả lời câu hỏi, trẻ đã sử dụng các câu tương đối chính xác ngắn gọn và khi cần
thì mở rộng. Lúc này, trẻ đã phát triển kĩ năng nhận xét lời nói và câu trả lời của
các bạn, bổ sung hoặc sữa chữa các câu trả lời đó. Sang tuổi thứ 6, trẻ có thể đặt
các câu chuyện miêu tả hay theo một chủ đề nào đó cho trước một cách tương
đối tuần tự và rõ ràng nhưng vẫn cần đến mẫu lời nói của cơ giáo.
1.3.4. Vai trị của việc phát triển ngơn ngữ mạch lạc cho trẻ 5 - 6 tuổi
Trong chương trình chăm sóc giáo dục mầm non hiện nay, nhiệm vụ phát
triển ngôn ngữ cho trẻ bao gồm: dạy trẻ phát âm chuẩn, đúng chính âm; phát
triển vốn từ cho trẻ; dạy trẻ nói đúng ngữ pháp và phát triển ngôn ngữ mạch lạc
cho trẻ. Trong đó phát triển ngơn ngữ mạch lạc là nhiệm vụ vơ cùng quan trọng.
Trẻ em có thể giao tiếp bằng từ, bằng câu nhưng chỉ nhờ có ngơn ngữ mạch lạc
trẻ em mới có thể giao tiếp một cách có kết quả, có hiệu quả cao nhất. Ngơn ngữ
mạch lạc giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu giao tiếp với mọi người xung quanh, phát
triển tư duy, đặc biệt là tư duy lôgic, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tham gia vào
hoạt động vui chơi, học tập và chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông.
Phát triển ngôn ngữ nói chung và lời nói mạch lạc nói riêng là một trong
những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục mầm non. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
nhằm các mục tiêu sau đây:
Giúp trẻ mở rộng các mối quan hệ trong giao tiếp, phát triển tâm lý, tình
cảm, xúc cảm của trẻ. Trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi rất thích tham gia trị chuyện với
bạn bè và những người xung quanh. Để thoả mãn nhu cầu giáo tiếp, trao đổi,
hợp tác trẻ cần biết diễn đạt, trình bày ý nghĩ của mình một cách mạch lạc, rõ
ràng. Từ đó giúp trẻ mở rộng mối quan hệ trong nhóm trẻ và với người lớn, giúp
19


trẻ thêm mạnh dạn, tự tin và góp phần phát triển tình cảm, xúc cảm của trẻ
[Trang 28, 9].

Mục tiêu của phát triển ngơn ngữ mạch lạc cũng là góp phần giúp trẻ
khám phá, nhận thức thế giới xung quanh trẻ một cách chính xác và đầy đủ.
Trong q trình tiếp xúc với thế giới xung quanh, vốn sống của trẻ ngày càng
phong phú hơn, mở rộng hơn, do vậy nhu cầu khám phá nhận thức cũng phát
triển theo. Trẻ đã có thể nhận thức những dấu hiệu đặc trưng cùng các mối liên
hệ, quan hệ của sự vật, hiện tượng và để thoả mãn nhu cầu nhận thức, giao tiếp
đó địi hỏi trẻ phải có kỹ năng ngơn ngữ cao hơn mới có thể giúp người nghe
hiểu rõ hơn đó là kỹ năng nói mạch lạc. Như vậy, lời nói mạch lạc đã góp phần
giúp cho q trình nhận thức của trẻ trở lên phong phú, toàn diện và sâu sắc hơn.
Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc đồng thời cũng góp phần hình thành
những cơ sở ban đầu để phát triển tư duy trực quan hình tượng của trẻ. Tư duy
của trẻ ngày càng phát triển và phụ thuộc vào vốn sống, kiến thức, phạm vi giao
tiếp và khả năng ngôn ngữ của trẻ. Trẻ biết sử dụng ngơn ngữ lời nói mạch lạc
của mình để giải thích, mơ tả trình bày các mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật
của sự vật, hiện tượng... Như vậy, rõ ràng khi trẻ biết sử dụng lời nói mạch lạc
để diễn tả suy nghĩ của mình cũng chính là làm cho hoạt động nhận thức, quá
trình tư duy trở lên cụ thể hơn, rành mạch hơn, mang tính khái qt hơn. Lời nói
mạch lạc chính là phương tiện để phát triển, thúc đẩy hoạt động tư duy của trẻ
phát triển cao hơn.
Để có được lời nói mạch lạc, trẻ cần phát âm đúng, vốn từ phong phú,
nắm vững cấu trúc câu, khả năng diễn đạt rõ ràng, thể hiện ngữ điệu phù hợp nội
dung lời nói. Như vậy, nó góp phần nâng cao kỹ năng ngơn ngữ nói chung cho
trẻ. Việc phát triển lời nói mạch lạc giúp cho trẻ mạnh dạn hơn, tích cực hơn với
hoạt động ngơn ngữ. Mà tính tích cực của bản thân trẻ đối với hoạt động ngôn
ngữ là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ lĩnh hội kỹ năng ngôn ngữ
của trẻ.
Tóm lại, ngơn ngữ mạch lạc của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với việc thoả mãn nhu cầu giao tiếp, quan hệ với bạn bè, với
20



những người xung quanh và có ý nghĩa đặc biệt đối với sự nhận thức, phát triển
trí tuệ của trẻ, phát triển tư duy và kỹ năng ngơn ngữ nói chung... Đó cũng là
góp phần chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi bước sang môi trường mới trường phổ thông và tham gia hoạt động học tập được thuận lợi. Chính vì lẽ đó,
một trong những nhiệm vụ giáo dục trẻ mầm non là phát triển ngôn ngữ ngay từ
những năm đầu tiên của cuộc đời và đến cuối tuổi mẫu giáo (5 - 6 tuổi) để trẻ có
kỹ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp tương đối thành thạo. Trẻ có khả
năng hiểu ngơn ngữ của người lớn và biết nói năng mạch lạc, lưu lốt, diễn đạt ý
nghĩ của mình một cách rõ rang, khúc chiết....Trẻ biết sử dụng ngôn ngữ vào các
mục đích khác nhau như: nhận thức, giao tiếp, điều khiển, điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với chuẩn mực của tập thể, giao lưu tình cảm, tổ chức
hoạt động...
1.4. Hoạt động làm quen TPVH ở trường mầm non nhằm phát triển ngôn
ngữ mạch lạc cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
1.4.1. Khái niệm hoạt động làm quen TPVH
1.4.1.1. Khái niệm hoạt động
Các sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động, bằng vận động và thông qua
vận động mà chúng có thể tồn tại và thể hiện đặc tính của nó. Bởi vậy, vận động
là thuộc tính vốn có, là phương thức tồn tại của sự vật, hiện tượng. Cịn đối với
con người thì thuộc tính đó, phương thức đó chính là hoạt động.
Hoạt động được định nghĩa theo nhiều góc độ:
Dưới góc độ triết học, hoạt động là quan hệ biện chứng của chủ thể và
khách thể. Trong quan hệ đó, chủ thể là con người, khách thể là hiện thực khách
quan. Ở góc độ này, hoạt động được xem là q trình mà trong đó có sự chuyển
hóa lẫn nhau giữa hai cực “chủ thể - khách thể”
Dưới góc độ tâm lý học, hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và
bắp thịt của người khác vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu nảy
sinh ra trong cuộc sống của họ
Tóm lại, hoạt động là sự giao tiếp đa dạng giữa con người với thế giới
xung quanh gồm môi trường tự nhiên và mơi trường xã hội, là q trình con

21


người thực hiện các mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, với xã hội
và với chính bản thân.
1.4.1.2. Khái niệm TPVH
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn học do xuất phát từ những bình
diện khác nhau. Từ bình diện nhân văn, người ta định nghĩa “Văn học là nhân
học”. Từ bình diện triết học, ta có quan niệm “Văn học là một hình thái ý thức
xã hội”. Từ bình diện xã hội học, thì “Văn học hình thức tồn tại những mối quan
hệ xã hội, thẩm mĩ của con người”… Bình diện ngơn ngữ học xem “Văn học là
sự phản ánh hiện thực cuộc sống bằng ngơn ngữ nghệ thuật”, “Một kiểu lời nói
nghệ thuật”, và là “nghệ thuật ngôn từ”.
Như vậy, TPVH là sự thống nhất nội dung và hình thức, là một cấu trúc
hồn chỉnh của ngơn ngữ, là một cấu trúc hồn chỉnh của ngơn ngữ mang nội
dung thơng tin rõ rệt. Ngồi ra, TPVH cịn là một phát ngơn của nghệ sĩ về cuộc
sống của con người được xây dựng trong cấu trúc nghệ thuật hồn chỉnh (tức là
ngơn ngữ được vận dụng với chức năng thẩm mĩ, có khả năng xây dựng nên
hình tượng và mang tính biểu cảm)
Tác phẩm văn học là cơng trình nghệ thuật ngơn từ do một cá nhân hoặc
một tập thể sáng tác nhằm thể hiện những khái quát về cuộc sống, con người,
biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ… của chủ thể trước thực tại bằng hình tượng
nghệ thuật.
Tác phẩm văn học có thể tồn tại dưới nhiều hình thức truyền miệng (văn
học dân gian) hay dưới hình thức văn bản nghệ thuật được giữ gìn qua văn tự
(văn học viết, văn học bác học), có thể được viết bằng vần hay văn xuôi.
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới từ lâu đã có một bộ phận
sáng tác văn học dành cho trẻ em. Văn học trẻ em là những tác phẩm viết cho trẻ
em, có nội dung và hình thức phù hợp với trẻ. Những TPVH này có thể do
người lớn viết hoặc do trẻ em viết, có vai trị to lớn trong việc giáo dục tồn diện

về đạo đức, trí tuệ, tình cảm, thẩm mĩ cho trẻ em.
1.4.1.3. Khái niệm hoạt động làm quen TPVH

22


Cho trẻ làm quen TPVH là một quá trình sư phạm, dươi sự hoạt động của
giáo viên bước đầu nhằm giúp trẻ có những hiểu biết nhất định về văn học nghệ
thuật. Qua đó góp phần giáo dục tình cảm đạo đức, phát triển những cảm xúc
thẩm mỹ và đặc biệt là phát triển ngơn ngữ.
Hay nói cách khác làm quen TPVH là thông qua việc kể chuyện, đọc thơ
cho trẻ nghe và dạy trẻ học thuộc lòng thơ, kể lại chuyện dưới nhiều hình thức
khác nhau giúp trẻ cảm thụ văn học, yêu thích văn học và nâng cao nhận thức
của trẻ về thế giới xung quanh. Đồng thời cịn giúp trẻ có tâm hồn trong sáng,
hồn nhiên vui tươi, nhạy cảm với cái đẹp, nói năng mạch lạc…góp phần vào
việc hình thành nhân cách trẻ.
Với đối tượng là trẻ em mầm non (0 – 6 tuổi), cho trẻ làm quen với văn học
là giúp trẻ cảm nhận sự độc đáo của phong cách nghệ thuật và vẻ đẹp riêng của
nội dung hình thức văn chương. Trong mỗi TPVH, thế giới mới của cuộc sống
thực tại bao gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diễn tả, biểu đạt, truyền
đạt trong những hình thức đa dạng, độc đáo. Văn học nói về thế giới lồi vật, cỏ
cây, hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ mà trẻ nhìn thấy được, cũng nói
về những gì gần gũi trong mơi trường sống của trẻ như làng quê, cánh đồng,
dòng song, phiên chợ, lớp học, khu phố… Qua TPVH, trẻ bắt đầu nhận ra trong
xã hội các mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn, tình cơ cháu,… Trẻ
cũng dần nhận ra có một xã hội ràng buộc con người với nhau trong lịch sử đấu
tranh cách mạng, trong tình làng nghĩa xóm. Văn học có thể đề cập đến những
lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt, cô tiên, phù thủy, quỷ sứ và cả
những phép màu còn tồn đọng trong tâm thức dân tộc. Đây cũng là đối tượng
miêu tả của văn học làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần.

Nhờ được nghe, tiếp xúc với một số lượng văn học đáng kể, trẻ sẽ nhận dạng
được văn học, có những hiểu biết sơ đẳng về văn học – đó là khả năng mô tả
cuộc sống xung quanh phong phú, hấp dẫn bằng những dạng thức khác nhau.
Bước đầu trẻ sẽ nhận biết được sự khác nhau về nội dung và hình thức giữa các
thể loại thơ, truyện.

23


Trẻ mầm non chưa thể tự đọc được mà chỉ nghe người lớn đọc, kể, có thể
nói trẻ tiếp nhận TPVH bằng con đường gián tiếp nên người lớn phải tăng cường
sức nghe cho trẻ, giúp trẻ nghe được tối đa về nhạc cảm và sự đa thanh, nghe
được hết những cung bậc âm thanh và nhịp điệu khác nhau của cuộc sống, nghe
ra những âm thanh mới lạ huyền diệu của thiên nhiên như tiếng chim hót: “mỗi
khi sơn ca hót, cỏ cây hoa lá rì rào hịa theo” (Giọng hót chim sơn ca), nghe ra
những âm sắc biểu cảm, những rung cảm của trái tim cùng nhịp điệu hài hòa
giữa vũ trụ và con người. Ngay từ khi còn trong bào thai, ở tháng thứ sáu, con
người đã sống trong nhịp điệu, lời ru, tiếng hát, vũ điệu, âm nhạc, những mối
dây lien hệ tưởng như vơ hình giữa con người và trái đất.
Sức mạnh của TPVH vô cùng to lớn. Trong quá trình cho trẻ làm quen
TPVH, bằng tài năng sư phạm cùng với nghệ thuật đọc và kể chuyện văn học,
cô giáo ở trường Mầm non sẽ hướng trẻ vào những vẻ đẹp nội dung và nghệ
thuật tác phẩm, gây ấn tượng đầu tiên cho trẻ về hình tượng nghệ thuật được xây
dựng bằng ngơn ngữ dân tộc. Cô giáo khơi gợi ở trẻ hứng thú bước vào hoạt
động văn học nghệ thuật một cách tự nhiên, sáng tạo.
1.4.2. Ý nghĩa của việc tổ chức hoạt động làm quen TPVH cho trẻ ở
trường mầm non
Văn học có vai trị to lớn khơng thể thiếu được trong lĩnh vực hình thành
nhân cách cho trẻ, trẻ ở lứa tuổi này chưa biết đọc, việc tiếp xúc với văn học
buộc phải thông qua người lớn xung quanh, việc cho trẻ làm quen TPVH nhằm

nâng cao nhận thức, thẩm mĩ giáo dục cho trẻ. Đặc biệt ở trẻ mầm non đang ở
thời kỳ học ăn, học nói nên việc cho trẻ làm quen với văn học có ý nghĩa lớn lao
ở phương diện phát triển lời nói cho trẻ, rèn luyện kĩ năng đọc, kể chuyện cho
trẻ.
Từ lâu, người ta đã nhận thấy văn học là nguồn suối không cạn của tri
thức, là kinh nghiệm sống mà con người cần tiếp thu và phát triển. Người ta
cũng thấy rõ vị trí sức mạnh riêng của TPVH trong sự nghiệp giáo dục nói
chung và giáo dục trẻ em nói riêng. Nó trở thành nội dung và phương tiện hữu
hiệu để giáo dục trẻ. Nhà nghiên cứu và phê bình văn học Nga lỗi lạc
24


V.G.Bielinxki đã từng nói: “Một tác phẩm viết cho thiếu nhi là để giáo dục mà
giáo dục là một sự nghiệp vĩ đại vì nó quết định số phận con người”
(V.G.Bielixin toàn tập, tập IV, Matxcơva, NXB Viện hàn lâm khoa học Liên
Xô, 1954, trang 79).
Tổ chức hoạt động làm quen TPVH là một nội dung của chương trình cho
trẻ làm quen với văn học ở trường mầm non có một ý nghĩa sư phạm to lớn đối
với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ, đặc biệt là phát triển ngơn ngữ.
1.4.2.1. Hoạt động làm quen TPVH góp phần mở rộng nhận thức, phát
triển trí tuệ cho trẻ
Trẻ em luôn khao khát nhận thức thế giới xung quanh, các em muốn biết
tất cả, muốn thâu tóm tất cả lí do tồn tại của cuộc sống vào khối óc bé nhỏ của
mình. Thế giới xuất hiện trước mắt trẻ với tồn bộ sự phong phú, phức tạp của
nó. Trong điều kiện đó, những câu ca dao, bài thơ, truyện kể là những bài học
đầu tiên giúp các em nhận thức thế giới, định hướng cơ bản trong môi trường
xung quanh, giúp các em chính xác hóa những biểu tượng đã có về thực tế xã
hội, dần dần từng bước cung cấp cho các em những khái niệm mới và mở rộng
kinh nghiệm sống. Theo H.Read, một đại diện lớn của nền giáo dục Anh nhận
định rằng: Mục đích của giáo dục thơng qua tác phẩm nghệ thuật chính là khả

năng nhận thức các mối liên hệ trong thế giới. Đọc “Chú đỗ con” của Viết Linh,
trẻ sẽ nhận thấy được quá trình nảy mầm của hạt thành cây dưới mưa xuân và
ánh nắng mặt trời, đọc bài thơ “Hoa kết trái” sẽ giúp cho trẻ nhận biết được màu
sắc của nhiều lồi hoa
Hoa cà tim tím
Hoa mướp vàng vàng
Hoa lựu chói chang
Đỏ như đốm lửa…
Văn học là một phương tiện hữu hiệu giúp trẻ mở rộng và nâng cao nhận
thức về thế giới xung quanh, những bài thơ, những câu chuyện đã giúp các em
mở rộng tầm nhìn và sự hiểu biết về thế giới tự nhiên, thế giới loài vật, thế giới
động, thế giới đồ vật…, giúp trẻ biết được tên gọi, những đặc tính, những quan
25


×