Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Vận dụng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 32 trang )

DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I NĂM HỌC 2019-2020
Nhóm số: 4 (Lớp thứ 6 tiết 1 2)
Tên đề tài: Làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
đấu tranh giải phóng dân tộc. Vận dụng công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng hiện nay.
ST

HỌ VÀ TÊN

MÃ SỐ

TỶ LỆ %

T
01
02
03

SINH VIÊN
Võ Công Thức
Nguyễn Đức Tài
Nguyễn Văn

SINH VIÊN
19146272
19146255
19143166

HOÀN THÀNH
100%


100%
100%

04
05

Sung
Võ Thành Tài
Võ Thành An

19143168
19146148

100%
100%

Ghi chú:
-Tỷ lệ % = 100%
-Trưởng nhóm: Võ Cơng Thức
Nhận xét của Giáo viên:
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
Ngày…….tháng 12 năm 2019


Giáo viên
chấm điểm
LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên chúng em xin cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại
học Sư Phạm Kỹ Thuật Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện
để sinh viên chúng em có một mơi trường học tập thoải mái về
cơ sở hạ tầng cũng như cơ sở vật chất.
Chúng em xin cảm ơn khoa Lý luận chính trị đã giúp chúng
em mở mang kiến thức về tư tưởng Hồ Chí Minh, một tư tưởng
hết sức quan trọng, đóng vai trị quyết định đối với vận mệnh
nước nhà. Qua đó chúng em có thể nhận thức được một cách
đẩy đủ và toàn diện về cuộc đời, sự nghiệp, những đóng góp và
vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với toàn thể dân tộc Việt
Nam.
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Phượng đã
hướng dẫn tận tình để nhóm chúng em có thể hồn thành bài
tiểu luận này. Hy vọng thông qua những nỗ lực tìm hiểu, nghiên
cứu của các thành viên, nhóm em sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn
về “Vai trò của Đảng trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng bảo vệ đất nước hiện nay”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống tư tưởng rộng lớn và
bao quát mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nên trong suốt
cuộc đời và sự nghiệp của mình. Vậy nên, với những giới hạn về
kiến thức và thời gian, nhóm em khơng tránh khỏi những thiếu
sót, mong cơ và các bạn góp ý để chúng em có thể hồn thiện
hơn về kiến thức của mình.


Chúng em xin chân thành cảm ơn!


PHẦN MỞ ĐẦU
1.


Lý do chọn đề tài:
Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã chỉ ra, sự lãnh đạo của Đảng

khơng phải là quyền lực mà đảng tự đặt ra cho mình, cũng
khơng phải do sự áp đặt đối với quần chúng, mà phải do quần
chúng thừa nhận một cách tự nhiên. Có như vậy, Đảng mới
đồn kết được dân tộc, mới trở thành lãnh tụ của dân tộc trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Sự ra đời
của Đảng Cộng Sản Việt Nam tuân theo những quy luật khách
quan, đó chính là sự vận dụng, phát triển của phong trào công
nhân kết hợp với chủ nghĩa mác-Lênin và phong trào yêu nước
của dân tộc. Bởi vậy, từ khi Đảng xuất hiện theo quy luật vừa
phổ biến vừa đặc thù đó đã đưa cách mạng Việt Nam vào một
bước ngoặt, mở ra một chân trời triển vọng mới cho dân tộc ta
phát triển.
Có thể nói lịch sử thăng hoa của đất nước ta hôm nay gắn
liền với lịch sử thăng trầm sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng
Sản Việt Nam. Từ khi thành lập đến nay, nhờ có lý luận tiên
phong dẫn đường, Đảng đã dẫn đường nhân dân ta dành hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong quá trình lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới (1986) đến nay, Đảng đã có nhiều đóng góp
trong sự nghiệp lý luận, đặc biệt là những luận điểm mới chủ
nghĩa xã hội và con đường chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong suốt quá trình đổi mới, nhìn chung cơng tác
lý luận vẫn khơng kịp sự phát triển của thực tiễn, vẫn khơng ít
cấp ủy, tổ chức Đảng và Đảng viên chưa nắm chắc những vấn
đề lý luận về cơng tác tư tưởng. Thậm chí, ở một số nơi, tình
trạng này vẫn cịn vơ hiệu hóa các giải pháp có giá trị về nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng của cấp ủy, các tổ

1


chức Đảng. Do đó nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ của Đảng
trong giai đoạn mới hiện nay có ý nghĩa quyết định việc thực
hiện mục tiêu phấn đấu 2020, nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiêp theo hướng hiện đại. Địi hỏi cần phải có sự
lãnh đạo của Đảng và sự hưởng ứng nhiệt tình đơng đảo quần
chúng nhân dân thì đất nước mới hồn thành sứ mệnh lịch sử.
Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới, thực hiện cơng nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước thì vai trị lãnh đạo của Đảng càng mang
tính thời sự và cấp thiết.
Xuất phát từ những lí do trên nhóm em nghiên cứu đề tài:
”Làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh
giải phóng dân tộc, Vận dụng công tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng hiện nay”.
2.
Mục đích nghiên cứu:
- Phân tích và làm rõ vai trị của Đảng đối với sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc.
- Đánh giá một cách khách quan về vai trò lãnh đạo của
Đảng.
- Đưa ra một số yêu cầu của Đảng trong giai đoạn mới hiện
nay.
- Đưa ra những giải pháp để xây dựng và chỉnh đốn Đảng
hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thơng tin, nghiên
cứu và đưa ra những nhận xét, đánh giá.
- Phương pháp lý luận kết hợp giữa phân tích và tổng hợp.

- Học tập phương pháp của Hồ Chí Minh: gắn lý luận với thực
tiễn trong quá trình cách mạng Việt Nam.

2


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
Việt Nam
1.1. Khái quát về Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam
hiện nay theo Hiến pháp (bản 2013), đồng thời là chính đảng
duy nhất được phép hoạt động trên đất nước Việt Nam, và được
đảm bảo bằng Điều 4 Hiến pháp năm 1980. Theo Cương lĩnh và
Điều lệ chính thức được cơng bố hiện nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam là đại biểu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Trên thực
tế, một số yếu tố của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa dân tộc và cả
một vài yếu tố có tính truyền thống của Nho giáo cũng có
những ảnh hưởng nhất định. Tại Việt Nam, trong các ngữ cảnh
khơng chính thức, các phương tiện truyền thông, các nhà lãnh
đạo thường dùng từ “Đảng” hoặc “Đảng ta” để nói về Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh là người sáng lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong tám thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta
đã tiến hành Cách mạng Tháng Tám 1945 thành cơng, xóa bỏ
hồn tồn chế độ thực dân phong kiến, lập nên nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam); đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành

sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành
3


công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc nền độc lập dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành
được những thắng lợi vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới trong sự
phát triển của dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên
chủ nghĩa xã hội; mở ra thời đại mới: thời đại Hồ Chí Minh.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định, là cả một pho tàng lịch sử bằng vàng. Kho tàng
lịch sử ấy không những gồm những sự kiện lịch sử oanh liệt, hào
hùng của Đảng và dân tộc mà điều đó có ý nghĩa lớn lao và
những kinh nghiệm, những bài học lịch sử, những vấn đề lý luận
cách mạng Việt Nam được tổng kết từ hiện thực lịch sử với
những sự kiện oanh liệt hào hùng đó. Vì vậy, học tập, nghiên
cứu lịch sử là trách nhiệm và quyền lợi của mỗi chúng ta.
1.2. Khái quát về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Khi đề cập các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản,
xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và của phong trào
công nhân Châu Âu, Lênin nêu lên hai yếu tố, đó là sự kết hợp
chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Khi đề cập sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, bên
cạnh hai yếu tố ấy, Hồ Chí Minh cịn kể đến yếu tố thứ ba, đó là
phong trào yêu nước. Trong bài Thường thức chính trị viết năm
1953, Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng kết hợp phong trào cách
mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mac – Lênin. Nhân dịp kỷ niệm 30
năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh viết bài Ba mươi năm hoạt
động của Đảng, trong đó chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp

với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới
việc thành lập Đảng cộng sản Đơng Dương vào đầu năm 1930.
Đây chính là một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về sự

4


hình thành Đảng cộng sản Việt Nam, là sự phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mac – Lênin trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt Nam.
Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác – Lênin
đối với cách mạng Việt Nam và đối với quá trình hình thành
Đảng cộng sản Việt Nam. Người cũng đánh giá cao vị trí, vai trị
lãnh đạo của giai cấp cơng nhân Việt Nam trong sắp xếp lực
lượng cách mạng. Số lượng giai cấp cơng nhân Việt Nam tuy ít
nhưng theo Hồ Chí Minh, vai trị lãnh đạo của lực lượng cách
mạng khơng phải do số lượng đó quyết định. Hồ Chí Minh chỉ rõ
đặc điểm của giai cấp cơng nhân Việt Nam là: kiên quyết, triệt
để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Giai cấp tiên tiến nhất trong
sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ tư bản và đế quốc để xây
dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần tư
tưởng cách mạng nhất tức là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời,
tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp
khác. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, sở dĩ giai cấp cơng nhân Việt
Nam giữ vai trị lãnh đạo cách mạng Việt Nam cịn là vì: giai cấp
cơng nhân có chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên nền tảng đấu tranh,
họ xây dựng nên đảng theo chủ nghĩa Mác – Lênin. Đảng đề ra
chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp
nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành
những phần tử tiên tiến.
Hồ Chí Minh nêu thêm yếu tố phong trào yêu nước, coi nó là

một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng
Cộng sản Việt Nam vì những lý do sau đây:
- Phong trào yêu nước có vị trí, vai trị cực kỳ to lớn trong
q trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước
là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và
là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của
5


dân tộc ta. Chỉ tính riêng trong hơn 80 năm bị thực dân Pháp đô
hộ, phong trào yêu nước của nhân dân ta đã dâng lên mạnh mẽ
như những lớp sóng cồn nối tiếp nhau. Phong trào yêu nước liên
tục và bền bỉ trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã
kết thành chủ nghĩa yêu nước và nó đã trở thành giá trị văn hóa
tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam.
- Phong trào công nhân kết hợp được với phong trào u
nước vì hai phong trào đó đều có mục tiêu chung. Khi giai cấp
cơng nhân Việt Nam ra đời và có phong trào đấu tranh, lúc đầu
là đấu tranh kinh tế, và sau này là đấu tranh chính trị, thì phong
trào cơng nhân kết hợp được ngay từ đầu và kết hợp liên tục với
phong trào yêu nước. Cơ sở của sự kết hợp giữa hai phong trào
này là do xã hội nước ta tồn tại mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với bon đế quốc và tay sai. Vì vậy, giữa hai
phong trào đều có mục tiêu chung, yêu cầu chung: giải phóng
dân tộc, làm cho Việt Nam được hồn tồn độc lập, xây dựng
đất nước hùng cường. Hơn nữa, chính bản thân phong trào cơng
nhân, xét về nghĩa nào đó, lại mang tính chất của phong trào
u nước, vì phong trào đấu tranh của công nhân không những
chống lại ách áp bức giai cấp mà còn chống lại ách áp bức dân
tộc.

- Phong trào nông dân kết hợp với phong trào cơng nhân.
Nói đến phong trào u nước Việt Nam phải kể đến phong trào
nông dân. Đầu thế kỷ XX nông dân Việt Nam chiếm tới khoảng
90% dân số. Giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự nhiên của
giai cấp công nhân. Ở Việt Nam, do điều kiện cụ thể lịch sử chi
phối, khơng có cơng nhân nhiều mà họ xuất thân trực tiếp từ
người nông dân nghèo. Do đó, giữa phong trào cơng nhân và
phong trào u nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai
6


cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp thành quân chủ lực
của cách mạng.
- Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng
cộng sản Việt Nam. Phong trào yêu nước Việt Nam những thập
niên đầu thế kỷ XX ghi dấu ấn đậm nét bởi vai trị của trí thức,
tuy số lượng khơng nhiều nhưng lại là những “ngịi nổ” cho các
phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân Pháp xâm lược
và bọn tay sai, cũng như thúc đẩy sự canh tân và chần hưng đất
nước. Trong lịch sử Việt Nam, một trong những nét nổi bật nhất
là sự bùng phát của những tổ chức yêu nước mà thành viên và
những người lãnh đạo tuyệt đại đa số là trí thức. Với một bầu
nhiệt huyết, yêu nước, thương nòi, căm giận bọn cướp nước và
bọn bán nước, họ rất nhạy cảm với thời cuộc, do vậy, họ chủ
động và có cơ hội đón nhận những “luồng gió mới” về tư tưởng
của tất cả các trào lưu trên thế giới tràn vào Việt Nam.
1.2. Tính tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam
Mác và Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên những
quan điểm khoa học cơ bản về chính Đảng Cộng sản của giai

cấp công nhân. Lênin vận dụng sáng tạo, cụ thể hóa tư tưởng
Mác và Ăngghen vào xây dựng Đảng kiểu mới, xây dựng học
thuyết về Đảng Cộng sản, trong đó Lênin rất coi trọng những
vấn đề cơ bản về đảng cầm quyền, tính tất yếu về sự ra đời của
các chính đảng. Những tư tưởng đó được thể hiện qua các tác
phẩm tiêu biểu trước Cách mạng Tháng Mười năm 1917 như:
Những người bạn dân là thế nào và họ đã chống lại những người
dân chủ ra sao; Làm gì; Hai sách lược của Đảng xã hội dân chủ
trong cuộc cách mạng dân chủ; Một bước tiến hai bước lùi; Nhà
nước và cách mạng; Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xki;
7


thư gửi người đồng chí và những nhiệm vụ của chúng ta; Về thái
độ của Đảng công nhân đối với tôn giáo…
Phong trào cộng sản trên thế giới được Lênin và những
người cộng sản đã dẫn dắt từng bước đi đúng hướng. Lênin chỉ
rõ cách mạng vô sản muốn giành thắng lợi phải có Đảng lãnh
đạo, Lênin đã khơng ngừng đấu tranh với những quan điểm của
chủ nghĩa xã hội để bảo đảm thành công chủ nghĩa Mác, phát
triển chủ nghĩa Mác để xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân. Lênin đã khởi xướng, đồng thời cũng là người khâu
nối các tổ chức cộng sản lại với nhau đưa lý luận chủ nghĩa Mác
vào phong trào công nhân, đập tan tư tưởng chủ nghĩa cơ hội,
sáng lập ra Đảng Cộng sản kiểu mới của giai cấp công nhân
Nga. Thực tiễn cách mạng lúc bấy giờ đã khẳng định sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân tất yếu dẫn
tới sự ra đời các chính Đảng cộng sản của giai cấp công nhân.
Giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân Nga nổ ra


khắp nơi đã đặt ra yêu cầu bức thiết phải

thành lập một chính Đảng cách mạng thống nhất tập trung của
giai cấp công nhân đủ khả năng lãnh đạo phong trào cách
mạng. Lúc này ở Nga tuy đã có nhiều tổ chức mácxít ra đời và
phát triển song những tổ chức đó ít nhiều đều bị ảnh hưởng
quan điểm của phái Kinh tế và phái Dân túy, không thể lãnh đạo
phong trào đang lên của quần chúng đấu tranh đúng hướng và
giành được thắng lợi.
Theo Lênin, để thành lập được một chính Đảng cách mạng
thống nhất, tập trung nhất dựa trên quan điểm, tư tưởng lý luận
của chủ nghĩa Mác, trước hết phải đánh bại những quan điểm tư
tưởng cơ hội của phái Kinh tế. Chính vì vậy, trong các tác phẩm
kể trên, Lênin dành sự chú ý chủ yếu cho việc chuẩn bị thành
8


lập Đảng mácxít ở nước Nga, một Đảng khác về cơ bản so với
các Đảng xã hội cải lương của quốc tế II và có khả năng lãnh
đạo cuộc đấu tranh cách mạng của công nhân và nông dân để
thủ tiêu chủ nghĩa tư bản.
Theo quy luật phát triển của lịch sử, những mâu thuẫn cơ
bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất yếu dẫn tới
sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên,
phong trào tự phát của công nhân không thể đi đến thắng lợi.
Phong trào công nhân phải được đặt dưới sự lãnh đạo đúng đắn
của chính đảng mácxít chân chính nghĩa là phải đạt được trình
độ tự giác. Cách mạng tháng Mười Nga và những cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trong đó có cách mạng

tháng Tám năm 1945 của Việt Nam đã chứng minh điều đó.
Đảng vơ sản là đảng giai cấp của cơng nhân và nhân dân
lao động, đại biểu ưu tú của toàn xã hội. Đảng phải mang bản
chất của giai cấp công nhân, phải tự giác, vì mục đích chính trị.
Chính vì vậy, Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu
đảm bảo cho giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử
của mình. Với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo
của Đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đảng với
giai cấp luôn thống nhất, nhưng Đảng có trình độ lý luận và tổ
chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn thể dân
tộc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Đảng Cộng sản ra đời, tồn tại, phát triển là để lãnh đạo giai
cấp công nhân, nhân dân lao động thực hiện sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản ra đời
đóng vai trị tun truyền, giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa,
Đảng phải giác ngộ giai cấp công nhân và lãnh đạo giai cấp
công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của mình là
9


thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, thiết lập chuyên chính vô sản để xây
dựng thành công xã hội cộng sản văn minh. Trên thực tế khi
điều kiện cách mạng chín muồi, Đảng Cộng sản đã đẩy mạnh
việc tuyên truyền và cổ động chính trị xã hội chủ nghĩa trong
quần chúng trên quy mơ rộng lớn chưa từng có.
1.3. Vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập
hợp, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là
Đảng cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: “lực lượng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô

cùng, vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới
chắc chắn thắng lợi”1, giai cấp mà khơng có Đảng lãnh đạo thì
khơng làm cách mạng được. Trong cuốn sách Đường cách mệnh
xuất bản năm 1927 Hồ Chí Minh viết: “Cách mệnh trước hết
phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì
tổ chức và vận động dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị
áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành cơng, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới
chạy”2. Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng,
quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường
lối và định phương châm cho đúng.
Cách mạng là cuôc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ
đich rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất
chặt chẽ, ý chí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức
và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh để đánh
đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền.
Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh
đao”3.
1 Hồ

Chí Minh: Tồn tập, t.9, tr.290
2 Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.2, tr.267-268
3 Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.7, tr.228-229
10


Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam
phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, vì Đảng khơng có
mục đích tự thân, ngồi lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân
dân lao động, lợi ích của tồn dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân

dân tiến bộ trên thế giới, Đảng khơng có lợi ích nào khác.
Vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tính quyết
định hàng đầu từ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt
Nam đã được thực tế lịch sử chứng minh, khơng có một tổ chức
chính trị nào có thể thay thế được. Mọi mưu toan nhằm hạ thấp
hoặc nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
đều xuyên tạc thực tế lịch sử cách mạng dân tộc ta, trái với lý
luận lẫn thực tiễn, đều đi ngược lại xu thế phát triển của xã hội
Việt Nam.

Chương 2: Vận dụng công tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng hiện nay
2.1. Thực trạng về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng
hiện nay
2.1.1. Kết quả nổi bật
Từ trước đến nay, nhất là trong thời kì đổi mới, Đảng ta ln
quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ
then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống cịn đối với Đảng ta, chế độ
ta. Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, khơng có nhiệm kỳ nào
Trung ương Đảng khơng có nghị quyết về xây dựng Đảng.
11


Theo đó, chúng ta tiến hành cơng tác xây dựng Đảng
thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, nhiều cuộc vận
động với nhiều biện pháp cơ bản và quan trọng góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta, đáp ứng
những địi hỏi của cơng cuộc đổi mới. Qua thực tiễn Đảng ta
ngày càng tiến bộ và trưởng thành. Cụ thể là:
-Một là, quán triệt chỉ đạo của trung ương, thành ủy đã lãnh

đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời, bài bản,
khoa học các nghị quyết của Trung ương và của Thành ủy, trọng
tâm là Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Trung ương
4 (khoá XI, XII), Nghị quyết Trung ương 5,6,7 (khoá XII), Nghị
quyết Đại hội XVI của Đảng bộ.
Việc hướng dẫn, tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng
tiếp tục được đổi mới, gắn với việc chỉ đạo xây dựng các chương
trình, đề án, kế hoạch cụ thể, sát hợp với tình hình thực tiễn của
đất nước để triển khai thực hiện, bảo đảm thiết thực, hiệu quả.
Thực tiễn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ
đầu của nhiệm kỳ khoá XVI cho thấy: Đảng bộ đã ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Qua chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI, XII) đã tạo được chuyển
biến rõ nét trong ý thức, trách nhiệm, tinh thần nghiêm túc tu
dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
-Hai là, Thành ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
tốt các nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, tạo bước chuyển biến mới, sức lan tỏa mạnh mẽ, toàn
12


diện trên các lĩnh vực hoạt động của Đảng bộ và đời sống xã
hội.
Công tác tổ chức, cán bộ tiếp tục được đổi mới và có chuyển
biến tích cực. Cơng tác tuyên giao, dân vận, nội chính… được
quan tâm chỉ đạo và có chuyển biến tốt. Chất lượng hệ thống tổ
chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên.
Phương thức lãnh đạo của Thành ủy và cấp ủy các cấp liên

tục được đổi mới mạnh mẽ, sáng tạo, quyết liệt và có hiệu quả,
bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Thành ủy, phát huy được
vai trò, trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức,
đồn thể trong thực hiện cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
của Đảng bộ.
-Ba là, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên và chất lượng
tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ đã được nâng cao.
Nhìn tổng thể, cán bộ, đảng viên của Đảng bộ đều có bản
lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng, kiên định; có tâm huyết và
nhiệt tình, cố gắng vượt qua khó khăn, thử thách, nỗ lực phấn
đấu vươn lên hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, có những
đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo
vệ đất nước. Công tác tổ chức nhận xét, phân loại, đánh giá
chất lượng đảng viên được các tổ chức cơ sở Đảng thực hiện
nghiêm túc, gắn với nhiệm vụ chức trách của từng đảng viên,
tính thực chất cao.
2.1.2. Một số hạn chế, yếu kém
Mặc dù đã đạt kết quả rất quan trọng trong giai đoạn đầu
của nhiệm kì khố XVI. Song, nghiêm khắc nhìn nhận thì trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng vẫn cịn khơng ít hạn chế,
13


thậm chí có mặt nghiêm trọng, có khuyết điểm, yếu kém phải
sữa chữa cấp bách nhưng chưa khắc phục được như mong
muốn, có mặt cịn phức tạp thêm, gây băn khoăn, lo lắng trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong tình hình đó, sự chống phá quyết liệt của các thế lực
thù địch, phản động, với những âm mưu, thủ đoạn thâm độc,
tinh vi, hịng xóa bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí

Minh, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta và xóa bỏ sự
lãnh đạo của Đảng, đã làm cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn
Đảng của chúng ta gặp khơng ít khó khăn, thách thức.
Cơng tác chính trị, tư tưởng cịn nhiều hạn chế, thiếu sót thể
hiện qua cơng tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn vẫn
chưa làm sáng tỏ một số vấn đề về xây dựng Đảng trong điều
kiện hội nhập quốc tế. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu
quả của cơng tác tư tưởng cịn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu
tranh chống “Diễn biến hịa bình”.
Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng
tham nhũng, quan liêu, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi
một cách hiệu quả; phần nào làm giảm lòng tin của nhân dân
đối với Đảng.
Tuy đã triển khai khá lâu, nhưng việc “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở một số cơ quan, đơn vị chưa
đi vào chiều sâu, ở một số nơi cịn có biểu hiện hình thức, khơng
thường xun, khơng quán triệt và nghiêm túc dẫn đến hiểu
không đúng và chưa đúng, không gắn với nhiệm vụ của từng cá
nhân, đơn vị. Việc cam kết nội dung học tập còn hình thức; xây
14


dựng kế hoach, chương trình tập thể, cá nhân chưa sát với chức
trách, nhiệm vụ và thực tế công việc. Cơng tác bảo vệ chính trị
nội bộ cịn hạn chế, nhất là đối với những vấn đề chính trị hiện
nay còn nhiều lúng túng.
Nhiều cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng chưa quan tâm đúng mức
đến công tác bảo vệ chính trị nội bộ; chưa làm tốt cơng tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng, chất lượng và hiệu

quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
Nhiều khuyết điểm, sai phạm của cán bộ, đảng viên và tổ
chức Đảng chậm được phát hiện; chưa ngăn chặn, đẩy lùi được
tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Một số cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các cấp chưa gương mẫu; chưa kiên quyết xử lý người
đứng đầu để xảy ra tham nhũng, lãng phí.
Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức lối
sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều tổ chức Đảng khơng nghiêm; sự
đồn kết, nhất trí ở khơng ít cấp ủy chưa tốt. Khơng ít tổ chức
cơ sở năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thấp; công tác quản lý
đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt Đảng chưa vào nề nếp, tự
phê bình và phê bình yếu.
Đáng lưu ý, tình hình vi phạm kỷ luật vẫn còn nghiêm trọng.
Ba năm vừa qua, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành
kỷ luật 2.306 đảng viên; kỷ luật bằng hình thức khiển trách là
1.718, cảnh cáo 358, cách chức 29, khai trừ 201 trường hợp.
Cấp ủy các cấp thi hành kỷ luật 22 tổ chức Đảng.
2.2. Biện pháp nâng cao hiệu quả xây dựng Đảng theo
nghị quyết Đại hội XII
15


Một là, cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp rà soát việc thực hiện
kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm của địa phương, cơ
quan, đơn vị mình đã đề ra; chỉ rõ những việc đã làm được,
những việc chưa làm và làm chưa tốt; kịp thời điều chỉnh, sửa
đổi, bổ sung những nội dung cần thiết để lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện, gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cho phù
hợp, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, nhất là những nội dung vừa

qua chưa thực hiện được hoặc đã thực hiện nhưng chưa đạt yêu
cầu đề ra và những vấn đề phức tạp, nổi cộm mới phát sinh.
Hai là, các cấp ủy, tổ chức đảng bổ sung, sửa đổi quy chế
làm việc cho phù hợp với Nghị quyết của đại hội đảng bộ cấp
mình và tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị; trong
đó, chú ý làm rõ vai trị, trách nhiệm, thẩm quyền của tập thể
và cá nhân người đứng đầu cấp ủy, đứng đầu đơn vị, tổ chức
trong công tác cán bộ. Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 và Chỉ thị 3 của Bộ Chính Trị (khố XI), gắn với thực hiện
Quy định của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp.
Ba là, đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi
bộ; tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức,
lối sống cách mạng cho cán bộ, đảng viên; kiên quyết phê
phán, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết, kịp thời đấu tranh với âm
mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta của
các thế lưc thù địch, phản động, các đối tượng cơ hội chính trị,
bất mãn chính trị.
16


Bốn là, tiếp tục đổi mới phương pháp lãnh đạo của Đảng,
kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống
nhất ý chí, hành động trong Đảng, giữ mối liên hệ mật thiết với
nhân dân. Tiếp tục làm rõ và cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Kịp thời bổ sung, sửa đổi
các quy định, quy chế, tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh thực
hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, nhất là việc lấy phiếu tín

nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp.
Năm là, tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa các ngun tắc về
cơng tác cán bộ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ
giữa các khâu và liên thông giữa các cấp; đẩy mạnh quy hoạch
cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ sau quy
hoạch. Đổi mới phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, nhất
là người đứng đầu theo hướng công khai, dân chủ, minh bạch;
đẩy mạnh thực hiện việc bố trí một số cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện khơng là người địa phương. Tiếp
tục thí điểm bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp huyện, cấp xã. Sơ kết rút kinh nghiệm để có chủ trương về
việc đại hội đảng bộ từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở trực tiếp bầu bí
thư cấp ủy có số dư.
Sáu là, xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút,
trọng dụng nhân tài để xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội
ngũ cán bộ cấp chiến lược, có phẩm chất và uy tín, đủ năng lực,
ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục sắp xếp lại tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả;
thực hiện tinh giảm biên chế cán bộ, công chức, viên chức; đẩy
mạnh cải cách hành chính, chống binh quân, đặc quyền, đặc lợi;
17


cơng khai chế độ, chính sách đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp để nhân dân giám sát.
Bảy là, thực hiện nghiêm túc điểm tự phê bình và phê bình
hằng năm trong các cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên theo
tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, trọng tâm là kiểm
tra việc sửa chữa, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đã
được chỉ ra qua kiểm điểm theo Nghị quyết, kiểm điểm hàng

năm và những vấn đề phức tạp mới phát sinh.
Tám là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm
tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
một cách cụ thể, phù hợp, thiết thực. Chú trọng kiểm tra ở
những nơi có vấn đề nổi cộm qua phản ánh của báo chí và nhân
dân; kiểm tra, giám sát tổ chức Đảng phải gắn với kiểm tra cá
nhân người đứng đầu; xử lý nghiêm minh các tổ chức đảng và
đảng viên vi phạm.
Chín là, đẩy mạnh việc phòng ngừa, ngăn chặn và đấu
tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí bằng tổ
chức, pháp luật, cơ chế, chính sách và nhiều biện pháp để
“khơng muốn tham nhũng”, “không thể tham nhũng”, “không
dám tham nhũng”. Quy định rõ việc kê khai, công khai và kiểm
tra, xác minh về kê khai thu nhập, tài sản của cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở các cấp để bảo đảm tính cơng khai, minh bạch. Có cơ
chế để phát huy vai trò của nhân dân trong việc tham gia xây
dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Mười là, cùng với việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4, cần thực hiện một số nội dung về công tác tổ chức xây
dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, như: Nghị quyết số 3918


NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “tinh giản biên chế, cơ cấu
lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”; Kết luận số 24-KL/TW
của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy
hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và
những năm tiếp theo”…
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng và chỉnh
đốn Đảng hiện nay
Để tiếp tục tạo cơ sở vững chắc trong sự nghiệp đổi mới

toàn diện đất nước trong những năm tới, nâng cao vai trò và
năng lực lãnh đạo của Đảng, Đảng ta cần thường xuyên tự
chỉnh đốn, tự đổi mới Đảng:
-Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của tồn Đảng
và mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết mỗi cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào.
-Hồn thiện quy chế phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Đảng
với các tổ chức Đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong
việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng
viên.
-Giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kiên định, giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, hệ
tư tưởng của Đảng. Ra sức học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống
cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Củng cố tổ chức,
chấp hành nghiêm các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt của Đảng.
-Đảng viên phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của
Đảng. Q trình phấn đấu đó là bền bỉ, liên tục. Đảng viên phải
ln đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên
hết, trước hết, biết hy sinh lợi ích của cá nhân mình để bảo đảm
19


lợi ích cho Đảng. Đảng viên phải có đời tư trong sáng, là một
tấm gương mẫu mực để mọi người noi theo.
-Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát với nhận thức và
yêu cầu mới: công tác kiểm tra, giám sát phải góp phần phát
hiện và khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới
phát hiện ra; bên cạnh việc tiếp tục thực hiện kiểm tra tổ chức
và cá nhân đảng viên có dấu hiệu vi phạm, phải tăng cường chủ
động, giám sát, kiểm tra về phẩm chất đạo đức và kết quả thực

hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên,…
-Các cấp lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo phải thực sự lắng nghe ý
kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân. Xây dựng quy
chế ra quyết định của Đảng, đảm bảo phát huy trí tuệ tập thể;
có cơ chế để nhân dân bài tỏ ý kiến với những quyết định lớn,
tham gia giám sát Đảng, tham gia các công việc của Đảng;
khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân.
-Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hệ thống
văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế
Đảng lãnh đạo đối với nhà nước trong từng lĩnh vực: lập pháp,
hành pháp, tư pháp và từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà
nước.
-Lãnh đạo việc cụ thể hóa, thể chế hóa kịp thời và tổ chức
thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng. Ra nghị quyết
đi liền với đề ra kế hoạch thực hiện nghị quyết.

20


KẾT LUẬN
Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn và sáng tạo dẫn
tới thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 và hai cuộc
kháng chiến giành độc lập thống nhất hoàn toàn.
Trong thời đại ngày nay, việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh trong tổ chức và hoạt động của Đảng
lại càng trở nên quan trọng, khi mà đất nước ta đang trong q
trình cơng nghiệp q - hiện đại hóa. Vận dụng đúng đắn và
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã

đề ra đường lối từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh và lấy chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nên tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn cách
mạng và là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư
duy lý luận của Đảng ta.

21


PHỤ LỤC HÌNH ẢNH

H
ình 1: Cán bộ, đảng viên Chi bộ thôn Khách Nhi Ngược, xã Vĩnh
Thịnh (Vĩnh Tường) thường xun tìm hiểu, nhận diện những
biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống để
chủ động phòng tránh.

22


×