Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Đề tài nghiên cứu thực trạng ô nhiễm tài nguyên đất và các giải pháp khắc phục ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.74 KB, 15 trang )

Bài Luận
Đề Tài:
Thực trạng ô nghiễm tài nguyên đất
và các giải pháp khắc phục ở nước ta
hiện nay.
Mở đầu
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là
nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con
người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào
hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm
cho con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp
và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu
hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình quân đầu người.
Hiện nay, cùng với ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm đất đai
đang trở nên đáng báo động. Ô nhiễm đất làm ảnh hưởng xấu đến các tính chất của
đất, làm giảm năng suất cây trồng và làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con
người. Chính vì vậy, việc phòng chống ô nhiễm đất có một ý nghĩa hết sức quan
trọng trong quá trình phát triển của mỗi vùng, mỗi quốc gia.
Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất đáng lo
ngại và nghiêm trọng. Bởi vậy em lựa chọn đề tài: ” Thực trạng ô nghiễm tài
nguyên đất và các giải pháp khắc phục ở nước ta hiện nay.”
Nội dung
I. Thực trạng ô nhiễm môi trường đất ở nước ta hiện nay.
Ở Việt Nam hiện nay có 33 triệu ha diên tích đất tự nhiên, trong đó diện tích
đang sử dung là 22.226.830 ha, chiếm 68,83% tổng quỹ đất. Còn 10.667.577 ha đất
chưa sử dụng, chiếm 33,04% diện tích đất tự nhiên. Đất nông nghiệp ít, chỉ có
8,146 triệu ha, chiếm 26,1% diện tích đất tự nhiên.( Theo Tổng cục Địa chính,
1999).
Với đặc điểm đất đồi núi chiếm ¾ lãnh thổ lại nằm trong vùng nhiệt đới mưa
nhiều và tập trung, nhiệt đooj không khí cao, các quá trình khoáng hóa diễn ra rất


mạnh trong đất nên dễ bị rửa trôi, xói mòn, nghèo chất hữu cơ và các chất dinh
dưỡng dẫn đến thoái hóa đất. Đất đã bị thoái hóa rất khó có thể khôi phục lại trạng
thái màu mỡ ban đầu. Nguyên nhân của quá trình thoái hóa đất có thể là do:
- Quá trình rửa trôi, xói mòn đất : do lượng mưa lớn hàng năm lại tập trung trong 4-
5 tháng trong mùa mưa, đất đồi núi dốc. Quá trình này ngày càng một gia tăng do
các hoạt động của con người như: cháy rừng, đốt nương rẫy, canh tác không hợp lý
trên đất dốc.
- Quá trình hoang mạc hóa: là qus trình tự nhiên và xã hội phá vỡ cân bằng sinh thái
của đất, thảm thực vật, không khí, nước ở các vùng khô cạn và bán ẩm ướt… quá
trình này xảy ra liên tục , qua nhiều giai đoạn, dẫn đến giảm sút hoặc hủy hoại
hoàn toàn khả năng dinh dưỡng của đất trồng ( Theo đinh nghĩa của FAO)
Một mặt đất ngày càng bị cạn kiệt, nghèo nàn chất dinh dưỡng. Một mặt
khác môi trường đất cũng bị ô nghiễm ngày một nhiều do nhiều nguyên nhân khác
nhau.
1. Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất.
Ô nhiễm đất là quá trình làm biến đổi hoặc thải vào đất các chất ô nhiễm là
thay đổi tính chất và cấu trúc của nó theo chiều hướng không có lợi, mất khả năng
đáp ứng cho nhu cầu của con người.
a. Ô nhiễm đất do sử dụng không hợp lý phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật
trong nông nghiệp.
- Ô nhiễm do sử dụng phân hóa học: Sử dụng phân bón không đúng kỹ thuật trong
canh tác nông nghiệp nên hiệu lực phân bón thấp, có trên 50% lượng đạm, 50%
lượng kali và xấp xỉ 80% lượng lân dư thừa trực tiếp hay gián tiếp gây ô nhiễm
môi trường đất. Các loại phân vô cơ thuộc nhóm chua sinh lý như K2SO4, KCl,
super photphat còn tồn dư axit, đã làm chua đất, nghèo kệt các cation kiềm và xuất
hiện nhiều độc tố trong môi trường đất như ion Al3+, Fe3+, Mn2+ giảm hoạt tính
sinh học của đất và năng suất cây trồng.
- Ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật: Thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng
ở nước ta trong những năm qua thuộc 4 nhóm chính: clo hữu cơ, lân hữu cơ,
cacbamat và pyrethroid, trong đó thuốc nhóm lân hữu cơ trong những năm gần đây

chiếm 60%. Thuốc bảo vệ thực vật có đặc điểm rất độc đối với mọi sinh vật; tồn dư
lâu dài trong môi trường đất- nước; tác dụng gây độc không phân biệt, nghĩa là gây
chết tất cả những sinh vật có hại và có lợi trong môi trường đất. Theo các kết quả
nghiên cứu, hiện nay, mặc dù khối lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở
Việt nam còn ít, trung bình từ 0,5-1,0 kg ai/ha/năm, tuy nhiên, ở nhiều nơi đã phát
hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất. (Theo Báo cáo Hiện trạng môi
trường quốc gia 2010 )
b. Ô nhiễm do các chất thải ô nhiễm từ hoạt động công nghiệp và dân sinh.
- Kết quả của một số khảo sát cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong
đất gần các khu công nghiệp đã tăng lên trong những năm gần đây. Như tại cụm
công nghiệp Phước Long hàm lượng Cr cao gấp 15 lần so với tiêu chuẩn, Cd cao từ
1,5 đến 5 lần, As cao hơn tiêu chuẩn 1,3 lần. (Theo Báo cáo Hiện trạng môi trường
quốc gia 2005 ).
- Các chất thải của các nhà máy và hầm mỏ thường chứa một số kim loại
nặng hoặc một số chất độc dạng hữu cơ và dạng axit, dạng bazơ hoặc các muối
khác làm cho đất bị ô nhiễm ở các kiểu khác nhau. Vấn đề này rất phổ biến ở các
thành phố và khu công nghiệp lớn.
- Rác thải y tế cũng là mối hiểm họa lớn khi chưa được xử lý triệt để.
- Ô nhiễm kim loại ngày một tăng do chất thải của các khu công nghiệp
chưa được xử lý hoàn toàn; chất thải của một số làng nghề; phân bón hóa học qua
nhiều năm.
- Ở các vùng dân cư đông đúc như các thành phố lớn, có nhiều chất thải
sinh hoạt tập trung trong các cống rãnh hoặc các bãi rác chưa được xử lý, trong quá
trình phân giải xác hữu cơ có thể sinh ra một số chất làm ô nhiễm đất, nhất là khi
nông dân dùng nước bẩn đó để tưới hoặc dùng các loại phân hữu cơ chưa được xử
lý đầy đủ
- Các chất gây độc hại tích trữ ngày một tăng trong đất đặc biệt lá 4
nguyên tố: Đồng. Kẽm, Cadimi và Chì. Hàm lượng của một số kim loại nặng trong
đấy tuy chưa vượt quá ngưỡng quy chuẩn cho phép nhưng đã có dấu hiệu tăng
đáng kề qua các năm

c. Ô nhiễm đất cục bộ do các chất thải hóa học còn tồn lưu sau chiến tranh.
- Các chất phóng xạ tồn tại trong đất thường là K40, Ra87, C14. Hiện nay người ta
đã tìm thấy nhiều nguyên tố khác nhập vào đất nhưng trong đó chỉ có Sn90 và
Cs137 là hai chất phóng xạ bền vững ở trong đất, chu kỳ bán huỷ của chúng là 28
và 30 năm. Theo tài liệu của Mỹ thì trong đất Mỹ Sn90 và Cs137 có khoảng 150 và
240 milicuri trên 1 cây số vuông Anh. Hàm lượng K40 tự nhiên bình quân khoảng
20000 milicuri.
- Nói chung sự ô nhiễm của các chất đó đối với đất chưa nghiêm trọng nhưng nếu có
các chất phóng xạ do vũ khí nguyên tử phóng ra thì đất sẽ bị ô nhiễm nặng.
d. Ô nhiễm đất do một số khí thải.
- Thường gặp nhất là SO2 hoặc HF do các nhà máy thải ra. Chất thứ nhất sinh ra axit
H2SO4, chất thứ hai sinh ra axit HF. Chúng được nước mưa kéo xuống đất. Chất
đầu có thể cho một vùng đất bị chua, chất sau có thể làm cho hàm lượng flo hoà
tan trong đất tăng lên có hại cho sức khoẻ của người và gia súc.
2. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đất tới môi trường xung quanh và
đời sống con người.
Đất đóng vai trò quan trọng trong các con đường truyền dịch bệnh người –
đất – người – côn trùng – ký sinh trùng – người, vật nuôi, đất, người hoặc đất
người.Con đường từ người qua đất rồi trở lại về với người thông qua dòng nước
hoặc côn trùng là phổ biến đối với các bệnh đường ruột như tảli5 hoặc thương
hàn.Các vi trùng, trứng hoặc ấu trùng, ký sinh trùng (các loại giun sán) từ đất thâm
nhập qua cơ thể người. con đường từ vật nuôi như trâu bò, lợn gà qua đất và nước
trong đất từ đó vào người là phổ biến đối với các bệnh như bệnh xoắn trùng, da
vàng trực trùng.Tại các vùng rừng núi bệnh từ động vật hoang dã cũng theo con
đường này truyền vào người như bệnh sốt phát ban thường , sốt phát ban nhiệt
đới.Bệnh viêm da do giun móc di chuyển từ dưới đất lên xâm nhập cơ thể người do
da tiếp xúc với đất, hoặc phần thãi của động vật nuôi.
Con đường truyền bệnh trực tiếp vào đất vào người là phổ biến đối với các
bệnh nấm ở da, ăn sâu vào thịt hay lan toàn thân do xa khuẩn actinomycetes. Có
các loại nấm từ đất xâm nhập vào các vết thương trên cơ thể người như

blastomyces. Đất trồng trọt là nguồn chứa nấm độc fusarium penicilium.Các trực
trùng uốc ván clostridium lestri, trực trùng gây bệnh như độc tố clostridium
botudium tồn tại trong đất gây bệnh hiểm nghèo qua tiếp xúc của vết thương trên
cơ thể người với đất, hoặc từ đất vào người qua đường tiêu hóa.Đất cũng là nơi hấp
thụ các siêu vi khuẩn gây bệnh dường ruột và các loại siêu vi khuẩn mà chúng dễ
dàng xâm nhập vào cơ thể người.
Sự tích tụ cao các chất độc hại, các kim loại nặng trong đất sẽ làm tăng khả
năng hấp thụ các nguyên tố có hại trong cây trồng, vật nuôi và gián tiếp gây ảnh
hưởng xấu tới sức khỏe con người. Mức độ thâm nhập các kim loại nặng vào thực
vật thưởng tỷ lệ thuận với hàm lượng của chúng trong đất (thưởng là môi quan hệ
tuyến tính) thời gian sinh trưởng. Thông thường hàm lượng độc tố trong đất cao thì
mức độ tích lũy độc tố trong thực vật càng lớn (chẳng hạn khi hàm lượng các chất
độc trong đất tăng lên 100 lần thì hàm lượng của các chất này trong cây ngô cũng
tăng lên 36 lần. Mặt khác, hàm lượng của các kim loại trong lá, thân cây thường
lớn hơn trong hạt và củ nhưng mức độ tập trung của chúng trong cây lá và hạt xấp
xĩ như nhau và cũng tăng theo hàm lượng của các độc tố trong đất. Các chất độc từ
đất thâm nhập vào người, động vật gây nhiều biến đổi sinh hóa, sinh lý dẫn đến
bệnh tật tử vong.
Các chất độc từ đất có thể thâm nhập vào cơ thể người thông qua chuỗi thức
ăn (thực vật đến động vật và cuối cùng vào cơ thể người). Chất độc hại có thể lan
tỏa vào nước mặt và nước ngầm rồi theo nước vào cơ thể người và động vật. Cà
hai phương thức thâm nhập nói trên đặc trưng cho các độc tố tồn tại ở dạng linh
động là chủ yếu (dạng ion, dạng hấp thụ, dạng phức anion, các hợp chất hữu cơ,
phức cơ kim có thể tan trong dung dịch đất).
Ngoài ra, con người có thể hít thở không khí bị ô nhiễm bụi chứa chất độc
hại bay lên từ đất. Bằng con đường này các độc tố ở các dạng tồn tại khác nhau có
thể thâm nhập vào người và động vật. Cần nhấn mạnh mức độ thâm nhập độc tố
vào cơ thể người phụ thuộc nhiều hơn vào đặc tính sinh địa hóa, dạng tồn tại của
độc tố so với hàm lượng của chúng trong đất. Con người có thể nhiễm xạ nếu tiếp
xúc với đất chứa các chất phóng xạ trong thời gian đủ dài. Chẵng hạn đất ở khu

vực mỏ Urani Tiên An (Quảng Nam) bị nhiễm xạ với cường độ lớn hơn giới hạn
tối đa cho phép hàng trăm, có nơi đến hàng nghìn lần. Trong vùng này có nhiều
người bị quái thai, dị dạng tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao.
Do sử dụng nhiều hóa chất trong nông nghiệp, hiện nay tình hình ngộ độc
thực phẩm do các hóa chất độc, trong đó có thuốc bảo vệ thực vật vẫn diễn ra phức
tạp và có chiều hướng gia tăng. Theo thống kê của Cục an toàn vệ sinh thực phẩm
năm 2004 có 145 vụ ngộ độc ( trong đó thực phẩm độc chiếm 23%, hóa chất 13%)
với 3580 người mắc, có 41 người tử vong.( Theo Báo cáo Hiện trạng môi trường
quốc gia 2005).
Việc sử dụng phân bón hóa hoạc không cân đối, không đúng lúc cây cần
hàng năm một lượng lớn phân bón bị rửa trôi hoặc bay hơi đã làm xấu đi môt
tường sản xuất nông nghiệp và môi trường sống. Bên cạnh đó việc lạm dụng thuốc
bảo vệ thực vât trong phòng trừ dịch hại không tuân thủ các quy trình kỹ thuật,
không đảm bảo thời gian cách ly của từng loại thuốc dẫn đến hậu quả nhiều trường
hợp bị ngộ độc thực phẩm, đồng ruộng bị ô nhiễm và một số dư lượng thuốc vẫn
còn trong đất đã có thể vượt quá ngưỡng gía trị cho phép.
Ô nhiễm đất tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Đất chua, mặn, đất
bị ô nhiễm bụi than và xỉ than không thích hợp cho việc canh tác nông ngiệp vì độ
mùn thấp nghèo chất dinh dưỡng mà lại nhiều độc tố đối với cây trồng.Hệ quả tiếp
theo là thảm thực vật kém hoặc không phát triển, chất lượng cảnh quan, chất lượng
và giá trị của đất bị suy giảm.
Hơn nữa đất ô nhiễm cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước trầm
tích.Chất ô nhiễm trong đất đều được chuyển xuống và gây ô nhiễm vỏ phong hóa
hoặc trầm tích phía dưới.Bằng con đường rửa trôi, chất ô nhiễm trong đất đi vào
nước ngầm.
Mặc khác, đất là nơi hứng chịu và tích động các chất ô nhiễm từ không khí
và nước.Chẳng hạn, trong đất ở vùng Khe Sanh (Quảng Trị) , Đắc Tô (Komtum),
Năm Căn (Cà Mau) bị ô nhiễm bỏi chất độc màu da cam (đioxine) tích đọng lại từ
cuộc rải hóa chất độc bằng máy bay trong thời kỳ chiến tranh.
II. Các biện pháp phòng chống và khắc phục.

Muốn phòng chống ô nhiễm đất cần tiến hành các mặt sau:
1. Điều tra và phân tích đất
Triển khai điều tra và phân tích đất bị ô nhiễm. Ðịnh ra tiêu chuẩn đánh giá
ô nhiễm. Ðây là một trong những công tác cơ bản đánh giá đất, phòng ngừa phát
sinh và phát triển ô nhiễm đất. Ðiều tra ô nhiễm đất là tìm hiểu trạng thái ô nhiễm
và đánh giá mức độ ô nhiễm. Hiện nay người ta lấy "trị số cơ bản" làm tiêu chuẩn
đánh giá. Căn cứ vào hàm lượng bình quân của hợp chất hoặc nguyên tố độc hại
trong đất vượt quá "trị số cơ bản" để đánh giá.
Ðánh giá chất lượng đất là khâu quan trọng trong công tác bảo vệ môi
trường. Cần lấy mẫu đất định kỳ hoặc đặt máy đo tự động ở khu vực đại diện, phân
tích các tính chất lý, hoá và sinh học đất để theo dõi động thái biến đổi, quy luật ô
nhiễm, từ đó tính toán số lượng tồn lưu chất ô nhiễm trong đất, dự kiến được trạng
thái ô nhiễm và xu thế chuyển hoá của chúng và nêu ra biện pháp phòng tránh.
2. Loại bỏ nguồn gây ô nhiễm
Trong các xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ cần nghiên cứu công nghệ khép kín,
không sản xuất hoặc ít sản xuất chất độc. Những chất thải loại cần có cách xử lý
thu hồi. Hiện nay, ô nhiễm đất chủ yếu bắt nguồn từ các nhà máy và nước cống
thành phố, bởi vậy lúc tưới nước cho cây trồng cần phải cẩn thận. Trước lúc dùng,
cần phân tích thành phần độc hại và nồng độ của chúng, nếu không đạt được tiêu
chuẩn nước tưới thì phải tìm cách cải tạo hoặc tìm nguồn nước khác.
Cần chọn dùng loại nông dược có hiệu lực cao nhưng ít độc, ít tồn lưu trong
đất. Hiện nay còn phải tạm dùng một số nông dược tồn lưu nhiều như chế phẩm
kim loại nặng, cần được hạn chế phạm vi sử dụng, lượng dùng và số lần dùng. Một
hướng mới hạn chế dùng thuốc gây ô nhiễm là cần mở rộng phương pháp sinh vật
phòng trừ kết hợp với phương pháp khác (phòng trừ tổng hợp).
3. Làm sạch hóa ruộng đồng
Dùng vôi và muối phosphat kiềm để khử chua, chuyển phần lớn nguyên tố
kim loại nặng sang hợp chất khó tan từ đó làm giảm nồng độ của chúng trong dung
dịch.
Tiêu nước vùng trũng, điều tiết Eh đất làm cho một số nguyên tố kim loại

nặng chuyển sang dạng khó tan.
Luân canh lúa màu có thể xúc tiến phân huỷ DDT_ thuốc trừ sâu. Cải thiện
thành phần cơ giới đất, tăng cường bón phân hữu cơ.
Ðối với đất cát cần nâng cao tính đệm và khả năng hấp phụ để hút các cation
kim loại và nông dươc, áp dụng biện pháp tổng hợp nâng cao độ màu mỡ của đất,
tạo điều kiện cho vi sinh vật hoạt động phân huỷ các nông dược tồn lưu trong đất.
4. Ðổi đất, lật đất
Khi đất bị ô nhiễm nặng (như Cd) có thể áp dụng biện pháp đổi đất, lật đất.
Ưu điểm của cách này là cải tạo triệt để nhưng khó thực hiện trên diện tích rộng.
5. Thay cây trồng và lợi dụng hấp thu sinh vật
Nếu đất bị ô nhiễm nặng nên thay cây lương thực, cây ăn quả bằng
cây hoa, cây cảnh hoặc cây lấy gỗ. Nếu đất trồng cỏ chăn nuôi thì nên thu hoạch
vào thời gian hàm lượng chất độc thấp nhất.
Ngoài ra có thể trồng những cây không dùng để ăn mà có khả năng hút
mạnh các chất có chứa nguyên tố kim loại nặng. Ví dụ, nếu trồng lúa nước trên đất
ô nhiễm 10% Cd phải mất 350 năm mới hút hết Cd, nếu trồng lúa nương (cạn) mất
30 năm, nhưng có loại cây chỉ mất 7 năm là hút hết. Các nhà khoa học Trung Quốc
cho rằng Cúc vạn thọ (Marigold) có khả năng chịu được ô nhiễm Cd, Pb.
Gần đây người ta thấy có thể lợi dụng vi sinh vật để chống ô nhiễm. Ví dụ,
các nhà khoa học đã phát hiện được một loài vi khuẩn chuyên ăn dầu mỏ, hễ gặp
dầu là ăn ngay và phát triển nhanh chóng. Sau lúc ăn, chúng phân giải dầu mỏ
thành CO2 và H2O làm sạch môi trường.
Phenol là một chất độc hại cho người, một số vi sinh vật có thể phân giải
phenol thành CO2 và H2O. Có loài trực khuẩn nha bào có thể biến phenol thành
axit axetic để làm thức ăn cho bản thân.
6. Thực hiện luật môi trường
Nhà nước đã công bố Luật môi trường, phải giáo dục bồi dưỡng cho toàn
dân, đặc biệt là các nhà máy sản xuất kinh doanh có kiến thức về môi trường và
sinh thái học. Ðối với các cơ sở sản xuất hiện có cần áp dụng các biện pháp tái sử
dụng (thu hồi) để giảm ô nhiễm và hạ giá thành, xử lý chất thải, thay đổi quy trình

công nghệ. Cần xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi phạm.
Các biện pháp hạn chế ô nhiễm đất Phát triển nền nông nghiệp bền vững
cũng là một chiến lược bảo vệ môi trường đất, đặc biệt ở miền núi. Đặc trưng cơ
bản của hệ thống nông nghiệp bền vững là hướng tới các mục tiêu cơ bản sau:
- Nâng cao lợi ích của sản xuất nông nghiệp như đảm bảo một số lượng nông nghiệp
tương xứng, đáp ứng được nhu cầu sống của lượng dân số mà hệ thống đó hướng
tới
- Tăng năng suất nông nghiệp thông qua việc tăng cường sử dụng các kiểu gen có
năng suất cao, chống chịu sâu bệnh và thích ứng các điều kiện khó khăn, duy trì độ
phì của đất, tính đa dạng của cây trồng, áp dụng luân canh cây trồng, sử dụng hệ
thống cây hàng năm, cây lâu năm, nghề cá, chăn nuôi tổng hợp
- Bảo vệ và cải thiện môi trường sống cho con người và các sinh vật khác như chống
ô nhiễm nguồn nước, giảm và loại bỏ sử dụng chất độc để trừ sâu bệnh, giảm sử
dụng phân khoáng
- Tăng cường các hoạt động phi nông nghiệp khác, tạo thêm công ăn việc làm, phát
triển cơ sở hạ tầng … nhằm nâng cao dần đời sống người dân
- Đối với Việt Nam phát triển các hệ thống nông nghiệp bền vững cần chú ý:
+ Áp dụng các biện pháp canh tác chống xói mòn
+ Đa dạng hóa cây trồng dưới hình thức : trồng xan, gối vụ, luân canh
+ Áp dụng hệ thống nông lâm kết hợp, lâm ngư kết hợp với các mô hình đa dạng,
phong phú
+ Kết hợp trồng trọt và chăn nuôi, tăng cường phát triển và mở rộng các mô hình
kinh tế vườn rừng, trại rừng
+ Từng bước xây dựng một nền nông nghiệp “sạch” đảm bảo đa dạng hóa cây trồng,
tạo năng suất bền vững, ổn định, giảm sử dụng phân khoáng và hóa chất độc hại
bảo vệ thực vật. Không nên đặt mục tiêu duy nhất bằng mọi giá đạt năng suất cây
trồng, vật nuôi cao nhất.
- Cuối cùng cần nhấn mạnh thêm rằng vấn đề nghiên cứu biến đổi môi trường đất
cần được đặt ra một cách có hệ thống trong phạm vi toàn quốc, việc phối hợp hành
động với các nước trong khu vực và toàn cầu là một đòi hỏi cấp bách nhằm góp

phần thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường nói chung và môi trường đất nói
riêng.
Kết luận
Đất là tài nguyên vô cùng quý giá. Nó là môi trường sinh sống cúa hầu
hết các loại sinh vật lớn nhỏ trong tự nhiên, trong đó có con người Ngày
nay, môi trường đất đang ngày càng ô nhiễm một phần là do sự tác động của
con người mà nên. Muốn đất ngày càng màu mỡ và phì nhiêu , có thể đáp
ứng được những nhu cầu sủa dụng của con người thì con người cần phải biết
giữ gìn, bảo vệ và cải tạo môi trường đất. Từ đó đem lại sự cân bằng trong
sinh thái môi trường và hiệu quả kinh kế ngày một cao.
Tài liệu tham khảo:
- .
-
-
- Giáo trình kinh tế tài nguyên.
- Giáo trình Thổ nhưỡng học PGS.TS Trần Văn Chính – nhà xuất bản
Nông Nghiệp 2006.
- Báo cáo hiện trạng môi trường 2005, 2010.

×