Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bài giảng Hội chứng ruột kích thích - Ths.BS. Vũ Thị Thu Trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.49 KB, 7 trang )

HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH
Ths.BS. Vũ Thị Thu Trang
MỤC TIÊU
1. Mô tả được triệu chứng lâm sàng và các thể lâm sàng của hội chứng ruột
kích thích.
2. Trình bầy được tiêu chuẩn Rome IV (2016) chẩn đoán hội chứng ruột kích
thích và các bệnh cần phân biệt.
3. Trình bày các biện pháp điều trị hội chứng ruột kích thích.
NỘI DUNG
1. Đại cương
- Hội chứng ruột kích thích (HCRKT) là hội chứng bao gồm một số triệu
chứng rối loạn tiêu hoá thường gặp, diễn biến mạn tính hay tái phát, nguyên nhân
khơng rõ ràng mà điển hình là đau bụng và rối loạn đại tiện.
- Là một hội chứng thường gặp trong cộng đồng và thực hành lâm sàng. ở Mỹ
có tới 50% số người đến khám bệnh vì triệu chứng rối loạn tiêu hoá là do rối loạn
chức năng hệ tiêu hố. Trong cộng đồng người Mỹ có tới 10% - 20% mắc
HCRKT, ở Trung Quốc: 20%, ở Việt Nam: 13,4 - 17,3%.
- Về thuật ngữ: năm 1673 Louis Guyon đã nói về chứng đau bụng đầy hơi.
Năm 1830, Ryle cơng nhận có hội chứng ruột co thắt. Năm 1849, Cumming nói
đến hội chứng ruột dễ kích thích. Năm 1944, hội chứng ruột dễ kích thích được thế
giới cơng nhận. Năm 1990 và 9/1999 một nhóm các nhà nghiên cứu lâm sàng tiêu
hoá quốc tế đã họp ở Rome thống nhất đưa ra các tiêu chuẩn chẩn đoán các chứng
rối loạn chức năng hệ thống tiêu hoá.
2. SINH BỆNH HỌC
Hiện nay sinh bệnh học của HCRKT còn nhiều bàn cãi và còn phải nghiên
cứu tiếp.
2.1. Rối loạn vận động và cảm giác của ruột
Đây là yếu tố quan trọng trong sinh bệnh học của HCRKT được những tác giả
nghiên cứu và cơng nhận. Bằng phương pháp đưa bóng nhỏ đo áp lực từng đoạn



toàn bộ đại tràng trong những thời điểm khác nhau và những điều kiện khác nhau
người ta nhận thấy trong HCRKT, vận động của đại tràng cơ bản không thay đổi.
Nhưng đại tràng có thể đáp ứng tăng lên với các yếu tố: Stress, thuốc (đặc biệt là
thuốc nhóm Cholinergic), các hormon (ví dụ Cholecytokinine)... và có rối loạn vận
chuyển khối phân: vận chuyển nhanh khi có ỉa lỏng, vận chuyển chậm khi có táo
bón. Mặt khác sự đáp ứng với thức ăn của đại tràng ở người HCRKT chậm hơn
nhưng lại mạnh hơn và kéo dài hơn. Điều này giải thích triệu chứng đau bụng hay
xảy ra sau ăn. Ở ruột non cũng có rối loạn về tần số, thời gian và biên độ của nhu
động ruột: Thường ruột non bị co thắt kéo dài lúc thức (trừ lúc ngủ) giải thích tại
sao người HCRKT lại khơng bị đánh thức do đau bụng lúc ngủ.
Người ta biết rằng trong nội soi đại tràng, người bị HCRKT thường bị đau
nhiều hơn người bình thường mặc dù lượng khí bơm vào như nhau. Đó là do cảm
giác của ruột tăng lên. Người bệnh thường phàn nàn về cảm giác đầy chướng,
nhưng qua nghiên cứu người ta thấy lượng khí trong ruột người bị HCRKT khơng
khác người bình thường, nhưng sự vận chuyển khí lại chậm hơn, thậm chí có hiện
tượng trào ngược khí từ tá tràng lên dạ dày và có sự rối loạn phân bố khí trong
ruột.
2.2. Rối loạn vận chuyển ngoài ruột
Ở người HCRKT rối loạn vận chuyển ruột có liên quan đến rối loạn vận động
của cơ trơn ở các cơ quan ngoài ruột: phổi, bàng quang, niệu quản, túi mật... hoặc
ở ngay hệ tiêu hoá như dạ dày, thực quản. Chính vì vậy mỗi khi các cơ quan trên bị
bệnh cũng có thể ảnh hưởng đến ruột và ngược lại ở người HCRKT vị trí đau có
khi lại ở rất xa vị trí của ruột, ngay cả ở ngoài ổ bụng.
2.3. Yếu tố tâm lý
Người HCRKT thường có biểu hiện rối loạn tâm lý: lo lắng, căng thẳng, băn
khoăn về bệnh tật của mình. Có thể bị ám ảnh, thường tưởng ra nhiều loại bệnh mà
mình có thể mắc, kể cả những bệnh không chữa được, một số có thể có các triệu
chứng rối loạn tâm thần. Nicholas J.Tally (Mỹ) cho rằng 45% - 100% người bị
HCRKT ít nhiều có rối loạn tâm thần. Thực tế căng thẳng tâm lý thường làm xuất



hiện các triệu chứng rối loạn tiêu hoá và nếu đã có các triệu chứng này thì làm cho
HCRKT nặng thêm.
2.4. Nhạy cảm và không dung nạp thức ăn
Trong một nghiên cứu ở Anh cho thấy 50% bệnh nhân HCRKT bị ỉa lỏng do
ăn uống. Người ta cho rằng đó là do ruột nhạy cảm với thức ăn. Một số yếu tố khác
đặc biệt là Sorbitol, Fructose, acid mật rất dễ gây ỉa chảy và chướng bụng. Do đó
nhạy cảm và khơng dung nạp thức ăn có thể là yếu tố khởi phát bệnh ở người
HCRKT.
2.5. Nhiễm khuẩn ruột
Có tác giả chứng minh rằng nếu kích thích niêm mạc ruột hoặc đám rối thần
kinh có thể là khởi đầu của triệu chứng HCRKT. Cystokin và các hố chất trung
gian có thể hoạt hoá cảm giác hoặc làm tăng nhu động ruột do các tế bào mastocyst
ở ngay sát thần kinh cảm giác ở niêm mạc ruột.
2.6. Mất cân bằng các yếu tố dẫn truyền thần kinh
Serotonin bình thường có ở hệ thống thần kinh trung ương 5%, ở hệ tiêu hoá
95% trong các tế bào ưa crom, tế bào thần kinh, cơ trơn, dưỡng bào. Serotonin được
giải phóng ra kích thích các sợi thần kinh ruột nội tạng hướng tâm gây ra đáp ứng
sinh lý tiết dịch, phản xạ nhu động ruột... Một số nghiên cứu cho thấy ở người
HCRKT có tăng nồng độ serotonin trong máu và trong trực tràng sigma có thể là
yếu tố làm buồn nơn, nơn, chướng bụng, đau bụng...
Một số chất dẫn truyền thần kinh có thể có liên quan đến rối loạn chức năng
dạ dày ruột như: gen với calcitonin, acetylcholin, polypeptid hoạt hoá
Adenylatcyclase của tuyến yên, oxyt nitric và peptid hoạt hoá ruột... Các chất này
có thể có liên quan giữa nhu động ruột và cảm giác nội tạng, mối liên hệ giữa hệ
thần kinh ruột và hệ thần kinh trung ương.
3. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG
3.1. Triệu chứng cơ năng
Hội chứng ruột kích thích chỉ nên chẩn đốn khi đã loại trừ các bệnh tổn
thương thực thể của ruột. Bệnh hay gặp ở người trẻ, trung niên nhiều hơn. Ở châu



Âu, tỷ lệ nữ/nam là 4,3/1; ở Việt Nam là 1,8/1. Các triệu chứng hay gặp là đau
bụng, rối loạn phân.
- Đau bụng: thường tập trung ở hố chậu trái, nhưng cũng có thể ở hố chậu
phải, trên rốn, thường xuất hiện về buổi sáng hoặc sau ăn. Đau bụng thường kèm
buồn đi ngoài, đi ngoài xong đau bụng hết hoặc giảm.
- Rối loạn phân: nhiều tác giả dựa vào tính chất phân để chia thể lâm sàng của
HCRKT:
+ Thể phân lỏng: hay gặp hơn, phân lỏng hơn, số lần đi ngồi trong ngày
nhiều hơn bình thường (> 3 lần). Phân khơng thành khn, lổn nhổn, có thể cịn
lẫn cả bã thức ăn, nhày mũi nhưng khơng có máu. Số lượng phân mỗi lần đi ngồi
ít.
+ Thể phân táo: phân rắn, vón cục, số lần đi ngồi ít hơn bình thường (> 3
ngày 1 lần). Phân có thể lẫn nhày, khơng có máu. Táo bón thường kéo dài. Người
bệnh có thể sờ thấy cục phân rắn ở hố chậu trái, di động, đại tiện xong cục rắn đó
mất.
+ Thể táo lỏng xen kẽ: thường xen kẽ đợt phân lỏng với đợt táo bón. Có thể
có hiện tượng giả lỏng (Pseudodiarrhea): phân vón cục lẫn với nước, hiện tượng
này có thể gặp trong chứng “phân bị nén” (Infartional defecation). Cảm giác phân
chưa ra hết, cịn cảm giác muốn đi ngồi.
- Bụng chướng: do đầy hơi, thường ở dưới rốn, dọc khung đại tràng, cũng có
thể ở trên rốn, vùng thượng vị. Hay xuất hiện sau ăn, ợ hơi hoặc trung tiện được thì
dễ chịu.
- Hay cảm thấy sơi bụng, nổi cuộn bụng từng lúc do tăng nhu động ruột từng
đoạn.
- Ngoài ra người bệnh cịn có:
+ Rối loạn thần kinh thực vật: hồi hộp, ra mồ hôi trộm.
+ Đau đầu, đau lưng... thường xuất hiện khi thay đổi thời tiết.
+ Tâm lý không ổn định, dễ bị tức, cáu gắt, lo lắng bệnh tật...

3.2. Khám bệnh


- Thể trạng bình thường mặc dù bị bệnh nhiều năm.
- Khám bụng: thường là bình thường. Có thể thấy bụng chướng hơi. Sờ thấy
chỗ co thắt của đại tràng, vị trí thay đổi, lúc sờ thấy lúc khơng.
4. Xét nghiệm
Khơng có giá trị trong chẩn đốn HCRKT, có giá trị trong loại trừ các bệnh
tổn thương thực thể của đại tràng.
- Các xét nghiệm sinh học, huyết học đều bình thường.
- X-quang khung đại tràng có thể có hiện tượng rối loạn vận động của đại
tràng: tăng co thắt (ngấn ngang sâu, co thắt), giảm vận động (đờ), trào ngược manh
tràng lên hồi tràng.
- Nội soi đại tràng ống mềm: Nên tiến hành ở mọi bệnh nhân. Có thể nội soi
ống mềm ngắn hoặc tồn bộ đại tràng. Hình ảnh nội soi bình thường. Một số
trường hợp có thể có cảm giác đau hơn, đại tràng co thắt cản trở đường đi của đại
tràng.
- Sinh thiết niêm mạc đại tràng cho kết quả bình thường.
5. Chẩn đốn
5.1. Chẩn đốn xác định
Chẩn đoán xác định HCRKT chủ yếu dùng phương pháp loại trừ. Tiêu chuẩn
chẩn đoán hiện nay chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn Rome IV (2016):
Đau bụng khởi phát ít nhất 6 tháng trước khi chẩn đoán và tái phát ít nhất 1
lần/ 1 tuần trong 3 tháng gần đây với ít nhất 2 trong 3 đặc điểm sau:
- Liên quan đến đại tiện
- Kết hợp với thay đổi tần suất phân
- Kết hợp với thay đổi hình thái phân
Các triệu chứng trên có tính chất gợi ý HCRKT. Sau đó phải làm các xét
nghiệm để loại trừ các bệnh có tổn thương thực thể ở đại tràng (viêm, u...), đặc biệt
là nội soi đại tràng ống mềm và sinh thiết niêm mạc đại tràng. Nên kiểm tra các

bệnh ngồi đại tràng có cấu trúc cơ trơn (phổi, túi mật, đường dẫn mật, bàng
quang, niệu quản...) để phát hiện các bệnh đi kèm.


Không nên nghĩ đến HCRKT khi:
- Bệnh lần đầu khởi phát ở người già .
- Triệu chứng đánh thức bệnh nhân khi bệnh nhân đang ngủ.
- Là một triệu chứng xuất hiện sau một quá trình bệnh lý kéo dài.
- Bệnh nặng dần lên.
- Phân có máu, mỡ hoặc mủ.
- Nôn, sốt, thiếu máu là triệu chứng của bệnh.
- Số lượng phân > 350g/ngày.
5.2. Chẩn đoán thể bệnh
Các thể của hội chứng ruột kích thích bao gồm 3 thể:
- Thể táo bón chiếm ưu thế: phân rắn và phân cục chiếm trên 25%, phân nát
và phân lỏng chiếm dưới 25%.
- Thể ỉa lỏng chiếm ưu thế: phân nát và phân lỏng chiếm trên 25%, phân rắn
và phân cục chiếm dưới 25%.
- Thể hỗn hợp: phân rắn và phân cục chiếm trên 25%, phân nát và phân lỏng
chiếm trên 25%.
5.2. Chẩn đốn phân biệt
- Do thuốc gây táo bón (chẹn kênh canxi, kháng acid có nhơm...), ỉa chảy
(thuốc nhuận tràng, kháng sinh, kháng acid có magie....).
- Các bệnh có tổn thương đại tràng: u, túi thừa, bệnh ruột viêm, bệnh viêm đại
tràng có nguyên nhân (nhiễm trùng, ký sinh trùng, tia xạ, thiếu máu cục bộ...).
- Bệnh tâm thần.
6. Điều trị
6.1. Biện pháp không dùng thuốc
Đây là biện pháp quan trọng nhất.
- Tâm lý liệu pháp:

+ Thầy thuốc phải giải thích cho người bệnh hiểu rõ bệnh tật của mình: là
bệnh
phổ biến trong cộng đồng, tiên lượng tốt, không ảnh hưởng đến sức khoẻ và không



biến chứng.
+ Người bệnh phải hiểu rõ bệnh tật của mình, hồn tồn n tâm, khơng lo
lắng về bệnh tật, tin tưởng vào thầy thuốc. Tạo cho mình có cuộc sống thoải mái,
tránh stress, không lạm dụng thuốc, đặc biệt thuốc kháng sinh đường ruột.
- Chế độ ăn: rất quan trọng trong điều trị HCRKT.
+ Tránh ăn đường phức nếu ỉa chảy.
+ Tăng xơ, nước nếu táo bón (xơ: 20% - 30%/ngày, nước > 1,5 l/ngày).
+ Tránh rượu, café, thuốc lá.
+ Ăn uống điều độ, đúng giờ.
+ Hạn chế thức ăn nhạy cảm.
6.2. Thuốc
Chủ yếu điều trị triệu chứng:
- Đau bụng do tăng nhu động: dùng thuốc giảm co thắt: atropin sulfat,
papaverin, buscopan, spasfon...
- Táo bón: cám gạo, lactulose, forlax....
- Ỉa chảy: Imodium, Cholestyramin...
- Thuốc giảm lo âu: Dogmatil...
- Điều trị bằng placebo: nên khuyến khích và có hiệu quả tốt.
- Duspatalin, viên 200mg, ngày uống 1 - 2 viên. Thời gian ít nhất 6 tháng.
Thuốc có tác dụng làm giảm mật độ và giảm đáp ứng của các receptor ở thành đại
tràng.
- Probiotic: liều 10 – 100 tỷ vi khuẩn/ngày có thể có hiệu quả tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Nhiên (2017), Hội chứng ruột kích thích, Bệnh học nội khoa tập 2,

Nhà xuất bản Y học, 19-29.
2. Brian E. Lacy et al. (2016), Bowel Disorders, Gastroenterology, 150:1393–
1407.



×