BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
........../..........
BỘ NỘI VỤ
....../......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THANH TÂN
HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ
VÀ THI HÀNH ÁN TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
........../..........
BỘ NỘI VỤ
....../......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THANH TÂN
HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ
VÀ THI HÀNH ÁN TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐÀM BÍCH HIÊN
THỪA THIÊN HUẾ - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, có sự
hỗ trợ từ Giảng viên hướng dẫn là TS. Đàm Bích Hiên. Các số liệu, nội
dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Thừa Thiên Huế, ngày 15 tháng 10 năm 2018
Học viên
Lê Thanh Tân
LỜI CẢM ƠN
Trước hết em xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, quý thầy cô Khoa Sau
đại học- Học viện Hành chính Quốc gia và q thầy cơ tham gia giảng dạy đã tận
tình truyền đạt kiến thức, giúp đỡ em trong thời gian học tập. Đặc biệt, em xin gửi
lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Đàm Bích Hiên đã dành nhiều thời gian, cơng sức, trí tuệ
để hướng dẫn em hoàn thành Luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn đến ông Phạm Trung Uy- Chánh án Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi; Tập thể Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi; Phòng kiểm
tra nghiệp vụ và thi hành án; Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và thi đua khen
thưởng- Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và tồn thể cơng chức Tịa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để em hồn thành khóa học và
Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè là nguồn động viên lớn để em tham
gia học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn.
Trong thời gian qua, bản thân em rất nỗ lực trong việc học cũng như viết
Luận văn. Tuy nhiên, do kiến thức của bản thân còn hạn chế, nên q trình viết
Luận văn sẽ có những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý q bấu của quý
thầy cô và các bạn để Luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thừa Thiên Huế, ngày 15 tháng 10 năm 2018
Học viên
Lê Thanh Tân
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA
NGHIỆP VỤ VÀ THI HÀNH ÁN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ..............8
1.1. Khái quát về Tòa án nhân dân tỉnh ...................................................................8
1.2. Những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân
tỉnh .........................................................................................................................12
1.3. Những vấn đề lý luận về thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh ....................22
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................................33
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ VÀ THI
HÀNH ÁN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI ..........................34
2.1. Khái quát chung về Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi .................................34
2.2. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi .......................................................................................................................36
2.3. Đánh giá về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án từ năm 2013-2017 .....54
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................................67
Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HOẠT ĐỘNG
KIỂM TRA NGHIỆP VỤ VÀ THI HÀNH ÁN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI .............................................................................................68
3.1. Phương hướng đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án ..............68
3.2. Giải pháp đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án ..................73
Tiểu kết chƣơng 3 ..................................................................................................105
KẾT LUẬN ............................................................................................................106
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................107
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ RÕ
1
BLHS
Bộ luật hình sự
2
BLHS 1999
Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009
3
BLHS 2015
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
4
BLTTDS 2015
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
5
BLTTHS 2003
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
6
BLTTHS 2015
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
7
CQĐT
Cơ quan điều tra
8
CQTHTT
Cơ quan tiến hành tố tụng
9
ĐTV
Điều tra viên
10
HĐTPTANDTC
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
11
KSV
Kiểm sát viên
12
LTCTAND 2002
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002
13
LTCTAND 2014
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
14
LTCVKSND 2002
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002
15
LTCVKSND 2014
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
16
LTTHC 2015
Luật tố tụng hành chính năm 2015
17
NBC
Người bào chữa
18
NBVQLHPCĐS
Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự
19
NCQL&NVLQ
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
20
NTGTT
Người tham gia tố tụng
21
NTHTT
Người tiến hành tố tụng
22
TAND
Tòa án nhân dân
23
TAND huyện
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã
24
TAND tỉnh
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
25
TANDCC
Tòa án nhân dân cấp cao
26
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
27
TP; HTND
Thẩm phán; Hội thẩm nhân dân
28
VKS
Viện kiểm sát
29
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
30
VKSNDCC
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện thực hóa Nghị quyết 49 của Bộ chính trị về Cải cách tư pháp đến năm
2020; Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định chức năng, nhiệm vụ của Tòa án
nhân dân, Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định trách nhiệm,
nghĩa vụ chứng minh của Tòa án trong tố tụng nhằm bảo đảm Tòa án là cơ quan xét
xử và thực hiện quyền tư pháp.
Để có thể ngày càng thực hiện tốt chức năng nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp chống oan sai, bỏ lọt tội phạm, yêu cầu của Hiến pháp bảo đảm quyền con
người, quyền cơng dân, nâng cao vị trí, vai trị, tầm quan trọng cơng tác xét xử, Tịa
án là trung tâm Cải cách tư pháp, đòi hỏi hệ thống Tịa án phải ln chú trọng hoạt
động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án; vì vậy, Quyết định số 345/2016/QĐ-CA
ngày 7 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có quy định về tổ
chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của Tòa
án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, trong đó có quy định về Phòng Kiểm tra nghiệp
vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, và Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao đã ra Quyết định số 346a/2017/QĐ-TANDTC ngày 01 tháng 3 năm 2017 về
việc ban hành Quy chế kiểm tra trong hệ thống Tòa án nhân dân.
Hoạt động kiểm tra của hệ thống Tòa án nhằm đảm bảo tuân thủ nguyên tắc
mọi hoạt động của các chủ thể trong việc áp dụng, thi hành, tuân thủ, sử dụng pháp
luật đều phải được kiểm tra; đồng thời, hoạt động thi hành án là khâu quan trọng để
bảo đảm cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án phải được các cơ
quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và các chủ thể thi hành án, chấp hành án phải thực
hiện khi có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Đối với hoạt động kiểm tra nghiệp vụ, chủ thể kiểm tra là Chánh án Tòa án
nhân dân cấp trên đối với những chủ thể được kiểm tra là tồn thể cơng chức, người
lao động do mình quản lý và Tịa án cấp dưới trực thuộc. Đối tượng kiểm tra nghiệp
vụ là sự tuân thủ pháp luật của những chủ thể được kiểm tra đối với tồn bộ hoạt
động chun mơn trong q trình tiếp nhận, thụ lý, giải quyết, xét xử các loại án,
1
giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp và về hành chính – tư pháp, hoạt động thi
hành án và các hoạt động liên quan đến những hoạt động nghiệp vụ để phát hiện, xử
lý những sai phạm theo quy định pháp luật, phục vụ hướng dẫn, trao đổi nghiệp vụ,
tổng kết kinh nghiệm xét xử, phòng ngừa vi phạm và nhân rộng những ưu điểm,
những cách làm mới, phục vụ công tác thi đua khen thưởng, hoạt động quản lý hành
chính – tư pháp và cơng tác tổ chức cán bộ.
Tòa án nhân dân là cơ quan ra các quyết định về thi hành án hình sự, giải
thích bản án, quyết định giải quyết các loại án, loại việc theo yêu cầu của cơ quan
thi hành án và công dân, ra quyết định buộc thi hành án hành chính khi có đơn u
cầu, phối hợp với cơ quan chức năng, cơ quan liên quan trong công tác thi hành án
theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên đến nay, công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án vẫn cịn
những bất cập như cơng tác kiểm tra nghiệp vụ trong hệ thống Tịa án chưa được
luật hóa, người làm công tác kiểm tra cũng chưa được quan tâm đào tạo chuyên
môn về công tác này, trong thời gian dài chưa có hành lang pháp lý về cơng tác
kiểm tra; pháp luật về thi hành án thời gian qua ngồi việc quy định ở luật chun
ngành, cịn quy định tại luật tổ chức và nhiều văn bản dưới luật do nhiều cơ quan
ban hành, phối hợp ban hành nên việc đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm tra nghiệp
vụ và thi hành án thời gian qua cũng có khó khăn, bất cập nhất định.
Quá trình đổi mới theo chủ trương của Đảng, các lĩnh vực đời sống xã hội
từng bước phát triển, đã thúc đẩy hệ thống pháp luật được kiện tồn để phát huy vai
trị của nó trong thực tiễn. Do đó, tất yếu cơng tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
trong hệ thống Tòa án nhân dân ngày càng là vấn đề mang tính thời sự.
Vì thế, tơi chọn đề tài “Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và Thi hành án từ thực
tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tìm hiểu thấy rằng, liên quan đến lĩnh vực pháp luật về thi hành án hình sự,
pháp luật về thi hành án phạt tù có thời hạn nói riêng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu,
nhiều bài viết trên tạp chí với nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, phạm vi khác nhau, như:
2
Sách “Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của PGS.TS. Võ Khánh Vinh và PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng đã đề cập
đến thực trạng pháp luật về mơ hình tổ chức thi hành án hình sự và phương hướng,
giải pháp hồn thiện;
Sách “Thử bàn về pháp luật thi hành án” của TS. Nguyễn Đình Lộc đã
nghiên cứu về bản chất, nội dung hoạt động thi hành án, tính tư pháp và tính hành
chính trong pháp luật về thi hành án hình sự, dân sự, hành chính;
Sách “Hồn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực Thi hành án hình sự ở
Việt Nam” của TS. Vũ Trọng Hách, do nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2006 đã
nghiên cứu các quan điểm về bản chất, nội dung của thi hành án hình sự, thực trạng
và phương hướng, giải pháp hồn thiện pháp luật về mơ hình quản lý Nhà nước
trong thi hành án hình sự;
“Một số vấn đề về thi hành án hình sự” của TS. Trần Quang Tiệp, do nhà
xuất bản Cơng an nhân dân xuất bản năm 2002; “Bình luận khoa học Luật thi hành
án hình sự” Nxb Hồng Đức (2011) của TS. Trần Minh Hưởng;
Bài viết “Thực trạng pháp luật thi hành án phạt tù và phương hướng hồn
thiện” của TS. Phạm Văn Lợi, đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02/2006
đã phân tích thực trạng thi hành án phạt tù, đề xuất mơ hình tổ chức bộ máy thi hành
án và trình tự, thủ tục, thẩm quyền thi hành án phạt tù;
Bài “Thực trạng cơng tác thi hành án hình sự và những kiến nghị” của TS.
Nguyễn Phong Hồ, đăng trên tạp chí TAND số 21/2006 đã nghiên cứu từ thực tiễn
về công tác thi hành án hình sự, kiến nghị hồn thiện Luật tổ chức, Luật chuyên
ngành về trình tự, thủ tục, thẩm quyền thi hành án hình sự;
Luận văn Thạc sỹ luật học “Những vấn đề về thi hành án phạt tù có thời hạn
ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Nam (2010). Luận văn Thạc sỹ luật học “Một số vấn
đề thi hành án hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền con người” của Hứa
Thị Thơ (2011). Luận văn Thạc sỹ luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
hoãn thi hành án trong Luật thi hành án hình sự Việt Nam” của Nguyễn Văn Sơn
(2014) đã nghiên cứu các khía cạnh cụ thể của hoạt động thi hành án hình sự;
3
Bài “Những vấn đề cần chú ý khi phục hồi điều tra vụ án, bắt, tạm giữ, tạm
giam người bị truy nã, phục hồi điều tra bị can” của Dương Ngọc An, Tạp chí Kiểm
sát số 06/2010 viết về cơ quan điều tra, VKS, Tòa án cần chú ý rà sốt những
trường hợp tạm đình chỉ để đưa ra đình chỉ những vụ án đủ điều kiện trong các
trường hợp: Đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, truy tố, chuẩn bị xét xử, đưa ra xét xử
nhưng tạm đình chỉ do bị can, bị cáo bỏ trốn, sau đó do pháp luật hình sự thay đổi
nên hành vi đã bị khởi tố không bị coi là tội phạm; Chưa khởi tố bị can nhưng hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự…để tránh phục hồi điều tra vụ án, khởi tố,
truy tố, đưa ra xét xử oan, sai và hoạt động kiểm sát giam, giữ và thi hành án hình
sự, hoạt động kiểm tra cần chú ý các vấn đề này…).
Mặc dù có nhiều cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến các nội dung cơ bản về
thi hành án và hoạt động kiểm tra nghiệp vụ nhưng chưa có cơng trình nào nghiên
cứu tồn diện,có hệ thống về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tịa
án nhân dân tỉnh nói chung và Tịa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Do đó,
tác giả chọn hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi để nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tịa án nhân dân tỉnh nói chung và Tịa
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, qua đó góp phần tác động tích cực đến các
hoạt động chun mơn của 2 cấp Tịa án trong tỉnh Quảng Ngãi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất các giải pháp đảm bảo hoạt động
kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi trên cơ sở
nghiên cứu lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án trong hệ thống
Tịa án nhân dân và phân tích những kết quả đạt được và hạn chế trong thực hiện
hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án trong
hệ thống Tòa án nhân dân.
4
- Nghiên cứu hệ thống các quy định của pháp luật về các lĩnh vực công tác cụ
thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Tòa án và các hoạt động kiểm tra nghiệp vụ,
hoạt động thi hành án
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và
thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
- Đề xuất các giải pháp đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật, của hệ thống
Tòa án và quy định của TAND tỉnh Quảng Ngãi về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và
thi hành án gắn với thực tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung:
Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án cấp tỉnh là một vấn
đề rất rộng và đa dạng. Tuy nhiên, với phạm vi Luận văn Thạc sỹ, đề tài tập trung
nghiên cứu lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án và thực tiễn thi
hành đối với hoạt động kiểm tra nghiệp vụ trong lĩnh vực hình sự, dân sự, hành
chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp, về hành chính – tư pháp và hoạt động
thi hành án hình sự, án hành chính.
- Phạm vi khơng gian:
Đề tài nghiên cứu về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi thời gian:
Đề tài nghiên cứu về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian từ năm 2013 đến năm 2017, từ đó làm cơ
sở đánh giá kết quả, đồng thời tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của nó để đề ra
các giải pháp góp phần hồn thiện hoạt động này.
5
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, đề tài sử dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, gồm: nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến; phạm trù nhân quả, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực; lý
luận nhận thức; pháp luật xã hội chủ nghĩa về vi phạm pháp luật, về các giai đoạn của
quá trình áp dụng pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta vận
dụng Chủ nghĩa Mác – Lê nin vào quá trình thực tiễn cách mạng Việt Nam về mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, về nguyên tắc tổ chức hoạt động và
chức năng, nhiệm vụ, bản chất của Nhà nước ta, về phương pháp giải quyết đấu tranh
giai cấp, ghi nhận và bảo vệ quyền con người, trách nhiệm của cán bộ công chức với
nhân dân, với Đảng, với Nhà nước; cơ chế phối hợp và chế ước trong hệ thống các cơ
quan tư pháp của nước ta; mơ hình tố tụng đan xen trong các luật tố tụng; tư tưởng về
đổi mới và quá trình đổi mới cùng các quan điểm của Đảng ta về cải cách tư pháp, về
chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân.
- Về phương pháp nghiên cứu: Để giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi
nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của triết học Mác-Lênin cùng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như
phương pháp phân tích hệ thống; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh;
phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu và các giải pháp trong luận văn cung cấp thông tin về
lý luận và hoạt động thực tiễn với những biện pháp cải tiến đang và cần phải được
tiếp tục áp dụng trong công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án để góp phần cho
việc ln chú trọng khắc phục những tồn tại hạn chế, phát huy những ưu điểm,
tiếp tục tìm những giải pháp hữu ích trong q trình thực hiện các hoạt động này
khơng chỉ đối với Tịa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, mà chúng tơi cho rằng cịn có
thể được các Tịa án nhân dân 2 cấp các tỉnh xem xét ứng dụng, góp phần thiết
thực nâng cao kết quả, chất lượng, hiệu quả hoạt động tố tụng và thi hành án cũng
như hoạt động kiểm tra để ngày càng thực hiện tốt chức năng xét xử và thực hiện
6
quyền tư pháp của hệ thống Tòa án cũng như phục vụ chức năng giám đốc xét xử,
tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn nghiệp vụ của Tòa án nhân dân cấp trên
đối với Tòa án nhân dân cấp dưới, bảo đảm pháp chế thống nhất trong hoạt động
tố tụng, bảo đảm tính đúng đắn, kịp thời trong hoạt động thi hành án cũng như góp
phần thiết thực phục vụ yêu cầu chính trị của các địa phương trong quá trình thực
hiện các mục tiêu phát triển.
Luận văn cịn có thể cung cấp thơng tin cho người quan tâm để ứng dụng trong
thực tiễn quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, trong
điều tra, truy tố án hình sự; việc thụ lý, giải quyết các loại án theo các thủ tục tố tụng,
cấp tố tụng, góp phần nâng cao hiệu quả trong giải quyết các tranh chấp dân sự, trong
đấu tranh phòng chống các loại vi phạm, tội phạm và hoạt động thi hành án hình sự
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, trên phạm vi tồn quốc nói chung.
Luận văn cịn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong xây dựng
pháp luật thi hành án, pháp luật dân sự, hành chính, hình sự, pháp luật tố tụng hình
sự về hoạt động chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần tích lũy tri
thức, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng và hoạt động thi hành án hình sự, phục
vụ hoạt động quản lý hành chính – tư pháp, góp phần hồn thiện chế định công tác
kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của hệ thống Tòa án, nâng cao ý thức trách nhiệm
của những người làm công tác này, ngăn chặn vi phạm trong hoạt động tư pháp và
phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập.
7. Cơ cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, nội dung gồm ba chương, mỗi
chương có tiểu kết luận, kết thúc Luận văn có kết luận; được kết cấu như sau:
- Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và
thi hành án của tòa án nhân dân tỉnh
- Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
- Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp đảm bảo hoạt động kiểm tra
nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ
VÀ THI HÀNH ÁN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH
1.1. Khái quát về Tòa án nhân dân tỉnh
Trong bộ máy nhà nước ta hiện nay, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực
hiện quyền tư pháp. Luật tổ chức TAND năm 2014 đã qui định tổ chức TAND bao
gồm: TAND tối cao; các TAND cấp cao; các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương;
các Toà án quân sự (Điều 3 Luật tổ chức TAND năm 2014). Như vậy Tòa án nhân
dân tỉnh là một bộ phận trong hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân hiện nay.
1.1.1. Vị trí của Tịa án nhân dân tỉnh
Tòa án nhân dân tỉnh xét xử nhân danh Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam, căn cứ vào pháp luật hiện hành của nhà nước để đưa ra những phán
quyết thể hiện trực tiếp ý chí của nhà nước, của nhân dân đối với từng vụ việc cụ
thể. Ý chí đó được thể hiện bằng những quyết định mang tính chất pháp lý cao,
đánh giá khách quan bản chất sự việc cụ thể và được thể hiện dưới hình thức là bản
án hay quyết định. Như vậy, hoạt động xét xử của TAND tỉnh phản ánh một cách
trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà nước, ý chí của nhân dân.
Thơng qua hoạt động xét xử của mình, Tịa án nhân dân tỉnh thực hiện được
việc kiểm tra hành pháp của các cơ quan nhà nước, quyền công dân, quyền con
người thông qua hoạt động xét xử, hơn nữa là cịn góp phần bảo vệ trật tự xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, TAND cấp tỉnh có vị trí trung tâm trong việc tổ chức,
thực hiện quyền tư pháp ở cấp tỉnh, với chức năng tổ chức và tiến hành hoạt động
xét xử . Đây là một trong những quan điểm cơ bản định hướng hoạt động cải cách
tư pháp đã được khẳng định trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp nước ta đến năm 2020 và đã được Hiến
pháp năm 2013 quy định tại điều 102.
8
1.1.2. Chức năng của Tòa án nhân dân tỉnh
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân gồm: Tòa án
nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định, là cơ quan xét xử của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Trên cơ sở các qui định
nêu trên, các đạo luật về tổ chức TAND các năm 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014
đều khẳng định chức năng xét xử của cơ quan Tòa án. Xuất phát từ địa vị pháp lý
của Tòa án, trên cơ sở các qui định của pháp luật, nhất là các qui định của các đạo
luật về tổ chức Tòa án và các đạo luật về tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy rằng,
chức năng xét xử của Tòa án là chức năng xuyên suốt, thống nhất trong suốt quá
trình ra đời và phát triển của Tòa án. Với tư cách là một trong các cấp của hệ thống
Tịa án, TAND tỉnh có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh
thương mại, lao động, hành chính thuộc thẩm quyền theo qui định của pháp luật.
Bên cạnh chức năng xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền, theo qui định của pháp luật
tố tụng, TAND tỉnh cịn có trách nhiệm trong một số hoạt động thi hành án hình sự,
hành chính. Cụ thể như việc ra quyết định thi hành án hình sự, hỗn hoặc tạm đình
chỉ thi hành án phạt tù, xét giảm hình phạt hoặc thời gian thử thách của án treo, xét
miễn chấp hành hình phạt, ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành
hình phạt tử hình; ra quyết định thi hành án hành chính. Điểm mới theo Luật Tổ
chức Tịa án nhân dân năm 2014 là thêm chức năng kiểm tra bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
và tương đương, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy
định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị.
1.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân tỉnh
Theo quy định tại Điều 37 Luật Tổ chức TAND năm 2014, Tòa án nhân dân
cấp tỉnh có các nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
- Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật.
- Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
9
- Kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện có vi phạm pháp
luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa
án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị.
- Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.
1.1.4. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh
Thẩm quyền xét xử của Tòa án là một trong các nội dung của hệ thống pháp
luật về tổ chức và hoạt động của TAND. Theo từ điển Luật học thì “thẩm quyền xét
xử là sự phân định thẩm quyền xét xử các vụ án giữa các Tòa án với nhau. Việc
phân định thẩm quyền xét xử căn cứ vào những dấu hiệu nhất định và tính chất của
từng vụ án cụ thể; thẩm quyền xét xử theo loại việc, thẩm quyền xét xử theo lãnh
thổ hoặc theo địa phương, thẩm quyền xét xử theo vụ án có liên quan với nhau”.
Vấn đề thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp tỉnh là nội dung phức tạp vì nó có liên
quan đến thẩm quyền xét xử đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương
mại, lao động, hành chính và các việc khác theo qui định của pháp luật qua các thời
kỳ khác nhau, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn tư pháp.
- Thẩm quyền của TAND cấp tỉnh được qui định như sau:
+ Điều 37 Luật Tổ chức TAND năm 2014 và khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015 qui định TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử: Sơ thẩm những vụ
việc theo quy định của pháp luật tố tụng; sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội
phạm khơng thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án cấp dưới mà TAND cấp tỉnh lấy lên để xét xử; phúc thẩm vụ việc
mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo
quy định của pháp luật. Kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa
án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện
có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị
với Chánh án Tịa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét,
kháng nghị; và giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.
10
+ Theo Điều 37 BLTTDS 2015, TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm những vụ việc: Tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của BLTTDS, trừ
những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy
định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 35 của BLTTDS; u cầu về dân sự, hơn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 27, 29, 31 và 33
của BLTTDS, trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
cấp huyện quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 35 của BLTTDS; tranh chấp, yêu
cầu quy định tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật này. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của BLTTDS mà
Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc
theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện.
+ Theo Điều 32 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì Tịa án cấp tỉnh giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây: Khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Văn phịng Chủ tịch nước, Văn phịng Quốc hội, Kiểm tốn nhà nước, Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính,
hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi
kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Tịa án; trường hợp người khởi kiện khơng có nơi cư trú, nơi làm việc
hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tịa án nơi
cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan thuộc một
trong các cơ quan nhà nước quy định tại khoản 1 Điều này và quyết định hành
chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người
khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Tịa án; trường hợp người khởi kiện khơng có nơi cư trú, nơi làm việc
hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tịa án nơi
11
cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp
tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tịa án và của người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước đó. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi
hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tịa án. Khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại diện của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngồi hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan
đó mà người khởi kiện có nơi cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành chính với
Tịa án; trường hợp người khởi kiện khơng có nơi cư trú tại Việt Nam thì Tịa án
có thẩm quyền là Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng
đầu cơ quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương mà người khởi kiện có nơi
làm việc khi bị kỷ luật trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tịa án. Khiếu
kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà
người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa
giới hành chính với Tịa án. Trong trường hợp cần thiết, Tịa án cấp tỉnh có thể
lấy lên giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp
huyện theo quy định tại Điều 31 của Luật Tố tụng hành chính 2015.
1.2. Những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án
nhân dân tỉnh
1.2.1. Khái niệm hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh
Trong xã hội lồi người, hoạt động quản lý khơng phải là nhu cầu mang tính
lịch sử mà là nhu cầu vĩnh viễn. Nói một cách khác, kiểm tra sẽ tồn tại cùng với loài
người kể cả khi xã hội loài người khơng cịn giai cấp. Ăng ghen đã chỉ ra “Chức
năng quản lý đơn thuần là chăm lo đến lợi ích của xã hội”.
Vì thế, bất cứ hoạt động cơng hay tư và thuộc lĩnh vực nào cũng cần có kiểm
tra, bởi đây là khâu không thể thiếu đối với vai trò quản lý. Quản lý nhà nước lại
càng cần có kiểm tra. Chỉ nói riêng sự kiểm tra đối với các quyết định và hành vi
12
trong lĩnh vực hành chính, lĩnh vực tư pháp, hành chính–tư pháp cũng bao gồm
phạm vi rất rộng: Kiểm tra tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính cần thiết; kiểm tra của
cấp trên đối với cấp dưới…Hoạt động quản lý nhà nước trong quá trình thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều phải chịu sự kiểm tra, thanh tra, giám
sát. Một cơ quan nắm trọn quyền hạn, thẩm quyền trong thực hiện quyền lực nhà
nước mà khơng được kiểm tra thì dễ phát sinh lộng quyền, cửa quyền, lạm quyền vì
động cơ mục đích cá nhân, cục bộ bản vị ngành, địa phương. Tùy theo bản chất, đối
tượng, chủ thể tổ chức thực hiện, chúng ta đã dùng những thuật ngữ khác nhau để
chỉ sự kiểm tra: giám sát, kiểm sát, thanh tra, kiểm tra. Cơ cấu tổ chức và cơ chế
kiểm tra của Nhà nước ta gồm nhiều loại hình kiểm tra nói trên.
Theo Từ điển tiếng Việt của tác giả Phan Canh (nhà xuất bản Mũi Cà Mau,
1997) thì, “kiểm tra” được xem là kiểm xét, tra cứu [7, tr.651]; còn “nghiệp vụ” được
xem là việc làm, nghề [7, tr.874]. Từ điển pháp luật Anh - Việt của tác giả Nguyễn
Thế Kỳ (nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1994) thì “Kiểm tra” là xem xét tình
hình thực tế để đánh giá, nhận xét [12, tr.203], để chỉ hoạt động của chủ thể kiểm tra
tác động vào chủ thể được kiểm tra.
Khái niệm kiểm tra: Theo nghĩa rộng, để chỉ hoạt động của các tổ chức xã
hội, các đoàn thể và của công dân kiểm tra hoạt động bộ máy của nhà nước. Theo
nghĩa này, tính quyền lực nhà nước trong kiểm tra bị hạn chế vì các chủ thể thực
hiện kiểm tra khơng có quyền áp dụng trực tiếp những biện pháp cưỡng chế nhà
nước. Theo nghĩa hẹp, kiểm tra là hoạt động của chủ thể nhằm tiến hành xem xét,
xác định một việc gì đó của đối tượng bị quản lý xem có phù hợp hay khơng phù
hợp với u cầu đòi hỏi của pháp luật và chủ thể kiểm tra có thể áp dụng các chế tài,
biện pháp pháp lý theo quy định của pháp luật.
Xét về chủ thể thì phạm vi chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra đa dạng hơn
thanh tra. Chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước hoặc cũng có thể là một
chủ thể phi Nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra của một tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động kiểm tra trong nội bộ một doanh nghiệp. Trên
một bình diện rộng hơn nữa, kiểm tra có thể là sự xem xét thực tế để đánh giá, nhận
13
xét của bất kỳ một cá nhân nào trong xã hội trong bất cứ một hoạt động nào. Khi
con người biết lao động một cách có ý thức thì đã xuất hiện yêu cầu tất yếu là phải
kiểm tra, như Ăng ghen đã nói “Mỗi hoạt động có ý thức, có tổ chức của con người
đều chứa đựng trong đó những yếu tố của kiểm tra. Đối với mỗi con người tự nhiên,
mỗi cộng đồng nguyên thuỷ, kiểm tra được xem như là phương thức hành động để
thực hiện mục đích”. Như vậy, về lịch sử hình thành và phát triển thì kiểm tra xuất
hiện trước thanh tra và xuất hiện trước khi có sự ra đời của Nhà nước đầu tiên trong
lịch sử và kiểm tra cũng là yếu tố cơ bản để hình thành Nhà nước.
Kiểm tra gắn liền với công việc của một tổ chức, cá nhân nhất định và mang
tính định hướng của chủ thể kiểm tra để cho các hoạt động của chủ thể được kiểm
tra ngày càng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, chức trách được giao và sự phân
công, phối hợp giữa các chủ thể này ln hồn thiện để hồn thành tốt kế hoạch đã
đề ra. Do vậy, khi kiểm tra phải nắm tình hình thực tế để đánh giá xác đáng rằng các
chủ thể được kiểm tra có đủ các yếu tố, các điều kiện cần thiết để thực hiện tốt các
hoạt động được giao hay không. Khi kết luận kiểm tra hiệu quả thực tế đối với các
chủ thể được kiểm tra phải đối chiếu với kế hoạch đặt ra của chủ thể kiểm tra và có
thể đối với cả chủ thể được kiểm tra. Từ đó mới có cơ sở hướng dẫn và điều chỉnh
kịp thời các yếu tố liên quan để đảm bảo hiệu quả công việc của từng đơn vị, cá
nhân được kiểm tra và đạt mục đích kiểm tra.
Kiểm tra nội bộ trong hoạt động quản lý cơng có mục tiêu tìm kiếm động cơ,
ngun nhân cán bộ làm tốt hay không nhiệm vụ được giao để đề ra và tổ chức thực
hiện các giải pháp thiết thực thúc đẩy, nhân rộng cái tốt, hạn chế cái chưa tốt . Tuy
nhiên, ngoài hoạt động kiểm tra nội bộ của bộ máy quản lý, thì hoạt động quản lý
cơng cũng chịu sự kiểm tra ở ngồi hệ thống nội bộ, đó là kiểm sốt ngoại lai với rất
nhiều chủ thể, nhiều lý do, phương thức, biện pháp, phạm vi, mục đích.
Kiểm tra là một hoạt động thường xun, do tính chất này mà chúng ta
khơng thể nói là đã có một hệ thống hay cơ chế kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có những
người lãnh đạo tổ chức và những cán bộ, tổ chức chuyên trách tham gia vào hoạt
động kiểm tra. Điều quan trọng là phải thiết lập được hệ thống tự kiểm tra và một nề
14
nếp kiểm tra lẫn nhau trong nội bộ tổ chức, giữa hai nhân tố chủ quan và khách
quan trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một cơng việc.
Từ những phân tích trên có thể hiểu kiểm tra nghiệp vụ trong hệ thống Tòa
án là hoạt động mang tính nội bộ của chủ thể kiểm tra đối với chủ thể được kiểm tra
để đánh giá hiệu quả hoạt động của chủ thể được kiểm tra và vai trò quản lý, lãnh
đạo, điều hành của chủ thể kiểm tra nhằm phát huy ưu điểm, phát hiện kịp thời và
giải quyết các vi phạm, sai lầm trong hoạt động nghiệp vụ theo các quy định của
pháp luật. Đây là hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước trong quản lý hành chính
– tư pháp để thực hiện tốt chức năng xét xử và quyền tư pháp.
Đối với Tòa án nhân dân tỉnh, kiểm tra nghiệp vụ là hoạt động xem xét đánh
giá hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân huyện trực thuộc và vai trò quản lý,
lãnh đạo, điều hành của Tòa án nhân dân tỉnh nhằm phát huy ưu điểm, phát hiện kịp
thời và giải quyết các vi phạm, sai lầm trong hoạt động nghiệp vụ theo các quy định
của pháp luật để thực hiện tốt chức năng xét xử và quyền tư pháp.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh
Xuất phát từ quan hệ pháp luật mang tính quyền lực giữa chủ thể kiểm tra
với chủ thể được kiểm tra, hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tịa án nhân dân tỉnh
có những đặc điểm sau:
- Là quyền và nghĩa vụ pháp lý của người có thẩm quyền. Hoạt động kiểm
tra nghiệp vụ là một việc làm thường xuyên nhằm đảm bảo cho hệ thống Tòa án
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp luật. Người có quyền kiểm
tra, cũng chính là nghĩa vụ pháp lý của họ. Kiểm tra nghiệp vụ là một hoạt động có
định hướng và thể hiện sự văn minh của xã hội cũng như của pháp luật.
- Được tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định. Kiểm
tra nghiệp vụ là hoạt động áp dụng pháp luật của người có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật khi đề ra kế hoạch với các phương pháp để kiểm tra những
hành vi, sản phẩm của những cơ quan, tổ chức, cá nhân được kiểm tra, nhất là
kiểm tra các hoạt động tố tụng và thi hành án, trong đó có những hồ sơ các loại vụ
án mà bản án hoặc quyết định xử lý vụ án của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật, đã
15
hoặc đang hoặc sẽ thi hành án để xác định tính đúng, sai, thậm chí nếu phát hiện
có sai lầm nghiêm trọng thì phải xử lý theo pháp luật và xử lý theo quy định của
ngành Tòa án đối với người vi phạm. Cho nên hoạt động này phải được tuân theo
trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định thì mới có giá trị pháp lý về
tính căn cứ và tính hợp pháp.
- Mang tính khách quan. Hoạt động kiểm tra phải mang tính khách quan của
sự xem xét đánh giá từ phía chủ thể kiểm tra đối với chủ thể được kiểm tra; không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của chủ thể kiểm tra hay chủ thể được kiểm tra.
Kết quả kiểm tra phải chỉ ra được đầy đủ và kịp thời những ưu điểm, những cái tốt,
những cách làm hay, những vướng mắc, hạn chế tồn tại và nguyên nhân, có biện
pháp pháp lý để khắc phục đúng thời hạn sai lầm, vi phạm nhằm phòng ngừa hoặc
ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả và đề ra các giải pháp để khắc phục hạn chế. Kết
quả kiểm tra còn phục vụ yêu cầu về cơng tác tổ chức cán bộ, thi đua khen thưởng.
Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ;
nếu kiểm tra nhằm chỉ tìm ra cái sai vì lý do cá nhân, bao che sai phạm của nhau
hoặc kết luận kiểm tra không khách quan do năng lực người kiểm tra hoặc do kiểm
tra sơ sài, cảm tính, do sự chống đối của chủ thể được kiểm tra, thì sẽ đi ngược lại
với mục đích yêu cầu của hoạt động này và gây ra những hệ lụy xấu cho xã hội.
- Mang tính cá biệt, tính linh hoạt và sáng tạo trong áp dụng pháp luật. Hoạt
động áp dụng pháp luật có các giai đoạn phổ biến: phân tích đánh giá bản chất vụ
việc, lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng, kiểm tra lại việc lựa chọn đó, ra văn
bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành văn bản đó. Đặc điểm của hoạt động áp
dụng pháp luật là mang tính ý chí, tính quyền lực Nhà nước, mang tính cá biệt, tính
bắt buộc thực hiện và mang tính sáng tạo, linh hoạt của chủ thể.
Các lĩnh vực hoạt động nghiệp của Tịa án chính là hoạt động áp dụng pháp
luật, nhất là các hoạt động tố tụng và thi hành án. Mỗi một hành vi hay sản phẩm
của hoạt động tố tụng và thi hành án hay trong quản lý hành chính – tư pháp cũng
đều mang tính cá biệt, tính linh hoạt và sáng tạo vì đây là các thuộc tính của hoạt
động áp dụng pháp luật.
16
Cần nhận thức rằng, tính linh hoạt và sáng tạo là nhân tố chủ quan của người
có hành vi hay sản phẩm được kiểm tra, có nền tảng từ tinh thần trách nhiệm đối với
nghề nghiệp, với công việc được giao, từ trình độ văn hóa, trình độ pháp luật, trình
độ về khoa học cơ bản, các kiến thức, kinh nghiệm, từ việc đề cao ý thức pháp luật,
niềm tin nội tâm… vì hoạt động áp dụng pháp luật khơng phải là khn mẫu cứng
nhắc. Tính linh hoạt và sáng tạo của chủ thể được kiểm tra hoàn toàn trái ngược với
sự thờ ơ thiếu trách nhiệm, chủ quan duy ý chí hay tùy tiện hoặc vì động cơ cá nhân
nào khác khi thực hiện các hành vi pháp lý, ban hành các sản phẩm pháp lý, mà đó
là thể hiện cao độ của sự tinh thông nghề nghiệp, sự kết hợp giữa lý luận với năng
lực thực tiễn và thể hiện cao độ trách nhiệm và bản lĩnh của mình.
Vì thế, chủ thể kiểm tra khi kiểm tra, đánh giá về mặt pháp lý từng hành vi hay
sản phẩm của chủ thể được kiểm tra cũng phải thể hiện và tơn trọng các thuộc tính
trên thì mới có thể nhận thức, đánh giá và kết luận đúng từng hành vi, sản phẩm. Khi
tơn trọng các thuộc tính này, từ đó, khi cần thiết thì chủ thể kiểm tra mới có thể có
nhận xét đánh giá mang tính chung đối với từng loại hành vi, từng loại sản phẩm.
1.2.3. Đối tượng của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh
Có nhiều ý kiến cho rằng, đối tượng kiểm tra chính là những con người, cơ
quan, tổ chức, cá nhân mà chịu sự lãnh đạo, điều hành, quản lý của chủ thể kiểm tra.
Theo ý kiến này, trong hệ thống TAND thì TAND cấp trên, như TAND tỉnh thì
Chánh án Tịa án nhân dân tỉnh là chủ thể kiểm tra, cịn các Phó Chánh án, các
Chánh Tịa, các Thẩm phán và các cơng chức khác trong Tịa án tỉnh cùng tất cả các
cán bộ, công chức của các Tòa án nhân dân cấp huyện trực thuộc Tòa án nhân dân
tỉnh đều là đối tượng kiểm tra.
Ngược lại, chúng tôi cho rằng, tùy theo từng ngành, cơ quan, tổ chức, mà đối
tượng kiểm tra chính là hoạt động tuân thủ các quy định của pháp luật, các văn bản
dưới luật, các nội quy, quy chế, điều lệ…của các chủ thể được kiểm tra là các cá
nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, chức trách
được giao. Từ đó, đối với TAND cấp tỉnh thì Chánh án là chủ thể kiểm tra, cịn đối
tượng kiểm tra chính là hoạt động tuân thủ các quy định của pháp luật nội dung,
17
pháp luật tố tụng, pháp luật chuyên ngành, pháp luật về thi hành án, pháp luật về án
phí, lệ phí, pháp luật khác có liên quan, các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật,
các nội quy, quy chế của hệ thống Tòa án, của TAND tỉnh của tất cả cán bộ, cơng
chức, người lao động của 2 cấp Tịa án chịu sự quản lý, chỉ đạo điều hành của
Chánh án TAND tỉnh và những người này là chủ thể được kiểm tra.
1.2.4. Nguyên tắc của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh
Nguyên tắc của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ cũng chính là tư tưởng chỉ đạo
trong quá trình xây dựng pháp luật và hạ tầng pháp lý với các thuộc tính của nó,
được chủ thể kiểm tra, chủ thể được kiểm tra nhận thức, quán triệt, tôn trọng và tuân
thủ thi hành nghiêm túc; từ đó, nguyên tắc này sẽ phải được hiện thực hóa cả trong
q trình tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của hệ thống Tòa án. Các nguyên tắc cơ
bản cần phải tuân thủ trong hoạt động kiểm tra nghiệp vụ như sau:
- Nguyên tắc xuất phát từ lợi ích chung: Khi xác định mục đích kiểm tra,
khi tiến hành kiểm tra và khi kết luận, phải xuất phát từ lợi ích chung, phải
khách quan, thực sự cầu thị, khơng định kiến, thiên lệch, phải đặt lợi ích của toàn
hệ thống lên trên hết.
- Nguyên tắc kịp thời và có hiệu quả: Kiểm tra phải đạt được yêu cầu phát
hiện và rút kinh nghiệm kịp thời, thường xuyên đối với vi phạm, sai sót. Khi kiểm
tra phải đánh giá được ưu điểm, hạn chế tồn tại và phải có có biện pháp phát huy ưu
điểm, khắc phục hạn chế, tồn tại, kiên quyết không cho những vi phạm, sai sót lặp
lại và phải có thái độ xử lý đúng mực đối với cá nhân hay tập thể mắc khuyết điểm.
- Nguyên tắc thủ trưởng có trách nhiệm kiểm tra: Chánh án TAND tỉnh có
trách nhiệm thực hiện sự kiểm tra trong phạm vi quản lý hệ thống Tòa án hai cấp.
Các Chánh tòa, Trưởng phòng, Chánh án cấp huyện phải chịu trách nhiệm trước
Chánh án TAND tỉnh.
- Nguyên tắc mỗi cá nhân tham gia kiểm tra: Về quản lý cũng như về kiểm
tra phải huy động được sự tham gia rộng rãi của tất cả cán bộ công chức trong hệ
18