Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

SKKN một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn tập làm văn lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.44 KB, 16 trang )

“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong chương trình Tiểu học, mơn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển
cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết để giúp các em học tập và giao tiếp trong
cuộc sống hàng ngày. Thông qua việc học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện tư duy, cung
cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn
hóa, văn học. Bồi dưỡng tình u Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng của Tiếng Việt, góp phần hình thành con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tập làm văn là một phân mơn có vị trí đặc biệt trong chương trình Tiếng Việt ở
Tiểu học. Tập làm văn dạy các kiến thức và kĩ năng giúp học sinh tạo lập, sản sinh ra
ngơn bản. Phân mơn Tập làm văn có vai trị, vị trí quan trọng trong việc hình thành,
xây dựng các phân mơn khác. Nhờ q trình vận dụng các kĩ năng để tạo lập, sản sinh
văn bản trong dạy học Tập làm văn, tiếng Việt trở thành một cơng cụ sinh động trong
q trình học tập và giao tiếp của học sinh tiểu học.
Nhiệm vụ cơ bản của phân môn Tập làm văn là giúp học sinh tạo được ra ngơn bản
nói và viết theo các phong cách chức năng ngơn ngữ, hình thành và phát triển năng lực
tạo lập ngôn bản – một năng lực được tổng hợp từ các kĩ năng bộ phận như: dạng nói,
viết bằng câu, đoạn, bài.
Lớp Hai học sinh tiểu học bắt đầu làm quen với phân môn Tập làm văn. Các em
được làm quen với đoạn văn và được rèn kĩ năng viết đoạn văn. Trong khi giảng dạy
qua bài làm của học sinh, tôi nhận thấy các con viết đoạn văn còn lúng túng, chưa đạt
yêu cầu. Các em thường viết bị lặp mẫu câu, dùng sai từ, sắp xếp câu chưa hợp lí, viết
câu khơng rõ ý, viết khơng đúng yêu cầu đề bài.
Bản thân là một giáo viên dạy lớp 2, tơi có nhiều trăn trở khơng biết làm thế nào để
giúp các em viết tốt đoạn văn theo u cầu. Vì vậy mà tơi ln suy nghĩ và cố gắng
tìm cách nâng cao chất lượng bài văn của học sinh lớp mình. Đây là lí do tơi chọn đề
tài: “Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm
văn lớp 2”.
1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm


Nghiên cứu và đưa ra các biện pháp cụ thể, thiết thực nhằm giúp cho giáo viên
dạy học sinh lớp 2 viết tốt đoạn văn, đó là các biện pháp: Sử dụng linh hoạt phương
pháp, hình thức dạy học; Tăng cường vốn từ cho học sinh; Rèn kỹ năng viết cho học
sinh.

GV: Lê Thị Tuyên
Trang 1


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng về dạy học viết đoạn văn ở tiểu học hiện nay
2.1.1. Thực trạng về phương pháp và chất lượng dạy học viết đoạn văn ở tiểu
học hiện nay
Qua thực tế giảng dạy trong thời gian qua ở khối lớp 2, tôi nhận thấy phân môn
Tập làm văn là phân mơn khó đối với học sinh. Tập làm văn địi hỏi tính sáng tạo của
học sinh. Vì vậy để có bài văn hồn thiện về cả nội dung lẫn hình thức quả là một điều
khó với học sinh. Nhiều em không biết bắt đầu từ đâu, phải nói và viết những gì, viết
như thế nào. Chính vì vậy mà trong các tiết học phân môn này các em thường rất lúng
túng, viết lan man không đúng trọng tâm đề, ý văn nghèo nàn, dùng từ khơng chính
xác, sắp xếp câu lộn xộn. Một số học sinh có thói quen nói như thế nào viết như thế ấy.
Học sinh tuy có sự hiểu biết nhưng chưa diễn đạt được ý mình muốn nói. Bài viết chỉ
mang tính liệt kê khô khan, không biết liên kết câu và lồng cảm xúc của người viết
vào. Một số em viết câu cịn sai ngữ pháp, ít khi sử dụng câu giàu hình ảnh, cảm xúc.
Đa số giáo viên trong trường tơi đều là những người có nhiều kinh nghiệm, tâm
huyết với nghề song ở một số tiết học giáo viên còn nói nhiều, chưa khơi gợi huy động
vốn hiểu biết, cách sử dụng từ ngữ mà bắt học sinh học nhiều, yêu cầu học sinh nhớ
nhiều để bắt chước rồi “làm Văn”. Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đảm
bảo “chất lượng” khi kiểm tra thi cử, nhiều giáo viên cho học sinh thuộc một bài văn

mẫu để khi các em gặp một đề bài tương tự cứ thế mà chép ra. Vì vậy dẫn đến cả thầy
và trò nhiều khi bị lệ thuộc quá vào “văn mẫu” khơng thốt khỏi “mẫu”.
Sau đây là kết quả khảo sát 29 học sinh trong lớp tôi chủ nhiệm về phân môn Tập
làm văn đầu năm học 2020-2021.
Tổn
g số
HS:
30

Số em
viết chưa
đạt yêu
cầu

Số em
viết đạt
trung
bình

Số em
viết khá

Số em
viết tốt

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

7

23

14

47

6

20

3

10

Qua bảng tổng hợp trên, ta thấy tỉ lệ học sinh viết chưa đạt yêu cầu và học sinh viết
trung bình chiếm 70%. Tỉ lệ học sinh làm bài tốt chiếm có 30%. Đây là một con số
đáng báo động.

2.1.2. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập
Trên thực tế, việc dạy và học phân môn Tập làm văn ở tiểu học hiện nay cịn rất
nhiều vấn đề bất cập.
* Về phía học sinh:
GV: Lê Thị Tuyên
Trang 2


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

- Là lớp đầu cấp (sau lớp 1) nên các em còn hạn chế khả năng giao tiếp, ngơn ngữ
cịn hạn hẹp về vốn từ.
- Học sinh thường lười đọc sách báo hoặc tìm tịi sưu tầm những tài liệu phục vụ
cho kiến thức có liên quan đến mơn học dẫn đến nghèo vốn từ, nghèo vốn sống để có
thể đưa bài văn vào viết.
- Phụ huynh đa số là nông dân ít có điều kiện quan tâm đến việc học tập sinh hoạt
của con em.
- Trong tiết trả bài, học sinh chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kĩ càng, đầy đủ; các em
cảm thấy nặng nề, thất vọng về bài viết của mình.
- Các em chưa thực sự cảm thấy u thích mơn học.
- Học sinh chỉ quan tâm đến những sở thích khơng phục vụ cho mơn học như: đọc
sách báo, truyện tranh nhảm nhí, chơi điện tử, xem phim ảnh không phù hợp với lứa
tuổi nên vốn văn học rất hạn chế.
* Về phía giáo viên:
- Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy Tập Làm Văn: Lập dàn bài
rập khuôn dẫn đến bài làm của học sinh giống nhau về ý tưởng, nội dung.
- Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra ý
hay, tai hại thay một số giáo viên cho học sinh thuộc những bài văn mẫu điều đó đã
làm mất đi sự sáng tạo và óc tưởng tượng phong phú của học sinh.
- Giáo viên chưa linh động sáng tạo khi tổ chức các giờ dạy trên lớp, hình thức tổ

chức dạy học đơn điệu: giáo viên hỏi - học sinh trả lời, chỉ những em khá giỏi mới có
thể tham gia trả lời cịn những học sinh trung bình hoặc yếu thì cảm thấy lo sợ nếu bị
gọi đến tên! Từ đó, học sinh cảm thấy nhàm chán, mất hứng thú học tập.
- Chưa xử lí kịp thời, chính xác các phát sinh dẫn đến tình trạng giáo viên đánh giá
chưa đúng ý kiến của học sinh.
* Về phía cha mẹ học sinh:
- Cha mẹ học sinh có thể giúp học sinh Tiểu học học tốt các môn học khác song
mơn Tập làm văn thì gặp khó khăn, một phần vì thiếu điều kiện thời gian, một phần vì
phụ huynh sẽ lung túng trong việc nắm bắt nội dung, phương pháp dạy.
- Cha mẹ học sinh chưa thật sự quan tâm đến việc đầu tư sách tham khảo cho học
sinh.
Xuất phát từ thực trạng trên, tơi muốn tìm ra một số giải pháp nhằm giúp học sinh
viết văn tốt hơn để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn góp phần thực
hiện tốt mục tiêu dạy học môn Tiếng Việt.
2.2. Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn tập làm
văn
Sau đây tơi xin trình bàymột số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân
môn Tập làm văn lớp 2”
GV: Lê Thị Tuyên
Trang 3


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

2.2.1. Sử dụng linh hoạt phương pháp, hình thức dạy học
Mục tiêu :
Giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Nội dung:
Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học như đồ dùng trực quan, thảo luận nhóm,
phiếu bài tập,... để học sinh được làm việc nhiều hơn.

Cách tiến hành:
Với cách dạy học cũ giáo viên hỏi và học sinh trả lời. Giáo viên giảng giải nói hết, học
sinh khơng được nói nhiều. Với phương pháp dạy học mới học sinh được nói nhiều
hơn, nhiều em được nói, câu nói hay nhiều em được học tập như câu “ Huệ say mê
ngắm một khóm hoa hồng mới nở” hay giúp các em phát hiện ra câu nói chưa đủ câu,
câu văn lủng củng diễn đạt chưa rõ ý.
Vì vậy, tơi đã nghiên cứu và xếp các bài vào các nhóm sau:
+ Dạng bài học sinh được nói nhiều.
+ Dạng bài cung cấp hình ảnh trực quan.
+ Dạng bài chuẩn bị quan sát từ nhà.
Khi đã có hệ thống bài như vậy tôi thấy việc dạy và chuẩn bị bài của giáo viên sẽ tốt
hơn. Đầu tiên là dạng học sinh được nói nhiều.
Ví dụ 1:
Bài: Tự giới thiệu. Câu và bài ( tr 12) – SGK Tiếng Việt 2 ( tập 1)
Bài 3: Kể lại nội dung mỗi tranh dưới đây bằng 1, 2 câu để tạo thành một câu
chuyện.
Với dạng bài này thơng thường thì giáo viên yêu cầu học sinh đọc đầu bài và giúp các
em hiểu nội dung đầu bài. Bài có 4 bức tranh, tranh 1, 2 là hai tranh các em đã kể và
viết ở tiết Luyện từ và câu. Đầu bài yêu cầu kể mỗi tranh bằng 1, 2 câu. Sau đó gộp
các câu thành một câu chuyện. Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc cá nhân. Sau đó,
giáo viên chiếu từng tranh và gọi học sinh nói phù hợp với nội dung tranh.
Nhưng đối với bài tập này để phát huy được tính tích cực và phát huy trí lực của học
sinh thì tơi sẽ cho các con thảo luận nhóm bốn. Các em cùng quan sát tranh và mỗi bạn
sẽ nói một câu về bức tranh đó. Học sinh có thể cùng nghe và sửa câu cho nhau sao
cho câu hoàn chỉnh mà trong khi làm việc cá nhân sẽ khó thực hiện được. Sau đó, 4
bạn sẽ kể lại câu chuyện, mỗi bạn 1 tranh cùng nhau kể lại nội dung tranh. Thảo luận
xong, tôi mời các nhóm lên kể lại 4 bức tranh để tạo thành một câu chuyện. Bạn khá
giỏi có thể kể cả 4 bức tranh. Với cách làm này tôi thấy học sinh làm việc tích cực, sơi
nổi khơng bạn nhàm chán theo cách đọc đề và làm buồn tẻ như trước. Một điều thấy rõ
hơn là các con đã giúp nhau nói được những câu văn hay, câu đủ ý và diễn đạt rõ ý.

Với dạng bài này theo cách dạy cũ là giáo viên sẽ hỏi: Tranh vẽ gì? Và yêu cầu học
sinh trả lời câu hỏi dưới mỗi tranh. Với cách dạy mới tôi sẽ làm mẫu bức tranh 1 và tôi
GV: Lê Thị Tuyên
Trang 4


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

cũng hỏi: Tranh vẽ gì? Bạn trai đang vẽ ở đâu? Sau đó tơi gọi vài học sinh trả lời và
khuyến khích học sinh có những cách trả lời khác nhau nhưng vẫn đúng nội dung
tranh. Tiếp theo tôi sẽ cho học sinh thảo luận nhóm 4 để cùng nhau quan sát tranh và
trả lời cả 4 câu hỏi ở dưới mỗi bức tranh. Tôi nhận thấy tiết học sôi nổi hơn. Các em
nhút nhát đã tích cực làm việc hơn nhờ sự hỗ trợ của các bạn. Câu trả lời của các em
cũng hay hơn, đầy đủ ý và câu văn đủ thành phần. Đó là điều tơi thấy mừng sau mỗi
tiết dạy bởi lẽ các con có nói tốt thì viết mới tốt được.
Tương tự với cách làm như vậy tôi đã áp dụng để dạy các bài như: Bài1 – tiết Tập làm
văn Kể ngắn theo tranh. Luyện tập về thời gian biểu hay bài 2 – tiết Tập làm văn Đáp
lời chia vui. Nghe – trả lời câu hỏi, bài 1 – tiết Tập làm văn Nghe – trả lời câu hỏi.
Dạng bài tiếp theo là cung cấp thêm hình ảnh trực quan.
Với học sinh lớp 2 thì khả năng tưởng tượng cịn kém thì có những bài tơi đã sử dụng
thêm hình ảnh trực quan như hình ảnh, tranh ảnh, video hay vật thật để giúp các con có
cảm nhận tốt hơn khi viết văn.
Đối với bài tập này dạy theo cách cũ là giáo viên sẽ cho học sinh quan sát tranh rồi trả
lời lần lượt câu hỏi. Bức tranh thì khơ cứng và học sinh nói được câu giàu hình ảnh. Vì
vậy, tơi đã thay đổi phương pháp dạy như sau:
Đầu tiên tôi cũng cho học sinh quan sát tranh. Sau đó, tơi hỏi tranh vẽ gì? Học sinh trả
lời: Tranh vẽ ơng mặt trời, mây, sóng, thuyền buồm, hải âu. Để học sinh trả lời được
đúng câu hỏi: Buổi sáng ở biển như thế nào? tơi đã cho các con xem một số hình ảnh
buổi sáng ở biển về thiên nhiên như những giọt sương đọng trên lá, hình ảnh em bé
dang tay đón bình minh trên biển. Khi đó học sinh sẽ bật ra từ ngữ mong muốn là: mát

mẻ, thống đãng... Cịn sóng biển tơi sẽ cho học sinh xem đoạn phim về sóng biển để
nghe tiếng sóng biển, nhìn rõ hình ảnh những con sóng. Từ đó học sinh có thêm vốn từ
để tả về sóng biển như: sóng biển nối đi nhau xơ vào bờ cát, những con sóng tung
bọt trắng xóa, những con sóng lon ton xơ vào bờ.... Sau đó, cho học sinh thảo luận
nhóm 4 trả lời tất cả 4 câu hỏi bằng cách quan sát tranh kết hợp trải nghiệm đi biển,
bằng đoạn phim cô giáo cung cấp thì tơi thấy rằng câu văn của con sẽ hay và phong
phú. Các con sẽ tích cực nói và trao đổi hơn là nhìn tranh khơ cứng để nói câu trả lời.
Ví dụ 2: Bài: Đáp lời chia vui. Nghe – trả lời câu hỏi ( tr 90) – SGK Tiếng Việt 2
( tập 2)
Bài 3: Viết vào vở các câu trả lời cho phần a hoặc phần b ( bài tập 2).
Để học sinh viết tốt bài 3 thì ngay từ bài 2 khi đọc và trả lời câu hỏi về quả măng cụt
qua đoạn văn ngắn được cung cấp nhưng học sinh vẫn khó hình dung được hình dáng
quả măng cụt trịn như quả cam, tồn thân tím sẫm hay cuống có bốn, năm cái tai trịn
úp vào quả. Vì vậy tơi đã chuẩn bị vật thật là quả măng cụt để hướng dẫn học sinh. Tơi
cũng cho học sinh làm việc nhóm 4 và phát cho các nhóm 4 quả măng cụt để các con
cùng quan sát và sau đó thưởng thức để cảm nhận luôn được mùi vị của quả cụt để khi
viết con sẽ có sự chân thực bằng chính trải nghiệm nhìn bằng mắt quả măng cụt, sờ và
nếm thử những múi măng cụt trắng muốt.
GV: Lê Thị Tuyên
Trang 5


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

Bài 3 khi học sinh viết sản phẩm tôi nhận được không bị rập khuôn theo mẫu đã cung
cấp ở bài tập 2. Học sinh viết: Khi em rứt cái cuống và bóp vào giữa quả thì quả măng
cụt chia làm hai nửa và lộ ra những múi măng cụt trắng muốt. Em ăn múi măng cụt
thấy ngon ngọt và thơm thoang thoảng. Đây là những câu văn xuất phát từ những hiểu
biết của học sinh về quả măng cụt và cũng có dựa vào đoạn văn được cung cấp ở bài
tập 2. Hình ảnh trực quan đã giúp học sinh có những câu văn sáng tạo hơn, thốt khỏi

cái mẫu có sẵn. Đó cũng chính là điều tơi đang hướng cho các con trong các tiết Tập
làm văn.
Dạng bài chuẩn bị quan sát và thu thập thơng tin từ ở nhà.
Ví dụ 1: Bài: Kể ngắn theo câu hỏi ( tr 69) – SGK Tiếng Việt 2 ( tập 1)
Bài 2: Trả lời câu hỏi.
a) Cô giáo ( hoặc thầy giáo) lớp 1 của em tên là gì?
b) Tình cảm của cô ( hoặc thầy) đối với học sinh như thế nào?
c) Em nhớ nhất điều gì ở cơ giáo ( hoặc thầy giáo)?
d) Tình cảm của em đối với cơ giáo ( hoặc thầy giáo) như thế nào?
Đây là bài tập trả lời câu hỏi. Thông thường giáo viên sẽ đọc câu hỏi và học sinh trả
lời nhưng với cách làm này học sinh sẽ khơng thốt khỏi hình thức trả lời câu hỏi thụ
động, câu trả lời ngắn gọn, khơ khăn và khơng có ý văn hay mà trong tiết tập làm văn
hướng tới. Vì vậy, tơi đã giao cho các con một phiếu bài tập trước khi học bài này.
Phiếu bài tập

giáo
lớp 1
của
em
tên
gì?

Tìn
h
cảm
của

đối
với
em


Tình
Em
cảm
nhớ của
nhất em
điều đối
gì ở với


giáo.

Khi được giao phiếu việc
Hìn
như thế này các em sẽ đi tìm

Giọ
h
Nướ
hiểu các thơng tin về cơ giáo lớp
i
ng
dán
c da
Một và nhớ lại những kỉ niệm
tóc
nói
g
khi học lớp Một, tình cảm chân
thật của em dành cho cô. Đến

tiết học tôi sẽ hỏi xem những
......... ...... ...... ........ ....... ....... ......... ......... bạn nào học cơ Nga, cịn ai học
cơ Ngọc... tơi sẽ chia các em về
......
.... ..... ....
..... ..... ......
......
một nhóm để các em cùng trao
đổi về các nội dung trong phiếu bài tập về cô giáo lớp Một đã dạy các em. Ngồi ra,
tơi cũng sẽ kết hợp trình chiếu một số hình ảnh về cơ giáo lớp Một của các em để giúp
các em có thêm hình ảnh của cô giáo của dạy lớp Một và các hoạt động dạy học trên
lớp của cô trên lớp. Tôi tin rằng, học sinh làm việc tốt ở bài tập 2 thì khi viết ở bài tập
3 sẽ khơng cịn gì là khó khăn nữa. Học sinh sẽ khơng viết đoạn văn dưới dạng câu trả
lời thụ động và mà câu trả lời đã linh hoạt hơn. Câu văn sẽ giàu hình ảnh và phong phú
hơn. Tôi thấy khi đổi mới phương pháp dạy học và chịu đầu tư thời gian thì chất lượng
bài dạy và bài làm của các em đã cao hơn trước rất nhiều.
Với cách dạy cũ bài tôi thu được là:
GV: Lê Thị Tuyên
Trang 6


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

Bài 1:
Cô giáo lớp Một của em tên là Lê Thị Tuyên. Tình cảm của cơ đối em là rất u em.
Em nhớ nhất điều gì là cơ cầm tay em viết chữ. Tình cảm của em đối với cơ là rất yêu
cô.
Với cách dạy mới này tôi thấy câu văn của học sinh đã linh hoạt hơn và giàu hình ảnh
hơn.
Bài 2:

Em đã học lớp Hai rồi nhưng em vẫn không quên được cô Lê Thị Tuyên cô giáo lớp
Một của em. Cơ có dáng người dong dỏng cao. Mái tóc xoăn bồng bềnh. Giọng nói
của cơ trầm ấm. Cơ rất yêu thương em như đứa con của mình. Em nhớ đôi bàn tay ấm
áp của cô cầm tay em viết nét chữ đầu tiên. Em rất yêu cô.
Tuy với học sinh lớp 2 là không yêu cầu các em phải viết câu hay mà chỉ cần viết
thành lời sao cho trôi chảy, dùng từ, đặt câu đúng. Nhưng tôi thấy khi đổi mới phương
pháp dạy và thêm một số câu hỏi nhỏ như: Dáng người cô như thế nào? Mái tóc cơ
như thế nào? Giọng nói của cơ? tơi thấy bài văn của con đã hay hơn, có hình ảnh hơn
và câu văn khơng bị khơ cứng. Đó là điều tôi thấy mừng và tiếp tục áp dụng vào dạy
học để giúp các em tự làm và cô giáo là người định hướng cho các em.
Ví dụ 2: Bài: Kể ngắn về người thân (nói, viết) (tr 140) – SGK Tiếng Việt 2 (tập 2)
Bài 1: Hãy kể về một người thân của em ( bố, mẹ, chú hoặc dì,...) theo các câu hỏi gợi
ý sau:
a) Bố ( mẹ, chú, dì,...) của em làm nghề gì?
b) Hằng ngày, bố ( mẹ, chú, dì,...) làm những việc gì?
c) Những việc ấy có ích như thế nào?
Bài 2: Hãy viết những điều đã kể ở bài tập 1 thành một đoạn văn.
Nếu dạng bài này mà học sinh khơng có sự chuẩn bị và tìm hiểu thì các em sẽ khơng
biết viết như thế nào. Vì nhiều em cịn chưa biết bố mẹ mình nghề nghiệp chính xác là
gì và nó có ích như thế nào? Chính vì vậy mà tơi đã giao một phiếu bài tập cho học
sinh như sau:
Tìn
Ngư
ời
thân
em
tên

gì?



m
nay
bao
nhi
êu
tuổ
i?

Hìn
h
dáng
,
Làm
nướ nghề
c da, gì?
tran
g
phục

Hằ
ng
ngà
y,
làm
nhữ
ng
việc
gì?


Nhữ
ng
việc
ấy

ích
như
thế
nào
?

h
cảm
của
em
dàn
h
cho
ngư
ời
thâ
n?

Phiếu bài tập

Em
sẽ
làm
gì để
bố

mẹ
vui?

GV: Lê Thị
.........
......Tun
........ ......... ....... ....... ....... .........
Trang 7
......
..... ...... ....... ..... ...... ..... ......

Có phiếu giao việc như vậy
cũng chính là cách giúp các em
thu thập thơng tin về người thân
một cách chính xác và đầy đủ
để khi viết các em có vốn mà
viết. Vì đã được chuẩn bị kĩ các
thông tin nên các em tự tin trao
đổi với nhau về người thân


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân mơn Tập làm văn lớp 2”

mình định viết. Khơng cịn sự lúng túng hay cái gãi đầu, gãi tai vì khơng biết nói gì về
nghề nghiệp của người thân của mình.
Phiếu giao việc ở những dạng bài như thế này có tác dụng rất tốt đối với tiết dạy của
giáo viên vì học sinh chuẩn bị bài kĩ nên tiết dạy khơng bị trì trệ và tích cực, sôi nổi
hơn.
2.2.2. Tăng cường vốn từ cho học sinh.
Mục tiêu: Giúp các em có thêm vốn từ để viết văn.

Nội dung: Cung cấp vốn từ cho học sinh bằng cách phối hợp với phụ huynh học sinh,
cho học sinh đọc thêm sách báo, qua các tiết học, cho học sinh quan sát cuộc sống
hàng ngày bằng nhiều giác quan ( mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi,...) và có thể do chính
giáo viên cung cấp.
Cách tiến hành:
* Phối hợp với phụ huynh học sinh
Muốn học sinh có vốn từ tốt thì người giáo viên phải biết phối hợp với phụ huynh
học sinh để giúp các con có khơng gian sống giao lưu với thiên nhiên và con người
như cho các em đi công viên, đi dã ngoại, múa hát để các em có nhiều trải nghiệm
cũng là cách giúp các em nhìn nhận thế giới, thay đổi nhận thức cũng như khả năng
quan sát. Từ đó mà các em có thêm vốn sống thì vốn từ sẽ phong phú hơn khi kể và tả.
Tư vấn cho phụ huynh cùng con đọc sách và cùng đi nhà sách để mua những cuốn
truyện hay như truyện cổ tích, truyện văn học, ... để con đọc và học được cái hay trong
các cuốn truyện từ cách viết câu, từ ngữ phong phú. Đọc nhiều các con sẽ có nhiều
hơn vốn từ cho bản thân. Hoặc trước khi đi ngủ , bố mẹ có thể đọc cho con nghe một
câu chuyện cổ tích, vừa giúp các con ngủ ngon lại tăng khả năng học hỏi của các con.
* Phối hợp với cô thư viện.
Thư viện là nơi có rất nhiều đầu sách hay và bổ ích cho các em. Giáo viên nên kết hợp
với cô nhân viên thư viện lựa chọn cho các con những đầu sách hay có liên quan đến
tiết Tập làm văn.
Bằng nhiều hình thức dần các em sẽ thu thập cho mình một vốn từ kha khá và bằng
chính cảm nhận cuộc sống cũng giúp vốn từ của các em trở nên phong phú hơn.
Ví dụ: Khi quan sát tranh tả biển, các em có thể viết: Tranh vẽ cảnh biển vào buổi
sáng bình minh. Sóng biển nối đi nhau xô vào bờ. Trên mặt biển những chiếc thuyền
buồm đủ màu sắc. Trên bầu trời ông mặt trời tỏa ánh nắng rực rỡ xuống mặt đất.
Những đám mây trắng trôi bồng bềnh. Những chú chim hải âu đang chao liệng trên
bầu trời thỉnh thoảng lại sà xuống mặt biển như đùa giỡn với sóng. Em rất yêu biển.
Mặc dù chỉ là quan sát tranh và trả lời câu hỏi những học sinh cũng vận dụng vốn từ
và hiểu biết của mình để cho bức tranh trở nên sinh động bằng những từ ngữ giàu hình
ảnh.

Học sinh hiểu biết sâu sắc về thực tế cuộc sống và văn học nhằm giúp trí tưởng tượng
và cảm xúc của các em ngày càng thêm phong phú, chân thực. Đây chính là điều quan
GV: Lê Thị Tuyên
Trang 8


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

trọng để bài văn đạt kết quả cao. Mặt khác, phải giúp học sinh làm giàu vốn từ. Một số
học sinh do vốn từ nghèo nàn nên thường dùng từ sai.
Ví dụ: Bài: Kể về người thân
Gợi ý:
a) Ông, bà ( hoặc người thân) của em bao nhiêu tuổi?
b) Ông, bà ( hoặc người thân) của em làm nghề gì?
c) Ơng bà ( hoặc người thân) của em yêu quý, chăm sóc em như thế nào?
Đây là 3 câu hỏi gợi ý ở sách giáo khoa nhưng tôi sẽ thêm 2 câu hỏi nữa để giúp các
em có đoạn văn hồn chỉnh hơn. Đó là hai câu a) và e)
Gợi ý:
a) Người thân em định kể là ai?
b) Ông, bà ( hoặc người thân) của em bao nhiêu tuổi?
c) Ông, bà ( hoặc người thân) của em làm nghề gì?
d) Ơng bà ( hoặc người thân) của em yêu quý, chăm sóc em như thế nào?
e) Tình cảm của em đối với ông bà ( hoặc người thân) như thế nào?
Khi học sinh tả về đơi mắt mẹ có học sinh viết: “Mẹ em có đơi mắt trịn như hai hịn
bi ve.” Học sinh do vốn từ ít và khơng có vốn từ nhiều nên đã tả mắt mẹ như mắt con
vật ni. Vậy để giúp các em có thêm nhiều vốn từ tả người điều đầu tiên vẫn là phải
yêu cầu các em về quan sát kĩ người thân con định tả và sau đó điền thơng tin vào
phiếu:
Phiếu bài tập
Bài : Kể về người thân

Năm
Ngườ nay
i
bao
Dáng
thân nhiêu
Kh Mái
ngườ
em
tuổi,
n mặt tóc
i
định nghề
tả
nghiệ
p

Yêu
quý
chăm
Giọn sóc
g nói em
như
thế
nào

......... .......... ......... .......... ......... ........ ..........
.....
.....
.....

.....
.....
.....
.....
Sau khi học sinh về nhà tìm hiểu và đến tiết học cùng trao đổi với cả lớp thì tơi
cũng cung cấp thêm cho các con vốn từ tả người như: ông bà, bố me, anh chị em, em
bé... để các em có thêm vốn từ để tả cho bài văn thêm sinh động và giàu hình ảnh. Tơi
cũng cung cấp thêm cho học sinh vốn từ như sau:
GV: Lê Thị Tuyên
Trang 9


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

Câu hỏi: Người thân của em bao nhiêu tuổi? Làm nghề gì? Tôi đã giúp học sinh biết
được độ tuổi của ông bà, bố mẹ, anh ( chị, em).
Để giúp học sinh có vốn từ về hình dáng của ơng bà, bố mẹ, anh( chị, em) thì tơi chiếu
hình ảnh cho các em quan sát sau đó sẽ tìm ra những từ chỉ hình dáng con người như:
+ Dáng ơng, bà: hơi cịng, lưng khơng cịn thẳng nữa,...
+ Dáng bố, mẹ: cao to, dong dỏng cao, nhỏ nhắn,...
+ Dáng anh ( chị, em): cao, gầy, bầu bĩnh,...
Từ ngữ về mái tóc thì tơi cũng dùng hình ảnh để cung cấp vốn từ cho các con.
Nhìn tranh học sinh nói được về mái tóc của ơng bà, bố mẹ,...
+ Mái tóc ơng bà: tóc điểm nhiều sợi bạc, bạc trắng như cước,...
+ Tóc mẹ: mượt mà, óng ả, bơng bềnh, xoăn,...
+ Tóc bố: ngắn, cắt tỉa gọn gàng,...
+ Tóc em: ngắn, lơ thơ, tết thành hai bím,...
Câu hỏi: “ Người thân của em u q, chăm sóc em như thế nào?” thì học sinh
đa phần chỉ nói được là rất yêu thương em. Tôi cũng hỏi thêm một số câu hỏi cho học
sinh là: Ơng bà, bố mẹ có chiều chuộng con khơng? để bật ra từ “ chiều chuộng” hoặc

câu hỏi: Khi con mắc lỗi ông bà, bố mẹ đối với con như thế nào? nếu học sinh khó trả
lời tơi hỏi thêm: Thế mọi người có mắng con khơng? để bật ra từ
“ nhẹ nhàng khuyên bảo”... tương tự cách hỏi như vậy để học sinh có thêm nhiều từ
nói về tình cảm của người thân u q và chăm sóc các con đó là các từ: u em, có
gì ngon cũng đề dành phần cho em, dạy em học, dạy em làm việc nhà, kể chuyện cho
em nghe.
Tôi yêu cầu mỗi học sinh có một cuốn sổ tay mà trong đó các em sẽ ghi lại các
từ ngữ tả người mà các con biết và các từ được cô giáo cung cấp thêm để khi viết các
con sẽ có vốn từ phong phú, câu văn giàu hình ảnh nhờ cuốn cẩm nang này.
2.2.3. Rèn kỹ năng viết cho học sinh
Mục tiêu: Giúp học sinh biết cách viết đoạn văn và viết tốt.
Nội dung :Rèn cho học sinh viết đủ câu, có tính liên kết giữa các câu, sử dụng
hình ảnh so sánh
*Hướng dẫn học sinh lựa chọn đối tượng trước khi viết .
Ví dụ 1 : Khi đọc đề: Em hãy tả một mùa mà em yêu thích.
Việc đầu tiên giáo viên phải yêu cầu học sinh là phải xác định đối tượng con
đình tả là mùa nào trong năm. Sau đó tìm các kiến thức có liên quan đến các mùa. Ví
như đặc trưng của mùa hè là: Mặt trời, nắng, gió, cây cối, mây, mưa... khi nắm được
các dự kiện có liên quan đến mùa hè thì các em sẽ tìm hiểu về mùa hè để biết được
mặt trời như quả cầu lửa, mặt trời đỏ rực; cây cối xanh tươi, nắng chói chang,... Học
GV: Lê Thị Tuyên
Trang 10


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

sinh xác định được đối tượng, có các thơng tin dự kiện đầy đủ về đối tượng đó thì học
sinh sẽ viết rất tốt.
Ví Dụ 2 : Đề Em hãy kể ngắn về người thân trong gia đình
Đề này học sinh vẫn phải xác định được người thân mình định tả là ai. Là ơng

hay bà, bố hay mẹ. Sau đó thu thập các thông tin về người xác định viết. Làm nghề gì?
Hằng ngày, làm những việc gì? Những việc ấy có ích như thế nào? Khi đã có đầy đủ
thơng tin thì học sinh sẽ viết theo các câu hỏi gợi ý.
*Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi gợi ý .
- Hướng dẫn học làm miệng, trả lời miệng câu hỏi. Gợi ý cho học sinh trả lời
bằng nhiều cách khác nhau.
- Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng, cung cấp và gợi ý để các em
có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ. Tơi có thể đưa ra câu mẫu có hình ảnh
nhân hóa hoặc so sánh để câu văn thêm sinh động. Ban đầu tôi thấy các em cũng bắt
chước để nói câu có hình ảnh so sánh nhưng những hình ảnh đó học sinh dùng từ chưa
phù hợp. Lúc này tôi sẽ chỉnh cho các em và lưu ý lựa chọn hình ảnh so sánh phù hợp
với sự vật.
- Sau đó tơi hướng dẫn các em sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý
đề hoàn chỉnh bài làm miệng. Rồi mời 1 đến 2 em nói lại tồn bộ đoạn văn theo câu
hỏi gợi ý. Tiếp đó, các em sẽ viết đoạn văn vào vở.
- Tôi cũng sưu tầm một số những bài văn hay của học sinh năm học trước đọc
cho các em nghe để các em học tập cái hay và cách viết của các anh chị đi trước.
Ví dụ: Dạy học sinh tả cơ giáo, tả mẹ... nếu khơng dùng biện pháp so sánh thì
bài làm sẽ khơ khan. Khi tả mái tóc của cơ giáo học sinh đã làm “ Mái tóc của cơ rất
đẹp.”. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh viết câu văn có sử dụng hình ảnh so sánh
hoặc nhân hóa để câu văn giàu hình ảnh hơn như : “ Mái tóc của cơ dài mượt mà,
thướt tha như dịng suối”. Hoặc tả giọng nói của cơ “ Giọng cơ trầm ấm” thay bằng “
Giọng cô êm dịu như lời mẹ ru”.
Hướng dẫn học sinh viết câu văn có hình ảnh, sinh động tức là tập cho học sinh
miêu tả văn học chứ khơng khơ khan như khoa học, tốn học.
Trong khi hướng dẫn học sinh làm bài bản thân giáo viên cần hiểu rõ phải hướng dẫn
học sinh bộc lộ cảm xúc. Cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết luận mà còn bộc lộ
trong từng câu, từng đoạn. Nếu các em biết đan xen, lồng ghép bộ lộ cảm xúc thì đoạn
văn sẽ sinh động, giàu cảm xúc hơn, nó khơng khơ khan sa vào liệt kê sự việc.
Sách giáo khoa lớp 2, bài Tập làm văn nói – viết thường có câu hỏi gợi ý, các

câu hỏi này sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập làm văn; học sinh dựa vào
gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn ngắn. Giáo viên cần cho học sinh
đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm vững nội dung từng câu; từ đó giúp các
em trình bày đoạn văn rõ ràng, mạch lạc đủ ý, đúng từ, đúng ngữ pháp. Giúp học sinh
nắm vững nội dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chế được việc trình bày ý trùng lặp,
chồng chéo, khơng có sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn văn
GV: Lê Thị Tuyên
Trang 11


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân mơn Tập làm văn lớp 2”

Ví dụ:
Bài viết về một người thân
- Người thân của em là ai?
- Năm nay người ấy bao nhiêu tuổi? Làm công việc gì?
- Tình cảm của người ấy đối với em ra sao?
- Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?
Bài viết về một loại quả
- Tên loại quả ấy là gì? Em đã nhìn thấy nó ở đâu?
- Hình dáng bên ngồi ra sao? Bên trong như thế nào?
- Vì sao em thích loại quả ấy?
Bài viết kể về gia đình em
- Gia đình em gồm có mấy người? Đó là những ai?
- Kể từng người trong gia đình em.
- Mỗi người trong gia đình quan tâm nhau như thế nào?
- Tình cảm của em đối với gia đình như thế nào?
* Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn
- Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết (Có thể diễn đạt bằng một
câu).

- Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý có thể
diễn đạt 2, 3 câu tùy theo năng lực học sinh.
- Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ, mong
ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng
đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ: Viết về một con vật:
- Con vật em định kể là con vật gì?Nó sống ở đâu?
- Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật? Nó đem lại lợi ích gì?
- Tình cảm của em đối với con vật đó?
Khi tả về con vật ni mà em u thích thì tơi hướng dẫn các con như sau:
+ Câu mở đầu: Giới thiệu về con chó.
Nhà em có ni một chú chó tên là Mi – lu.
Hoặc: Sinh nhật lần thứ 7 của em, bố em tặng cho em một chú chó rất đáng yêu.
Em đặt tên cho chú là Mi – lu.

GV: Lê Thị Tuyên
Trang 12


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

+ Câu phát triển: Nó có bộ lơng màu trắng muốt. Đơi mắt nó xanh lè và trịn
như hai hịn bi ve. Đơi tai rất thính, lúc nào cũng vểnh lên như nghe ngóng điều gì. Nó
trơng nhà rất giỏi. Mỗi khi em đi học về cái đi nó lại ngốy tít như vẫy chào đón em.
+ Câu kết thúc: Em sẽ chăm sóc chú cẩn thận. Hằng ngày, em sẽ cho chú ăn
xương món ăn mà chú thích nhất. Em rất u chú chó nhỏ của em.
Nắm vững trình tự khi viết một đoạn văn thì các em sẽ khơng sắp xếp lộn xộn các ý
khi viết.Giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm các em
được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ động hình thành

kỹ năng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Khơng nên áp đặt và đòi hỏi các em
phải thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình thành. Trong quá trình giảng
dạy, giáo viên phải kiên nhẫn, ln tái hiện và lặp lại kiến thức cho học sinh trong
suốt năm học, giúp học sinh có được nền móng tốt cho việc học tập môn Tập làm văn
ở các lớp trên.
* Hướng dẫn diễn đạt:
Như đã nói, do tâm lí lứa tuổi nên bài văn thực hành của học sinh lớp 2 tuy có ý
tưởng, nhưng vẫn cịn nhiều sai sót về diễn đạt như: dùng từ chưa chính xác, ý trùng
lắp, các ý trong đoạn văn chưa liên kết nhau nên trình bày chưa rõ ràng mạch lạc. Vì
vậy, khi học sinh trình bày, giáo viên phải hết sức chú ý lắng nghe, ghi nhận những ý
tưởng hay, ý có sáng tạo của học sinh để khen ngợi; đồng thời phát hiện những sai sót
để sửa chữa. Giáo viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ thể để học sinh làm cơ sở
lắng nghe bạn trình bày; phát hiện những từ, ý, câu hay của bạn để học hỏi và những
hạn chế của bạn để góp ý, sửa sai.
Ví dụ: Khi viết về vầng trán Bác Hồ có em viết “Vầng trán Bác cao thể hiện sự
oai hùng. Đó là sự kết hợp thiếu hình ảnh, thiếu chính xác. Trong ngữ cảnh này tôi sẽ
sửa cho các em dùng từ “thông minh” để thay thế “Vầng trán cao biểu lộ sự thông
minh”.
Trường hợp học sinh dùng từ chưa chính xác như các từ ngữ chưa phù hợp,
nghĩa từ chưa hay hoặc từ thơng dụng địa phương…ví dụ: “Cơ giáo em rất chăm chỉ
trong giảng dạy”, “ Cô em thường bận đồ xanh”… khi học sinh phát hiện sai sót đó,
giáo viên giúp các em sửa chữa thay đổi từ phù hợp. Đối với từ học sinh dùng trùng
lặp nhiều lần trong một câu, ví dụ: “Anh Nam là anh của em, anh rất tốt với em, anh
luôn giúp em học bài…” giáo viên hướng dẫn học sinh lượt bớt từ hoặc dùng từ phù
hợp để thay thế. Trong trình bày bài văn, học sinh vẫn thường dùng từ ngơn ngữ nói,
giáo viên nên hướng dẫn học sinh thay thế bằng từ ngôn ngữ viết trong sáng hơn.
Học sinh nói viết câu chưa hay chưa đủ ý, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
sửa chữa bổ sung ý vào cho đúng; câu dài dòng ý chưa rõ ràng mạch lạc cần cho học
sinh sửa sai lượt bỏ ý dư ý trùng lặp. Giáo viên khuyến khích học sinh tự sửa câu văn
chưa hay của mình bằng những câu văn hay của bạn.

* Hướng dẫn viết đoạn văn có dùng từ ngữ liên kết.

GV: Lê Thị Tuyên
Trang 13


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

Với mỗi chủ đề của bài Tập làm văn nếu học sinh trình bày đủ nội dung theo gợi ý
đã cho thì bài văn của các em xem như hoàn chỉnh. Nhưng để có một đoạn văn mạch
lạc rõ ràng, ý tưởng liên kết chặt chẽ nhau thu hút được người đọc; giáo viên cần giúp
các em biết viết đoạn văn có mở và kết đoạn, biết dùng từ liên kết câu, dùng câu liên
kết đoạn một cách hợp lí và sáng tạo.
Ví dụ: Với gợi ý kể biển từng gợi ý phần mở đoạn có rời rạc, giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh liên kết các ý với nhau, khi kể khơng theo trình tự từng ý nhưng
vẫn đảm bảo nội dung và làm cho phần mở đoạn sinh động lôi cuốn người đọc hơn.
Hoặc hướng dẫn học sinh dùng những câu mở đầu đoạn văn để nói hoặc kể một cách
sáng tạo.
Giáo viên cần khuyến khích học sinh sử dụng những từ liên kết câu thể hiện
trình tự diễn biến của sự việc như: “đầu tiên”; “kế tiếp”; “sau đó”; “cuối cùng” để
đoạn văn gắn kết chặt chẽ liên tục từng ý với nhau. Do đặt điểm lứa tuổi và trình độ
từng đối tượng học sinh khơng đồng đều nhau nên các em chưa hiểu nhiều về từ, câu
liên kết trong đoạn văn viết; vì vậy giáo viên cần hướng dẫn bằng những gợi ý giản
đơn dễ hiểu, có thể cho học sinh khá giỏi làm mẫu để giúp các em trình bày tốt hơn
đoạn văn viết của mình. Trong việc hướng dẫn học sinh sửa chữa bài viết, giáo viên
cần đưa ra tiêu chí đánh giá cụ thể giúp học sinh phát hiện những đoạn văn hay, ý
tưởng phong phú sáng tạo đồng thời phát hiện những hạn chế cịn vấp phải trong bài
viết. Từ đó học sinh có sự suy nghĩ để sửa chữa cách diễn đạt ý tưởng trong bài viết
của mình một cách hợp lí và sáng tạo.
Giáo viên khuyến khích học sinh sử dụng các mẫu câu đã học để vận dụng viết

đoạn văn cho câu văn thêm phong phú.
Ví dụ : Bài kể về người thân
Bố em tên là Lê Văn Hùng. Năm nay, bố ba mươi lăm tuổi. Bố là một nông dân.
Dáng người bố hơi gầy. Mái tóc bố cắt ngắn gọn gàng trông rất đẹp trai. Hằng ngày,
bố đi làm rừng. Chiều về, bố đón em tan học và giúp mẹ nấu cơm. Tối đến, bố dạy em
học bài. Em rất yêu bố.
Trong bài văn này có sử dụng mẫu câu “ Ai là gì?”, “ Ai làm gì ?”, “ Ai thế nào?”
giúp các câu văn thêm phong phú và không bị lặp mẫu câu.
2.3. Kết quả đạt được
Sau khi sử dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy kết quả học tập phân môn Tập
làm văn của lớp tơi có nhiều tiến bộ, các em thích thú, háo hức, chờ đợi đến phân môn
Tập làm văn để thể hiện mình trước bạn bè và thầy cơ giáo. Các em rất tự tin mỗi khi
khám phá, viết đoạn văn theo cách riêng của mình. Với niềm đam mê đó, bài viết của
các em đạt yêu cầu rất cao. Nhiều em diễn đạt trôi chảy, rõ ràng và hấp dẫn, phong phú
hơn trong môn Tập làm văn. Nhiều em học sinh viết văn tốt hơn và chất lượng môn
Tiếng Việt rất khả quan. Cụ thể như sau:
Tổn

Số

GV: Lê Thị Tuyên
Trang 14

em Số

em Số

em Số

em



“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

viết chưa viết đạt
g số
đạt yêu trung
viết khá
HS:
cầu
bình
30

viết tốt

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


0

0

8

27

16

53

6

20

Qua bảng tổng hợp trên, ta thấy tỉ lệ học sinh viết khá và học sinh viết tốt chiếm
73%. Tỉ lệ học sinh là bài trung bình chiếm có 27%. Kết quả đó đã phản ánh chất
lượng phân môn tập làm văn đã được nâng lên một bước rõ rệt nhờ việc triển khai các
biện pháp dạy học ở trên.

3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của sáng kiến
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 2, bản thân đã tìm ra một số biện pháp giúp
học sinh viết tốt đoạn văn và có thể áp dụng rộng rãi trong các trường tiểu học, cụ thể
là: Sử dụng linh hoạt phương pháp, hình thức dạy học; Tăng cường vốn từ cho học
sinh; Rèn kỹ năng viết cho học sinh. Qua quá trình thực hiện đã mang lại kết quả cao.
Giúp học sinh có những bài viết sinh động, sáng tạo và mang tính riêng biệt phát huy
tính tích cực của học sinh. Đòi hỏi người giáo viên cải tiến phương pháp dạy học của

mình nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học. Đảm bảo phát triển toàn diện và
năng lực ngơn ngữ của học sinh. Từ đó, ta thấy được vai trò của người giáo viên rất
quan trọng, là người hướng dẫn, gợi mở trong các hoạt động học tập, người mở ra khả
năng tiềm ẩn của học sinh.
3.2. Bài học kinh nghiệm
Qua việc thực hiện các giải pháp trên, tơi rút ra bài học sau:
- Hình thành cho các em thói quen học tập, làm việc một cách khoa học: Đọc kỹ
đề bài, xác định yêu cầu của đề bài, quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng dạy học, câu hỏi
gợi ý, dẫn dắt học sinh hình thành kĩ năng và kiến thức mới.
- Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh ln suy nghĩ, tìm tịi để phát triển
tư duy, khơi gợi niềm say mê ở các em, học cách ghi nhớ để nhớ lâu kiến thức.
GV: Lê Thị Tuyên
Trang 15


“Một số biện pháp giúp học sinh viết tốt đoạn văn trong phân môn Tập làm văn lớp 2”

- Sử dụng nhiều hình thức thi đua, khen thưởng để khuyến khích các em nỗ lực
học tập.
3.3. Kiến nghị, đề xuất
Nhà trường cần khích lệ, tuyên dương học sinh học giỏi phân môn Tập làm văn
hằng tháng, học kỳ.
Đối với học sinh từ lớp Một, cần luyện nói theo chủ đề trong sách Học vần để
rèn tính tự tin và diễn đạt trôi chảy hơn cho các em khi các em lên lớp 2.
Nhà trường phối hợp cùng với giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh đẩy
mạnh phong trào học tốt phân môn Tập làm văn hơn.

MỤC LỤC

GV: Lê Thị Tuyên

Trang 16



×