1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
“NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TẬP LUYỆN MÔN VÕ VOVINAM
VÀ CÁC NHÂN VẬT, SỰ KIỆN TIÊU BIỂU CỦA VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG”
Giảng viên hướng dẫn : ThS.Phạm Thị Nghi
Sinh viên thực hiện
: Phạm Hữu Thật
Lớp
: 08 STQ
Chuyên ngành
: Giáo dục Thể chất – Quốc phòng
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2012
2
LỜI CẢM ƠN
Em xin được tỏ lịng cảm ơn cơ giáo Thạc sĩ Phạm Thị Nghi, giảng viên
Trung tâm Giáo dục Thể chất – Đại học Đà Nẵng đã tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo em trong suốt quá trình nghiên cứu và hồn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô của Trung tâm giáo dục thể chất
– Đại học Đà Nẵng, ban chủ nhiệm khoa Giáo dục chính trị - Trường Đại học
Sư Phạm – Đại học Đà Nẵng, các Võ sư - Huấn luyện viên của Hội Vovinam
– Việt võ đạo Đà Nẵng.
Xin cảm ơn tập thể lớp 08STQ, các môn sinh Vovinam – Việt võ đạo
thành phố Đà Nẵng và toàn thể các bạn học sinh – sinh viên đã nhiệt tình
tham gia trả lời phỏng vấn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Đà nẵng, ngày 10 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Phạm Hữu Thật
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- TDTT
: Thể dục thể thao
- TDTTQC
: Thể dục thể thao quần chúng
- TTQC
: Thể thao quần chúng
- GDTC
: Giáo dục thể chất
- VĐV
: Vận động viên
- VVN – VVĐ
: Vovinam – Việt võ đạo
- VVN
: Vovinam
- HLV
: Huấn luyện viên
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
TÊN BẢNG
TT
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Bảng 5
Bảng 6
Bảng 7
TỔ CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA HỘI VOVINAM –
VIỆT VÕ ĐẠO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA HỘI VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
CÁC THÀNH VIÊN ĐANG NẮM CÁC CHỨC VỤ TRONG
HỘI VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO ĐÀ NẴNG
THỐNG KÊ VÕ SƯ, VÕ SƯ TRỢ HUẤN, HUẤN LUYỆN
VIÊN
KẾT QUẢ MÔN SINH ĐÁNH GIÁ PHẨM CHẤT – TRÌNH
ĐỘ VÕ SƯ, HUẤN LUYỆN VIÊN
SỐ LƯỢNG CÂU LẠC BỘ, MÔN SINH, DỤNG CỤ,
ĐIỀU KIỆN SÂN BÃI
ĐÁNH GIÁ CỦA MÔN SINH VỀ SÂN BÃI, DỤNG CỤ
TẬP LUYỆN
TRANG
35
36
37
41
43
45
46
NHU CẦU TẬP LUYỆN VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO
Bảng 8 CỦA HỌC SINH – SINH VIÊN VÀ THANH THIẾU NIÊN
48
ĐÀ NẴNG
Bảng 9
CHƯƠNG TRÌNH HUẤN LUYỆN VOVINAM VIỆT VÕ
ĐẠO
51
ĐÁNH GIÁ CỦA MƠN SINH VỀ CHƯƠNG TRÌNH
Bảng10
GIẢNG DẠY VÀ NHU CẦU HỨNG THÚ, KẾT QUẢ TẬP
LUYỆN MÔN VOVINAM – VIỆT VÕ ĐẠO CỦA MÔN
SINH VOVINAM ĐÀ NẴNG
57
5
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............. 13
1.1. Vai trò - Chức năng của Thể dục thể thao trong xã hội. .......................... 13
1.2. Một số quan điểm cơ bản của Đảng về công tác Thể dục thể thao. ........ 14
1.3. Vị trí vai trị của thể thao Đà Nẵng trong sự nghiệp TDTT Việt Nam. ... 15
1.4. Sơ lược lịch sử phát triển Môn Phái Vovinam – Việt võ đạo. ................ 16
1.4.1. Chân dung cố Võ sư sáng tổ và bước khởi nghiệp(1938 - 1960). ........ 16
1.4.2. VoViNam – Việt Võ Đạo giai đoạn tạm lắng (1960 - 1963)................ 20
1.4.3. VoViNam – Việt Võ Đạo giai đoạn khôi phục và phát triển(1964 1975)................................................................................................................ 21
1.4.4. VoViNam – Việt Võ Đạo giai đoạn hàm dưỡng (1975 - 1990). .......... 23
1.4.5. VoViNam – Việt Võ Đạo giai đoạn vươn lên tầm cao mới (1991 –
8/2008) ............................................................................................................ 25
1.5. Đặc trưng kỹ thuật của môn phái Vovinam - Việt Võ Đạo. .................... 30
1.5.1. Tính thực dụng. ..................................................................................... 30
1.5.2. Tính liên hồn. ...................................................................................... 31
1.5.3. Ngun lý Cương - Nhu phối triển. ...................................................... 31
1.5.4. Vận dụng các nguyên lý khoa học. ....................................................... 32
1.5.5. Nguyên tắc một phát triển thành ba. ..................................................... 32
1.6. Tinh thần Võ Đạo và Tinh thần Việt Võ Đạo. ......................................... 33
1.6.1. Tinh thần Võ Đạo. ................................................................................. 33
1.6.2. Tinh thần Việt Võ Đạo. ......................................................................... 35
1.7. Sơ lược lịch sử Vovinam – Việt võ đạo Đà Nẵng (1971 - 1991). ........... 36
CHƯƠNG II: MỤC ĐÍCH - NHIỆM VỤ - PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC
NGHIÊN CỨU ............................................................................................... 39
2.1. Mục đích nghiên cứu. .............................................................................. 39
2.2. Giả thiết khoa học của đề tài. ................................................................... 39
6
2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu. .............................................................................. 39
2.4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 40
2.4.1. Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu. ............................. 40
2.4.2. Phương pháp phỏng vấn, tọa đàm. ....................................................... 40
2.4.3. Phương pháp điều tra xã hội học........................................................... 40
2.4.4. Phương pháp toán học thống kê. ........................................................... 40
2.5. Tổ chức nghiên cứu. ................................................................................. 40
2.5.1.Thời gian nghiên cứu của đề tài. Từ 10/2011 – 5/2012. Chia thành 3 giai
đoạn. ................................................................................................................ 40
2.5.2. Đối tượng nghiên cứu............................................................................ 41
2.5.3. Địa điểm nghiên cứu. ............................................................................ 41
2.5.4. Trang thiết bị nghiên cứu. ..................................................................... 41
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................. 42
3.1. Nghiên cứu thực trạng tập luyện môn võ Vovinam tại thành phố Đà
Nẵng. ............................................................................................................... 42
3.1.1. Thực trạng về cơ cấu tổ chức quản lý và điều hành của Vovinam – Việt
võ đạo Đà Nẵng. .............................................................................................. 42
3.1.2. Thực trạng về đội ngũ Võ sư, huấn luyện viên của Vovinam – Việt võ
đạo Đà Nẵng. ................................................................................................... 45
3.1.3. Thực trạng về số lượng câu lạc bộ - Môn sinh, chất lượng và cơ sở vật
chất của các câu lạc bộ tại Đà Nẵng................................................................ 51
3.1.4. Thực trạng về chương trình giảng dạy, nhu cầu hứng thú, kết quả tập
luyện môn Vovinam – Việt võ đạo tại Đà Nẵng. ............................................ 57
3.2. Nghiên cứu các nhân vật và sự kiện tiêu biểu của môn phái Vovinam tại
thành phố Đà Nẵng.......................................................................................... 68
3.2.1. Các nhân vật tiêu biểu của môn phái Vovinam tại thành phố Đà Nẵng.
......................................................................................................................... 68
3.2.1.1. Võ sư Lâm Quang Long. .................................................................... 68
7
3.2.1.2. Võ sư Hoàng Ngọc Hùng. .................................................................. 72
3.2.1.3. Võ sư Trần Quốc Dũng. ..................................................................... 74
3.2.2. Các sự kiện tiêu biểu của môn phái Vovinam tại thành phố Đà Nẵng. 76
3.2.2.1. Thành lập Hội Vovinam – Việt võ đạo Đà Nẵng và Câu lạc bộ ngoại
khóa Vovinam – Việt võ đạo Đà Nẵng . ......................................................... 76
3.2.2.2. Kỉ niệm 40 năm thành lập Vovinam Đà Nẵng và lễ giỗ một năm ngày
mất cố Võ sư Chưởng Môn Lê Sáng............................................................... 78
3.2.2.3. Giải thi đấu Vovinam thành phố lần 3 - Kỳ thi thăng đẳng Vovinam –
Việt võ đạo Trung đẳng miền Trung tại Đà Nẵng lần 1. ................................ 80
3.2.2.4. Vovinam – Việt Võ Đạo được đưa vào dạy chính khóa trong học
đường............................................................................................................... 83
3.3. Một số giải pháp nhằm phát triển phong trào Vovinam thành phố Đà
Nẵng: ............................................................................................................... 88
KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 92
8
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thể dục thể thao là một bộ phận của nền văn hóa xã hội, gắn liền với con
người, cùng với sự phát triển của loài người, thể dục thể thao không ngừng
lớn mạnh và đã trở thành một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ, văn
minh của nhân loại, ngay thời xa xưa thể dục thể thao đã được sử dụng để
hoàn thiện con người, tăng cường sức khỏe, cũng như rèn luyện khả năng lao
động. Ngày nay Thể dục Thể thao là một bộ phận khơng thể thiếu trong nền
văn hóa của mỗi dân tộc. Trình độ Thể dục Thể thao là một trong những nhân
tố đánh giá trình độ văn hóa, sự phát triển của một quốc gia và là phương tiện
để giao lưu quan hệ quốc tế.
Trải qua thời gian, Thể dục Thể thao ngày nay phản ánh một cách tích
cực tính xã hội đa dạng của nó. Điều đó đã được thể hiện trong sự nhận thức
của xã hội về Thể dục Thể thao. Chính vì vậy phong trào thể dục thể thao ở
các quốc gia trên thế giới đang được phát triển mạnh thể hiện rõ ở số lượng và
chất lượng các môn thể thao.
Ở Việt Nam, trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước với ý chí
kiên cường và bất khuất, “thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương
đất Bắc” (Trần Bình Trọng), trong kháng chiến chống thực dân Pháp Bác Hồ
kêu gọi toàn quốc kháng chiến“thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước,
không chịu làm nơ lệ” (Hồ Chí Minh). Lời kêu gọi của Bác đã thôi thúc tất cả
các tầng lớp trong toàn dân vùng dậy giành độc lập. Trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc thì “Dân có cường, nước mới mạnh”. Sớm nhận thấy
được những giá trị, tầm quan trọng mà thể dục thể thao mang lại. Ngày 27
tháng 3 năm 1946 Hồ Chủ Tịch viết thư kêu gọi tồn dân tập thể dục. Bác nói
:“Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới việc gì cũng cần có
sức khỏe mới thành cơng. Mỗi người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu
ớt, mỗi người dân khỏe mạnh tức là làm cho cả nước khỏe mạnh” . Vì thế, từ
9
xa xưa ông cha ta rất coi trọng việc rèn luyện thân thể cường tráng, khỏe
mạnh để phục vụ lao động cũng như chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Hình ảnh thân thương trìu mến của Bác Hồ cùng các chiến sĩ cách mạng
chơi thể thao, tập luyện võ thuật đã đi sâu vào tâm hồn người Việt Nam với
tinh thần rèn luyện thể chất, cải thiện giống nòi, cao hơn nữa là lòng yêu nước
và tinh thần tự lực, tự cường. Nối tiếp quan điểm đó của Bác, trong những
năm gần đây dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nền thể dục thể thao
nước nhà có những chuyển biến tích cực cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Hiện nay thể thao trong nước đang phát triển rất mạnh cả về chất lượng
và số lượng các môn thể thao. Trong đó có cả hệ thống các mơn võ. Bởi lẽ,
dân tộc Việt Nam ta từ ngàn xưa vốn có tinh thần thượng võ. Ngày nay tinh
thần đó vẫn khơng hề suy giảm. Đó là những giải thi đấu võ thuật trong nước
diễn ra sôi nổi, với sự phát triển cả về chiều rộng, chiều sâu và sự có mặt của
nhiều vận động viên võ thuật Việt Nam trong các đấu trường khu vực cũng
như quốc tế.
Việt Nam được hình thành bởi 54 dân tộc anh em, đó là một dân tộc Việt
Nam anh hùng, bất khuất. Cũng như sự hình thành dân tộc Việt Nam,
10
Vovinam – Việt Võ Đạo cùng với các môn phái võ Tân Khánh Bà Trà, Bình
Định Sa Long Cương, Bình Định Gia, Tây Sơn Võ Trận, Bắc Việt Võ, Tiên
Long Quyền Đạo, Thất Sơn quyền, Nhất Nam…tạo nên “Võ cổ truyền Việt
Nam” mang đậm chất văn hóa, tinh hoa và tinh thần Việt Nam. Vì vậy, khi
nói đến sự phát triển võ thuật trong nước thì khơng thể khơng nói đến sự phát
triển mạnh mẽ của môn võ Vovinam – Việt Võ Đạo, đây là một môn trong số
các môn phái võ cổ truyền của dân tộc. Hiện nay Vovinam đã được coi như là
Quốc võ của Việt Nam. Vovinam – Việt Võ Đạo là môn võ được cố võ sư
Nguyễn Lộc sáng tạo vào năm 1938, trên cơ sở lấy các mơn võ và vật dân tộc
làm nịng cốt, đồng thời nghiên cứu tinh hoa các môn phái khác trên thế giới
để dung nạp, thái dụng và hóa giải theo nguyên lý “cương nhu phối triển”,
theo hướng phù hợp với người Việt Nam. Ngoài ra Vovinam - Việt Võ Đạo
cịn có hệ thống lý thuyết võ đạo nhằm giáo dục tinh thần thượng võ, tôn sư
trọng đạo, nề nếp tác phong, nhân cách của người học theo hướng “chân,
thiện, mỹ”.
Tuy mới ra đời cách đây hơn 70 năm,
Vovinam còn non trẻ so với các môn võ cổ
truyền khác của dân tộc. Xong trong các
môn võ cổ truyền của Việt Nam, Vovinam
được phát triển quy mô và rộng lớn nhất với
nhiều môn sinh ở hầu khắp các tỉnh thành
trên cả nước và trên 43 quốc gia và vùng
lãnh thổ trên thế giới. Vovinam đã thành lập
được liên đoàn Vovinam Việt Nam (VVF),
liên đoàn Vovinam Châu Á (AVF), liên
đoàn Vovinam châu Âu (EVVF), liên đoàn
Vovinam thế giới (WVVF), liên đoàn
Cố võ sư sáng tổ Nguyễn Lộc
(1912-1960)
- Tổ sư môn Vovinam –
Vovinam châu Phi (FAV), liên đồn Vovinam Đơng Nam Á (SEAVF). Cùng
Việt võ đạo
11
với đó là sự có mặt của Vovinam trong Asian Indoor games lần thứ 3 năm
2009 và trong SEAGAMES 26 đã diễn ra tại Indonexia.
Cùng với sự lớn mạnh của Vovinam trong nước là sự phát triển không
ngừng của Vovinam thành phố Đà Nẵng. Vovinam được võ sư Trần Tấn Vũ
(tên thật là Trần Vui) đưa đến Đà Nẵng vào năm 1971. Sau năm 1975, đất
nước thống nhất, nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của chính quyền địa phương, bằng
sự chung sức của tất cả các võ sư, huấn luyện viên và mơn sinh với ý chí kiên
cường vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trong suốt thời gian qua mà phong
trào Vovinam thành phố không ngừng lớn mạnh với nhiều sự kiện diễn ra.
Ngày nay, hiểu được lợi ích của Vovinam – Việt võ đạo. Đảng và Nhà
nước đã chủ trương tìm cách từng bước đưa Vovinam vào nhà trường từ bậc
Tiểu học đến Đại học để Học sinh – Sinh viên rèn luyện thể chất, đạo đức tác
phong, góp phần định hướng cho giới trẻ lối sống lành mạnh. Đồng thời mang
lại cho học sinh sự tự tin, tự hào dân tộc và nêu cao tinh thần yêu nước.
Ngày 21 tháng 7 năm 2010, Bộ giáo dục đã ký và ban hành quyết định số
4267/BGDĐT-CTHSSV về việc “phát triển phong trào tập luyện môn
Vovinam – Việt võ đạo trong nhà trường”. [9]
Theo điều 41 Hiến pháp năm 1992 nhấn mạnh: “Nhà nước và xã hội
phát triển nền thể dục, thể thao dân tộc, khoa học và nhân dân”. Sớm nhận
thấy được những giá trị, tầm quan trọng mà Vovinam mang lại Đảng và Nhà
nước đã ban hành các quyết định thúc đẩy phong trào phất triển. [10]
Ngày 3/12/2010 Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành quyết định
2198/QĐ - TTg năm 2010 phê duyệt chiến lược phát triển thể dục - thể thao
Việt Nam đến năm 2020 và tại mục II, điều 4a về nhiệm vụ phát triển thể thao
thành tích cao và thể thao chun nghiệp, mơn Vovinam được xếp vào danh
sách các môn thể thao trọng điểm loại 2 cần được ưu tiên phát triển. [11]
Nhưng hiện nay sự lớn mạnh của Vovinam trong nước nói chung,
Vovinam Đà Nẵng nói riêng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
12
Trong xu thế Vovinam đang phát triển mạnh mẽ vào trường học. Mặc dù
hiện nay các phương tiện thông tin phát triển mạnh. Nhưng những thông tin
về thực trạng phát triển phong trào Vovinam – Việt võ đạo, về hoạt động của
các nhân vật và các sự kiện tiêu biểu của Vovinam tại Đà Nẵng vẫn chưa thật
sự đáp ứng được lòng mong mỏi của bạn bè hâm mộ, đặc biệt của các thế hệ
Học sinh – Sinh viên và cũng chưa có nhà nghiên cứu nào nghiên cứu vấn đề
này. Dựa vào những kiến thức đã học, những thông tin thu thập được và sự
giúp đỡ của các thầy cô. Chúng tôi quyết định đi đến đề tài:
“NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TẬP LUYỆN MÔN VÕ VOVINAM
VÀ CÁC NHÂN VẬT, SỰ KIỆN TIÊU BIỂU CỦA VOVINAM - VIỆT VÕ
ĐẠO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG”
13
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Vai trò - Chức năng của Thể dục thể thao trong xã hội.
Vai trò của Thể dục thể thao trong xã hội:
- Giáo dục thể chất (TDTT trường học): GDTC ở nước ta thường được
gọi là TDTT trường học, nó là một bộ phận cấu thành nên TDTT và cũng là
một bộ phận để cấu thành nền giáo dục ở trường học, đồng thời nó cũng là
nền tảng của thể dục thể thao toàn dân. TDTT trường học trở thành một giao
điểm giữa sự kết hợp giáo dục và thể dục thể thao, là một trong những trọng
điểm của sự phát triển TDTT.
- Thể thao quần chúng (thể thao cho mọi người): TDTT quần chúng bao
gồm nhiều loại hình như thể dục thể thao giải trí, thẩm mĩ, thể dục thể hình,
dưỡng sinh, TDTT trị liệu… Đối tượng của TDTT quần chúng là nhân dân
trong đó bao gồm có nam, nữ, già, trẻ, những người thương tật. Lĩnh vực hoạt
động của TTQC cũng rất rộng lớn từ gia đình cho đến xã hội. Nội dung, hình
thức hoạt động của nó cũng rất đa dạng, phong phú. Số lượng người tham gia
cũng rất đơng. Sự phát triển có tính chất rộng rãi và mức độ hóa TDTTQC
được quyết định bởi sự phồn vinh về kinh tế, mức độ phát triển mặt bằng
chung về cuộc sống và sự ổn định trính trị của một đất nước.
- TDTT thành tích cao (Thể thao thành tích cao): Thể thao thành tích cao
được sinh ra trong thực tiễn của TDTT. TDTT thành tích cao là : Trên cơ sở
phát triển toàn diện các tố chất cơ thể, có được thể lực, trí lực và tài năng vận
động ở mức độ giới hạn lớn nhất với mục tiêu là giành được thành tích cao
nhất mà tiến hành các hoạt động huấn luyện khoa học và thi đấu. Nó vừa theo
đuổi mục tiêu: “Cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn”, vừa là đề xướng các nguyên
tắc “Thi đấu công bằng”, “Tham gia thi đấu giành thắng lợi là quan trọng”.
Chức năng của Thể dục thể thao trong xã hội:
- Chức năng rèn luyện sức khỏe
- Chức năng giáo dục
14
- Chức năng giải trí
- Chức năng quân sự
- Chức năng kinh tế
- Chức năng chính trị [4]
1.2. Một số quan điểm cơ bản của Đảng về công tác Thể dục thể thao.
- Phát triển TDTT là một yêu cầu khách quan, một mặt quan trọng của
chính sách xã hội, một biện pháp tích cực để giữ gìn và nâng cao sức khoẻ,
làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, góp phần mở rộng
giao lưu quốc tế, phục vụ tích cực các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh và
quốc phòng của đất nước.
- Phát triển TDTT phải đảm bảo tính dân tộc, tính khoa học và nhân dân:
+ Đảm bảo tính khoa học địi hỏi phải:
Kế thừa có chọn lọc các tri thức về TDTT của nhân loại. Kết hợp những
thành tựu hiện đại với truyền thống của dân tộc.
Bảo đảm mọi nội dung, biện pháp tổ chức quản lý và phương pháp tập
luyện TDTT của quần chúng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu
phát triển của đất nước trong từng thời kỳ. Công tác huấn luyện, đào tạo VĐV
phải phù hợp với các quy luật về sinh lý, tâm lý và xã hội của con người.
+ Đảm bảo tính nhân dân cần chú ý:
Phát triển TDTT rộng khắp trong mọi tầng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi,
mọi đối tượng, mọi địa bàn dân cư. Làm cho việc rèn luyện thân thể trở thành
nhu cầu, thói quen hàng ngày của đông đảo nhân dân.
Làm cho mọi người dân đều có cơ hội tham gia tập luyện và hưởng thụ
những giá trị nhân văn của TDTT đồng thời phát huy vai trò chủ động và sáng
tạo của cá nhân trong việc tham gia tổ chức, điều hành các hoạt động TDTT
cũng như góp phần phát triển sự nghịêp TDTT của nước ta.
15
- Kết hợp phát triển phong trào TDTT quần chúng với xây dựng lực lượng
vận động viên, nâng cao thành tích các mơn thể thao là phương châm quan
trọng đảm bảo cho TDTT phát triển nhanh và đúng hướng.
- Thực hiện xã hội hoá tổ chức, quản lý TDTT, kết hợp chặt chẽ sự quản lý
của nhà nước, của các tổ chức xã hội.
- Kết hợp phát triển TDTT trong nước với mở rộng các quan hệ quốc tế về
TDTT
Ngày 21 tháng 7 năm 2010, Bộ giáo dục đã ký và ban hành quyết định số
4267/BGDĐT-CTHSSV về việc “phát triển phong trào tập luyện môn
Vovinam – Việt võ đạo trong nhà trường”. [9]
Theo điều 41 Hiến pháp năm 1992 nhấn mạnh: “Nhà nước và xã hội
phát triển nền thể dục, thể thao dân tộc, khoa học và nhân dân”. Sớm nhận
thấy được những giá trị, tầm quan trọng mà Vovinam mang lại Đảng và Nhà
nước đã ban hành các quyết định thúc đẩy phong trào phất triển. [10]
Ngày 3/12/2010 Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành quyết định
2198/QĐ - TTg năm 2010 phê duyệt chiến lược phát triển thể dục - thể thao
Việt Nam đến năm 2020 và tại mục II, điều 4a về nhiệm vụ phát triển thể thao
thành tích cao và thể thao chun nghiệp, mơn Vovinam được xếp vào danh
sách các môn thể thao trọng điểm loại 2 cần được ưu tiên phát triển. [11]
1.3. Vị trí vai trị của thể thao Đà Nẵng trong sự nghiệp TDTT Việt Nam.
Là một bộ phận cấu thành của thể thao Việt Nam. Cải thiện sức khỏe, đời
sống tinh thần cho người dân thành phố Đà nẵng. Đào tạo nhân tài, tạo nguồn
vận động viên thi đấu đỉnh cao.
Thực tế cho thấy, tại Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ 6, với 57 huy
chương vàng, 47 huy chương bạc và 52 huy chương đồng, đứng ở vị trí thứ tư
chung cuộc, Thể thao Đà Nẵng đã có một bước tiến vượt bậc. Đặc biệt, Đà
Nẵng đã có sự phát triển mạnh mẽ về các môn thể thao trong hệ thống
Olympic như Điền kinh (hạng nhất toàn đoàn), Bơi lội (hạng nhì), Lặn (hạng
16
tư), Canoeing (hạng ba) Rowing (hạng tư)...Đồng thời trong SEA Games 26,
chỉ tham dự với 17 VĐV nhưng thể thao Đà Nẵng có đến 15 VĐV đoạt huy
chương, trong đó có 6 huy chương vàng quý giá. TDTT thành phố Đà Nẵng
đã đóng góp rất nhiều cho TDTT Việt Nam. [Báo công an Đà Nẵng, chủ nhật
ngày 5/1/2012]
1.4. Sơ lược lịch sử phát triển Môn Phái Vovinam – Việt võ đạo.
Môn phái Vovinam-Việt võ đạo (VVN-VVĐ) do cố võ sư Nguyễn Lộc
sáng lập tại Hà Nội vào năm 1938 trên cơ sở lấy võ và vật dân tộc làm nòng
cốt, đồng thời nghiên cứu tinh hoa các võ phái khác trên thế giới để dung nạp,
thái dụng và hóa giải; nhất là cải tiến nền tảng kỹ thuật của mình theo nguyên
lý Cương Nhu phối triển. Sau khi võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc quá vãng, võ sư
Chưởng môn Lê Sáng và các môn đệ kế nghiệp tổ chức lại bộ máy, từng bước
hệ thống, bổ sung lý thuyết võ đạo, bài bản, địn thế… chung tay góp sức đưa
mơn phái phát triển ở hầu khắp các tỉnh thành trong cả nước ( trong đó có
thành phố Đà Nẵng) và khắp thế giới như ngày nay…[5;Tr 4]
1.4.1. Chân dung cố Võ sư sáng tổ và bước khởi nghiệp(1938 - 1960).
Tỉnh Sơn Tây (nay thuộc thủ đô Hà Nội) được cấu tạo bởi phù sa 3 dịng
sơng lớn: Sơng Nhị (Hồng Hà), sông Đà (Hắc Giang) và sông Lô; 2 nhánh
sông nhỏ - sơng Con (Tích Giang) bắt nguồn từ Ba Vì chảy quanh vùng và
sơng Đáy (Hát Giang) chạy ven địa giới phía Đơng của tỉnh đã góp phần tạo
cho Sơn Tây thành một vùng đất phì nhiêu, màu mỡ. Bên cạnh đó, Sơn Tây
cịn có ngọn Ba Vì hùng vĩ. Gần Ba Vì là hệ thống núi lửa Đa Chông trùng
điệp và một dãy núi đá vôi lớn ở phủ Quốc Oai (nhiều lần là thủ đô của Việt
Nam thời phong kiến, lúc còn mang danh Phong Châu) chiếm cứ một dãy đất
rộng lớn từ bờ sông Đáy đến sông Đà. Tuy thuộc vùng châu thổ tiếp giáp với
đồi núi nhưng khí hậu của Sơn Tây lại gần giống với các tỉnh vùng cao, nên
người dân vừa có tinh thần khống đạt của người miền núi, vừa có nếp sống
văn minh của cư dân các tỉnh đồng bằng. Địa linh này đã sản sinh nhiều nhân
17
kiệt như Nguyễn Tuấn (Sơn Tinh), Bố Cái Đại Vương, Trưng Vương, Ngô
Quyền, Từ Đạo Hạnh, Vũ Công Duệ, Phùng Khắc Khoan, Tản Đà Nguyễn
Khắc Hiếu... Và tại làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, ngày mồng tám, tháng
tư, năm Nhâm Tý (24/5/1912), ơng Nguyễn Lộc đã cất tiếng khóc chào đời.
Ơng là trưởng nam trong một gia đình có 5 anh, chị, em (Nguyễn Thị
Thái, Nguyễn Dần, Nguyễn Ngọ và Nguyễn Thị Sinh). Thân sinh - cụ ơng
Nguyễn Đình Xuyến và thân mẫu - cụ bà Nguyễn Thị Hòa. Gia tộc cụ ông
từng sinh sống, lâu đời tại làng Hữu Bằng. Một thời gian sau, vì sinh kế, cụ
ơng chuyển gia đình đến ngụ trong một ngơi nhà bình dị ở đường Harmand
Rousseau (phía sau chợ Hơm - Hà Nội). Khi người con trai đầu lòng cắp sách
đến trường, cụ ông đã nhờ một vị lão võ sư khai tâm cho con mình những thế
võ và vật dân tộc để rèn luyện sức khỏe và phịng thân.
Ơng Nguyễn Lộc trưởng thành trong thảm cảnh quê hương Việt Nam bị
thực dân Pháp đô hộ hơn nửa thế kỷ. Thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ đang
bị chi phối bởi 2 khuynh hướng: “một bên là hy sinh dấn thân vào con đường
cách mạng cứu nước; cịn một bên là bng mình theo lớp vỏ văn minh hào
nhoáng của phương Tây mà những thú vui sa đọa, những phong trào thể thao
của lớp thượng lưu trưởng giả được thực dân Pháp khuyến khích để ru ngủ
các tầng lớp thanh niên”. Là thanh niên, ơng rất đau lịng trước thực trạng q
hương. Tất nhiên, ơng khơng bằng lịng và lên án gắt gao dã tâm của bọn thực
dân thống trị và tay sai. Theo ông, một trong những yếu tố đưa cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc đến thành cơng là cần xây dựng cho thanh niên lòng
yêu nước sâu sắc, tinh thần tự hào dân tộc, ý thức cách mạng, ý chí quật
cường và nghị lực quả cảm; tất cả những điều đó phải được chứa đựng trong
một thân thể khỏe mạnh, đanh thép, sức lực dẻo dai, chịu đựng được mọi gian
khổ, có khả năng tự vệ và chiến đấu. Vì thế, ơng có ước vọng góp phần nung
đúc và cống hiến cho tổ quốc những người con yêu có đạo đức, ý chí quyết
thắng, đủ năng lực và sức khỏe để vượt thắng sự hèn yếu, bạc nhược về tâm
18
hồn và thể xác hầu vươn đến một lối sống tốt đẹp hơn: “Sống, giúp người
khác sống và sống vì người khác”.
Mang hoài bão ấy, ngoài việc tu dưỡng đạo đức, trau dồi học vấn, ơng
cịn dành thời gian sưu tầm, nghiên cứu nhiều môn võ khác. Ngày đêm ông
thường bầu bạn với nhiều loại sách báo khác nhau từ Triết học, Văn học, Sử
học... đến cả Y học, Cơ thể học. Tất cả những ý tưởng quan trọng về võ học
và những vấn đề liên quan đều được ông ký chú, phân loại cụ thể. Khu vực bờ
đê sông Hồng từ bến Phà Đen đến Viện Bác cổ, nhà Hát Lớn đều có dấu chân
ơng chạy nhảy, đi quyền, múa côn... từ lúc mặt trời chưa tỉnh giấc. Bên cạnh
đó, ơng cịn đến tham quan các võ đường, dự khán những trận tỉ thí võ đài
hoặc mạn đàm cùng một số võ sư thời danh hầu tìm hiểu thêm các địn thế
hay, đẹp, hiệu quả của các mơn võ Trung Quốc, Nhật, Xiêm (Thái Lan),
Quyền Anh... Qua đó, ơng nhận thấy mơn nào cũng có ưu điểm. Có mơn thiên
về cương, kỹ thuật cứng và mạnh; có mơn thiên về nhu, kỹ thuật linh hoạt,
khéo léo, uyển chuyển, ít dùng sức. Riêng các môn võ Việt Nam rất độc đáo,
khơng theo cương hay nhu nhất định mà biến hóa, linh động tùy theo thể tạng
mỗi người, mỗi địa phương. Do sáng tạo từ lâu đời, võ Việt Nam cũng có một
số kỹ thuật khơng cịn phù hợp với thời đại mới nhưng ông cũng nhận thấy
rằng các kỹ thuật đó vẫn phát triển được những tố chất của cơ thể như thăng
bằng, chính xác, khéo léo... mà con người ở thời đại nào cũng cần. Vấn đề cốt
lỏi là thông qua những bài bản xưa, đào sâu tinh nghĩa, tìm ra phương pháp
huấn luyện mới, đáp ứng được tính khoa học, hiện đại, phù hợp với nếp nghĩ
và sinh hoạt văn hóa thời đại mới mà vẫn giữ được tính dân tộc. Từ việc nhận
ra thực chất của những kỹ thuật, bài võ đi đến việc nhận rõ giá trị đặc thù của
từng môn võ, đồng thời đối chiếu với đặc điểm tâm lý và thể tạng của người
Việt Nam; ông nhận thấy cần phải xây dựng một môn võ mang tính dân tộc,
khoa học và hiện đại để giúp thanh niên có một phương pháp rèn luyện sức
19
khỏe mang danh dân tộc vì trong mọi cuộc chiến đấu, vấn đề tinh thần và
danh dự là 2 yếu tố quan trọng góp phần quyết định sự thành bại.
Với các luận cứ đó, ơng Nguyễn Lộc đã lấy mơn vật và võ dân tộc Việt
Nam làm nền tảng, khai thác mọi tinh hoa võ thuật đã có trên thế giới để sáng
tạo thành môn phái riêng đặt tên là Vovinam (VVN). Khoảng mùa thu năm
1938, khi cơng trình nghiên cứu hồn thành, ơng huấn luyện thực nghiệm cho
một số thân hữu cùng lứa tuổi. Trong thời gian này, VVN lại được ông tiếp
tục sửa chữa, bổ sung về lý luận lẫn kỹ thuật. Ngót một năm sau, ơng đem lớp
môn sinh đầu tiên ra mắt quần chúng tại nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc biểu diễn
thu hút đông đảo người xem và thành công rực rỡ. Để thuận lợi trong việc
truyền bá và phát triển “người con tinh thần” của mình, ơng nhận lời mời của
bác sĩ Đặng Vũ Hỷ - Hội trưởng Hội Thân hữu Thể thao - tổ chức các lớp
dạy VVN dành cho thanh niên. Lớp võ công khai đầu tiên khai giảng vào mùa
xuân năm 1940 tại trường Sư phạm Hà Nội. Sau đó, nhiều lớp võ liên tục
được mở ra ở nhiều nơi . Trong khoảng gần 15 năm (1940 - 1954), VVN đã
được quảng bá rộng rãi ở Hà Nội và lan dần sang các tỉnh Sơn Tây, Nam
Định, Thanh Hóa... Theo võ sư Chưởng môn Lê Sáng, vào thời kỳ này, tuy
chương trình huấn luyện có phân thành 3 cấp: Sơ đẳng, trung đẳng và cao
đẳng nhưng không mấy ai học quá 3 năm vì thời cuộc, vì nhu cầu ứng phó cấp
thiết, vì đơi lúc thực dân Pháp cấm cản, trừ đội ngũ cốt cán tập luyện bí mật.
Các lớp võ công khai thường chỉ kéo dài 3 tháng gồm: Bài tập thể dục (10
động tác), luyện tấn, mép tay, bắp tay rắn chắc; bay người, rạp xuống, trườn
bằng khuỷu tay và đầu gối; các lối nhào lộn, tập té ngã; các thế phản địn cơ
bản, các thế khóa gỡ; 4 bài song luyện; các thế tự vệ chống kiếm, gậy (cơn),
mã tấu; 21 địn chân khơng dạy riêng lẻ mà ghép trong các bài song luyện.
Khi luyện tập, biểu diễn, các mơn sinh mặc quần đùi, mình trần.
Năm 1945, ơng Nguyễn Lộc lập gia đình cùng cơ Nguyễn Thị Minh (con
của cụ ơng Nguyễn Ngọc Hốn và cụ bà Bùi Thị Ngọ) và có 9 người con (3
20
trai, 6 gái).Vóc dáng to khỏe (trên 90 kg) và tuy là một võ sư nổi tiếng nhưng
trong con người ông vẫn tuôn chảy một giòng máu nghệ sĩ. Bên bình trà nóng,
ơng mải mê đàm luận thơ văn, hội họa, nghệ thuật nhiếp ảnh... suốt buổi hoặc
trọn đêm với bạn bè, mơn đệ. Thân mật, hồ đồng, giản dị, ơng thích và cho
phép các mơn đệ gọi mình bằng hai tiếng “anh Lộc” thân tình; đây là điều
hiếm thấy trong giới võ lâm. Những học trị sống cạnh ơng đều hưởng những
tình cảm đơn hậu và sự chăm lo chu đáo. Tuy vậy, khi bắt tay vào công việc,
học tập, ông rất nghiêm túc, cẩn trọng, luôn đặt yêu cầu cao đối với bản thân
và cộng sự. Giao lưu rộng rãi, tính tình hào hiệp, con thiếu sữa vẫn mang gạo
tiền giúp đỡ bạn bè gặp cơn bĩ cực, vì thế ơng đã được mọi người chung
quanh q trọng.[5;Tr 1]
1.4.2. VoViNam – Việt Võ Đạo giai đoạn tạm lắng (1960 - 1963).
Năm 1954, ông Nguyễn Lộc và một số mơn đệ vào Sài Gịn. Sau khi ổn
định nơi cư trú, ông liền sắp xếp kế hoạch phổ biến VVN. Đầu tiên, ông tổ
chức cuộc biểu diễn VVN đầu tiên tại rạp Norodomme (nay là Công ty xổ số
kiến thiết, đường Lê Duẩn, TPHCM) rồi mở lớp võ tại đường Thủ Khoa Huân
(Avigateur Garros), Nguyễn Trãi (Frère Louis), Nguyễn Khắc Nhu, và cử
môn đệ huấn luyện ở Thủ Đức (tỉnh Gia Định)... Sau đó, một số lớp tập khác
cũng được mở ra ở đường Sư Vạn Hạnh (gần chùa Ấn Quang), đường Trần
Khánh Dư (Tân Định), đường Trần Hưng Đạo… Trong lúc công việc giới
thiệu VVN ở vùng đất mới bắt đầu và cịn đầy khó khăn, thật đáng tiếc thay,
ông Nguyễn Lộc lại sớm từ giã cõi đời vào ngày mồng bốn, tháng tư, năm
Canh Tý (29/4/1960) sau mấy năm bị trọng bệnh. Ông ra đi lưu lại biết bao
niềm thương tiếc cho gia đình và mơn đệ. Hiện di cốt ông được bảo quản tại
CLB Vovinam số 31 đường Sư Vạn Hạnh, Quận 10, TPHCM.
21
Cố võ sư Sáng tồ Nguyễn Lộc (đứng giữa, Sài Gịn – 1955)
Ngày 11/11/1960, nhân võ sư Phạm Lợi (mơn Judo) tham gia cuộc đảo
chính của nhóm Nguyễn Chánh Thi, chế độ Sài Gòn đã hạn chế các võ phái
hoạt động. Võ sư Lê Sáng phải tạm nghỉ dạy võ, lên Buôn Mê Thuộc và
Quảng Đức làm đồn điền. Tuy nhiên, một số lớp VVN vẫn tập luyện tại các
trường Hồ Vũ, Thăng Long, Saint Thomas... do võ sư Trần Huy Phong và vài
võ sư khác hướng dẫn…
Ba năm sau, ngày 01/11/1963, cuộc đảo chính do tướng Dương Văn
Minh cầm đầu đã hạ bệ Ngơ Đình Diệm. Các võ phái ở Sài Gịn được phép
hoạt động trở lại. Trước tình thế mới, võ sư Lê Sáng đã quay trở lại Sài Gòn,
tập hợp một số võ sư cốt cán và thân hữu cùng nhau đề ra kế hoạch khôi phục
VVN từ khoảng đầu năm 1964.[5;Tr9]
1.4.3. VoViNam – Việt Võ Đạo giai đoạn khôi phục và phát triển(1964 1975).
Võ đường đầu tiên mở đầu thời kỳ khôi phục và phát triển đặt tại số 61
đường Vĩnh Viễn (Quận 10, Sài Gòn). Lúc đó, võ sư Chưởng mơn Lê Sáng,
võ sư Trần Huy Phong (1938 - 1997), võ sư Nguyễn Văn Thư cùng đội ngũ
cốt cán đã họp để soạn thảo Quy lệ môn phái, vạch ra phương hướng củng cố
và phát triển môn phái. Dựa trên tư tưởng, kỹ thuật và bài bản của cố võ sư
Nguyễn Lộc truyền lại, võ sư Lê Sáng và một vài võ sư cao cấp đã bổ sung,
22
xác lập chương trình giảng huấn võ đạo, huấn luyện võ lực, và võ thuật rõ
ràng theo từng đẳng cấp: sơ đẳng (đai xanh, có 3 cấp), trung đẳng (vàng, 3
cấp), cao đẳng (đỏ, 7 cấp) và thượng đẳng (trắng, dành riêng cho võ sư
Chưởng môn). Chiếc áo thun ba lỗ (may-ô) và quần đùi mà võ sinh đã mặc
trong các thời kỳ trước được thay thế bằng bộ võ phục màu xanh da trời như
hiện nay. Hệ thống kỹ thuật cũng dần dần được bổ sung thêm các đòn thế, bài
bản mới như: 30 thế chiến lược, 28 thế vật căn bản và 3 bài Song đấu vật,
Song luyện dao găm, Thập tự quyền, Long hổ quyền, Xà quyền, Lão mai,
Ngọc trản, Hạc quyền, Việt võ đạo quyền, Tinh hoa lưỡng nghi kiếm pháp,
Tứ tượng côn pháp, Nhật nguyệt đại đao, Thái cực đơn đao, Bát quái song
đao, Mộc bản pháp, Thương lê pháp, Song đấu búa rìu, Song đấu mã tấu.
Bằng hoạt động năng nổ, sáng tạo của võ sư Chưởng môn Lê Sáng và
các môn đệ, VVN đã thu hút được sự chú ý của nhiều giới và các võ đường
khác dần dần xuất hiện như võ đường Trần Hưng Đạo, Hoa Lư... Năm 1966,
VVN được đưa vào trường học mà công đầu là của võ sư Phùng Mạnh Chữ tự
Mạnh Hoàng (1938 - 1967). Cũng từ năm này, danh xưng Vovinam bổ sung
thành Vovinam - Việt võ đạo để thanh, thiếu niên chú trọng đến tinh thần dân
tộc khi luyện võ hầu phấn đấu rèn luyện bản thân cả 3 phương diện: Tâm, Trí,
Thể, nhằm phục vụ cho dân tộc và nhân loại. Nhiều trường công lập và tư
thục lớn tại Sài Gòn lúc bấy giờ như Pétrus-Ký (nay là Lê Hồng Phong), Gia
Long (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), Chu Văn An, Lê Văn Duyệt (nay là
trường THPT Võ Thị Sáu), Trưng Vương, Cao Thắng, Hưng Đạo, Don
Bosco, Phan Sào Nam, Đức Trí, Taberd, Quốc Việt… đều có lớp tập chính
khóa hoặc ngoại khóa do các võ sư Lê Công Danh, Trần Văn Bé, Trần Văn
Trung, Nguyễn Văn Thơng… phụ trách góp phần tạo nên một phong trào rèn
luyện sức khỏe sôi nổi và rộng lớn. Công tác đào tạo đội ngũ cốt cán, nghiên
cứu, biên soạn hệ thống lý luận, kiến thức VVN-VVĐ cũng được quan tâm.
Nhiều sách, đặc san của môn phái do Ban nghiên cứu Việt võ đạo biên soạn
23
đã được xuất bản trong giai đoạn này như: Việt võ đạo nhập môn, Việt võ đạo
cương yếu, Tinh hoa Việt võ đạo...
Năm 1968, võ đường 61 Vĩnh Viễn dời đến số 31 Trần Hoàng Quân (nay
là 31 Sư Vạn Hạnh, Quận 10, TPHCM) và là trung tâm điều hành tất cả hoạt
động của môn phái. Sau mấy năm vượt qua thử thách và đạt nhiều thành quả
tốt đẹp, VVN được một số ban ngành mời giảng dạy. Được học tập các lớp
đặc huấn (đào tạo HLV) và qua rèn luyện trong thực tiễn, hàng loạt võ sư,
HLV được tung đi các tỉnh, thành phố ở miền Nam để xây dựng và phát triển
phong trào như: Trịnh Ngọc Minh (1939-1998) đến thành phố biển Nha
Trang, Trần Tấn Vũ (Phú Yên), Ngơ Kim Tuyền (Bình Dương), Nguyễn Văn
Chiếu (Quy Nhơn), Nguyễn Văn Nhàn, Nguyễn Văn Sen (Cần Thơ), Trần
Văn Mỹ (Hậu Nghĩa), Dương Minh Nhơn (Kiên Giang), Nguyễn Tôn Khoa
(An Giang), Nguyễn Văn Vang (Vĩnh Long), Nguyễn Văn Ít (Mỹ Tho)...
Hằng năm, vào dịp Lễ tưởng niệm cố võ sư Sáng tổ, các trưởng đơn vị đều
tập trung về Sài Gòn dự lễ, tập huấn, thi cử, tạo thành truyền thống tốt đẹp.
Võ sư Chưởng môn Lê Sáng và một số võ sư cao cấp cũng thường xuyên đi
thăm hỏi, chấm thi ở nhiều nơi để hỗ trợ, động viên phong trào. Bên cạnh
việc quãng bá võ thuật, VVN-VVĐ còn tham gia một số cơng tác xã hội… Có
thể nói, đây là giai đoạn môn phái trưởng thành về nhiều mặt, võ đường xuất
hiện ở hầu hết các tỉnh phía Nam; và theo chân các du học sinh như: Trần
Nguyên Đạo, Nguyễn Thị Huệ, Trần Đại Chiêu, Dương Quan Việt, Hà Chí
Thành...để xuất hiện ở Pháp, Ý, Đức, Thụy Sĩ... vào đầu thập niên 70. Người
có cơng dựng cột mốc đầu tiên để phát triển VVN-VVĐ ra quốc tế (1973) là
Giáo sư Tiến sĩ Phan Hoàng.[5;Tr 9]
1.4.4. VoViNam – Việt Võ Đạo giai đoạn hàm dưỡng (1975 - 1990).
Khoảng gần một năm sau ngày thống nhất đất nước, võ sư Nguyễn Văn
Chiếu đã tập hợp một số võ sư, HLV về Quận 8 – thành phố Hồ Chí Minh ơn
luyện. Sau đó, võ sư Trần Huy Phong cũng tham gia huấn luyện. Qua một
24
thời gian tập luyện, đội đi biểu diễn tại một số tụ điểm văn hóa ở Quận 8 và
vài nơi khác như Quận 3, huyện Bình Chánh.… Ngày 15/12/1978, được sự
chấp thuận của Sở Thể dục Thể thao (TDTT) thành phố Hồ Chí Minh và Ủy
ban nhân dân quận 8, lớp VVN-VVĐ chính thức khai giảng tại tụ điểm hồ bơi
Hịa Bình (đường Chánh Hưng - Quận 8) do võ sư Nguyễn Văn Chiếu hướng
dẫn, mở đầu q trình khơi phục phong trào trong thành phố. Từ thời điểm
này đến đầu những năm 80, các võ sư ở một số tỉnh, thành khác như: Nguyễn
Hữu Hạnh (Cần Thơ), Nguyễn Bá Thuận (Nha Trang), Đinh Văn Hịa (Bình
Định)... cũng xin phép ngành TDTT địa phương mở lớp huấn luyện. Tháng
6/1980, VVN-VVĐ tham dự đợt Hội thao võ thuật do Viện Khoa học Giáo
dục và Trường Cao đẳng Sư phạm TD trung ương 2 tổ chức tại TPHCM.
Năm 1985, VVN-VVĐ được mời huấn luyện cho Lớp Nghiên cứu võ thuật
phía Nam (khóa tập trung 4 tháng) của Cục Cảnh vệ (Bộ Nội vụ nay là Bộ
Công an). Một sự kiện đáng chú ý ở cuối thập niên 80 là Hội Việt võ đạo
TPHCM được thành lập (1989) vì có ảnh hưởng đến công tác chuyên môn,
nhân sự lẫn sự quan tâm của các tỉnh, thành khác đối với bộ môn. Trước sự
hồi phục phong trào ở nhiều nơi, VVN-VVĐ đã được Tổng cục TDTT đưa
vào chương trình Hội diễn kỹ thuật khu vực 3 (1990). Và đến tháng 9 năm
này, 4 võ sư Nguyễn Văn Chiếu, Nguyễn Anh Dũng, Lê Thanh Liêm, Tơ
Mạnh Hịa đã cùng một số võ sư trong Liên đoàn Võ thuật TPHCM đã sang
biểu diễn tại Belarussia và sau đó võ sư Nguyễn Anh Dũng (1953 - 2007) lưu
lại huấn luyện trong 1 năm. Khi võ sư Nguyễn Anh Dũng về nước, võ sư
Trương Quang An được cử sang thay thế...
Về kỹ thuật, thực hiện phương châm “một phát triển thành ba” nghĩa là
từ đòn căn bản (1) ghép lại thành bài đơn luyện (2) và bài song luyện (3)
nhằm giúp người tập dễ nhớ, dễ thuần thục nhờ thường xuyên ôn đi ôn lại, võ
sư Chưởng môn Lê Sáng và một số võ sư đã bổ sung vào hệ thống kỹ thuật,
chương trình huấn luyện một số bài quyền tay khơng và và binh khí như:
Nhập mơn quyền, Tứ trụ quyền, Ngũ môn quyền, Viên phương quyền, Thập
25
thế bát thức quyền, 4 bài Nhu khí cơng quyền (dưỡng sinh), 4 bài Liên hoàn
đối luyện (dành cho người cao tuổi), Song đấu côn, Song dao pháp, Việt điểu
kiếm pháp, Tiên long song gươm pháp, Mã tấu pháp, Âm dương hồ điệp
phiến… Sự bổ sung này đã giúp cho hệ thống bài bản, kỹ thuật của môn phái
đa dạng và phù hợp với nhiều đối tượng. Hệ thống đẳng cấp có thêm đai màu
đen (sau Lam đai III cấp) - chuyển tiếp giữa sơ đẳng và trung đẳng dùng để so
sánh với đai đẳng của các môn võ khác (Karatedo, Taekwondo, Judo,
Aikido). [5;Tr 11]
1.4.5. VoViNam – Việt Võ Đạo giai đoạn vươn lên tầm cao mới (1991 –
8/2008)
Nhằm tạo điều kiện cho VVN-VVĐ phát triển, ngành TDTT các địa
phương đã tiến hành giải thi đấu cấp tỉnh, thành. Bên cạnh đó, các võ sư Trần
Huy Phong, võ sư Nguyễn Văn Chiếu... cũng tích cực xây dựng luật thi đấu
đối kháng và hội diễn kỹ thuật theo hướng thể thao hóa VVN-VVĐ. Trên
những cơ sở vừa nêu, Tổng cục TDTT đã cho VVN-VVĐ tổ chức giải vơ
địch tồn quốc (VĐTQ) lần đầu tiên từ ngày 4 đến 6/12 /1992 tại TPHCM,
quy tụ 178 võ sĩ của nhiều tỉnh, thành, tranh tài 2 nội dung: hội thi kỹ thuật và
đấu đối kháng. Và ở giải VĐTQ lần thứ 2, các Võ sư, Huấn luyện viên VVNVVĐ đã được đón tiếp phu nhân cố võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc đến dự khán
đêm khai mạc…
Bà Nguyễn Thị Minh - phu nhân cố võ sư
Sáng tổ Nguyễn Lộc (Sài Gòn, 1993)