Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Một số biện pháp phát triển kỹ năng múa cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong hoạt động âm nhạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (901.86 KB, 72 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA MẦM NON
----------

NGUYỄN THỊ NHẬT LINH

Một số biện pháp phát triển kỹ năng múa cho trẻ
Mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong hoạt động âm nhạc

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM MẦM NON

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1


Âm nhạc là loại hình nghệ thuật gắn bó mật thiết với đời sống con
người, nó phản ánh cuộc sống của con người một cách đa dạng, phong phú.
Bằng các hình tượng âm thanh, các giai điệu đẹp mang tính biểu cảm rất cao,
âm nhạc có sức kì lạ hấp dẫn như một thế giới kỳ diệu đầy cảm xúc. Nhà chỉ
huy Lô- tô- kôp- xki viết: “ Cả người lớn, cả trẻ em, thông thường khi nghe
nhạc ai cũng đều có ý muốn cử động theo tiết tấu. Tay đung đưa, chân gõ
nhịp, đầu lắc lư, đó chính là hình thức múa tự phát. Nhiều khi các em nhỏ vừa
nghe nhạc, vừa ngẫu hứng điệu múa có tiết tấu độc đáo của mình”.
Nghệ thuật múa có vai trị quan trọng trong việc giáo dục toàn diện trẻ
mầm non làm thoả mãn nhu cầu tình cảm của trẻ, trẻ được bộc lộ cảm xúc,
giao tiếp với bạn bè. Hơn nữa múa cịn là phương tiện, là điều kiện hình thành


phẩm chất đạo đức, phát triển thể chất, phát triển trí tuệ, là điều kiện định
hướng phát triển thẩm mĩ cho trẻ. Thông qua nghệ thuật múa trẻ phân biệt
được cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu…Nghệ thuật múa đóng vai trị quan
trọng trong việc hình thành cho trẻ một tính cách hồn thiện nhất và là dạng
vận động có tác dụng hình thành những ưu thế, dáng điệu, động tác đẹp.
Tuy nhiên trong thực tế nhiều giáo viên chỉ dạy cho trẻ múa những
động tác đơn giản như guộn cổ tay, nhón chân và nhún nhảy theo nhạc,
nghiêng người… rất đơn điệu, những bài múa mà giáo viên dạy cho trẻ cịn
rập khn, máy móc. Trong khi đó múa địi hỏi phải có sự phối hợp của tồn
bộ cơ thể, sự cảm thụ âm nhạc, phối hợp nhịp nhàng giữa giai điệu, lời ca với
các động tác múa, phải phát huy được sự hồn nhiên, ngây thơ của trẻ. Phần
lớn giáo viên chưa chú ý phát triển kỹ năng múa cho trẻ do trình độ và khả
năng hướng dẫn cho trẻ múa của giáo viên còn nhiều hạn chế. Mặt khác, do
nội dung chương trình của trẻ mầm non chưa thể tách biệt được múa thành
một môn học độc lập mà chỉ là một nội dung trong hoạt động giáo dục âm
nhạc. Vì thế mà giáo viên chưa khai thác triệt để và chưa phát huy hết khả
năng múa của trẻ, chưa khuyến khích tạo sự hứng thú tích cực say mê cho trẻ
khi tham gia múa.. Để cho các hoạt động múa đến với trẻ thực sự có ý nghĩa

2


và đạt đến mục tiêu giáo dục phát triển toàn diện trẻ thì việc phát triển và
nâng cao kỹ năng múa là rất cần thiết, cần được quan tâm sâu sắc hơn nữa.
Nhận thức được tầm quan trọng này tôi đi đến tìm hiểu đề tài “Một số
biện pháp phát triển kỹ năng múa cho trẻ Mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong hoạt
động âm nhạc”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thực trạng kĩ năng múa của trẻ MG 4- 5 tuổi thơng qua
HĐÂN. Trên cơ sở đó đề xuất và thực nghiệm một số tác động sư phạm nhằm

phát triển kĩ năng múa cho trẻ MG 4 - 5 tuổi trong HĐÂN, góp phần nâng cao
hiệu quả giáo dục âm nhạc.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Nghiên cứu quá trình tổ chức dạy múa cho trẻ MG 4 - 5 tuổi trong hoạt động
giáo dục âm nhạc.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp phát triển kĩ năng múa cho trẻ MG 4- 5 tuổi trong HĐÂN
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Kĩ năng múa của trẻ MG 4- 5 tuổi trong hoạt động giáo dục âm nhạc
thể hiện ở những mức độ khác nhau. Nếu giáo viên có những tác động sư
phạm như tập cho trẻ một số động tác - tổ hợp múa dân gian phù hợp với trẻ
ngồi giờ học, khuyến khích trẻ múa sáng tạo theo âm điệu, nhịp điệu của bài
hát và thường xuyên tổ chức biểu diễn văn nghệ theo mỗi chủ điểm, biên đạo
một số bài múa biểu diễn cho trẻ sẽ kích thích được hứng thú của trẻ, đồng
thời giúp trẻ có kĩ năng múa tốt hơn, góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức
hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ ở trường mầm non.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu một số cơ sở lí luận liên quan đến đề tài .
5.2. Tìm hiểu thực trạng kĩ năng múa của trẻ MG 4- 5 tuổi trong việc tổ chức
hoạt động giáo dục âm nhạc ở một số trường Mầm non tại Đà Nẵng.

3


5.3. Đề xuất và thực nghiệm biện pháp phát triển kĩ năng múa cho trẻ MG 4-5
tuổi.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu kĩ năng múa và biện pháp phát triển kĩ năng múa cho trẻ
MG 4- 5 tuổi thông qua hoạt động giáo dục âm nhạc ở 4 tường Mầm non TP

Đà Nẵng.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu cơ sở lý luận
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa những tài liệu
có liên quan đến đề tài nghiên cứu, cụ thể hóa lý thuyết nhằm xây dựng cơ sở
lý luận của đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1 Phương pháp quan sát:
Dự giờ quan sát quá trình tổ chức dạy múa cho trẻ MG 4 -5 tuổi trong
hoạt động giáo dục âm nhạc.
7.2.2 Phương pháp đàm thoại
Trao đổi với giáo viên tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong việc
dạy múa cho trẻ.
7.2.3 Phương pháp điều tra bằng Anket
Sử dụng phiếu thăm dò, điều tra các giáo viên ở các trường mầm non
trong TP. Đà Nẵng để nắm được tình hình và kỹ năng múa của trẻ MG 4-5
tuổi trong hoạt động giáo dục âm nhạc.
7.2.4 Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm được tiến hành nhằm kiểm nghiệm tính hiệu quả của các tác
động sư phạm phát triển kĩ năng múa cho trẻ MG 4-5 tuổi.
7.3. Phương pháp thống kê tốn học
Sử dụng các cơng thức thống kê tốn học để xử lý số liệu.
8. NHỮNG ĐĨNG GĨP CỦA ĐỀ TÀI
- Góp phần hệ thống các vấn đề lý luận về biện pháp phát triển kĩ năng múa
cho trẻ MG 4- 5 tuổi thông qua hoạt động giáo dục âm nhạc.
4


- Tìm hiểu được thực trạng sử dụng biện pháp phát triển kĩ năng múa cho trẻ
MG 4- 5 tuổi thông qua hoạt động âm nhạc, đồng thời chỉ ra nguyên nhân

- Xây dựng biện pháp phát triển kĩ năng múa cho trẻ MG 4- 5 tuổi.
9. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Ngồi phần mở đầu và kết luận, nội dung chính luận văn được chia làm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Một số biện pháp phát triển kĩ năng múa cho trẻ MG 4- 5 tuổi qua
hoạt động giáo dục âm nhạc.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Múa là loại hình nghệ thuật xuất hiện sớm nhất, nó tồn tại và phát triển
theo lịch sử văn hóa và lịch sử phát triển trí tuệ của con người. Ngay từ thuở
bình minh của bộ người nguyên thuỷ, nghệ thuật múa đã xuất hiện như một
nhu cầu thiết yếu trong đời sống văn hoá tinh thần và phát triển ngày càng
hoàn thiện.Từ thời kỳ xã hội nguyên thuỷ, sang thời kỳ chiếm hữu nô lệ rồi
đến thời kỳ xã hội phong kiến, đến chế độ tư bản và lên chủ nghĩa xã hội.
Múa được phát triển theo từng thời kỳ. Đầu tiên chưa có định hướng, sau đó
múa mang tính mơ phỏng, múa thể hiện các nội dung sinh hoạt của con người,
rồi múa ngày càng được nâng cao thành các thể loại múa, hình thức múa và
các dạng múa.
Đến nay múa có sự định hướng và hướng con người đến chân – thiện –
mỹ, nó chiếm vị trí quan trọng trong nền văn hố dân tộc và đời sống văn hố
xã hội. Như vậy có thể nói: Lịch sử phát triển nghệ thuật múa gắn liền với sự
phát triển của lồi người. Múa cịn có chức năng cơ bản là giáo dục, phản ánh,

góp phần cải tạo xã hội, định hướng thẩm mỹ và phát triển thể chất. Với
những chức năng này, chúng ta thấy múa rất gần gũi với cuộc sống của con
người. Con người khơng chỉ có nhu cầu thưởng thức mà cịn muốn học, muốn
sáng tạo ra nó.
Có rất nhiều tác giả viết về vai trò giáo dục của nghệ thuật múa nói
chung và nghệ thuật múa cho trẻ mẫu giáo nói riêng. Múa có tầm quan trọng
trong đời sống con người và nó cũng khơng kém phần quan trọng trong sự
phát triển tồn diện nhân cách cho trẻ. Hiện nay, có rất nhiều nhà sư phạm đi
sâu nghiên cứu về nghệ thuật múa cho trẻ mầm non.
Với bài viết “Một số điệu múa cho trẻ mẫu giáo” của tác giả Lã Tiến
Thêm (Viện Khoa học giáo dục – Trung tâm nghiên cứu giáo dục mầm non 1996). Tác giả đã đáp ứng mong mỏi của đông đảo giáo viên mầm non ở các
6


vùng miền về các bài múa dành cho trẻ mẫu giáo, nhằm góp phần làm phong
phú các hoạt động biểu diễn cho trẻ ở trường mầm non.
Bài viết: “ Múa và phương pháp vận động theo nhạc” của tác giả Trần
Minh Trí (NXB Giáo dục - 1999) tác giả có đề cập đến những kiến thức cơ
bản về nghệ thuật múa. Đưa ra một số phương pháp dạy trẻ vận động theo
nhạc và múa. Tác giả nhận thức được vai trò quan trọng của múa đối với trẻ,
nhưng mới chỉ dừng lại ở việc dạy trẻ vận động theo nhạc, mà chưa đưa ra các
phương pháp và biện pháp nhằm phát triển kĩ năng múa cho trẻ.
Bài viết của tác giả Nguyễn Phương Hiền - Hiệu trưởng trường mầm
non Việt Triều in trên tạp chí Nhịp điệu số 47 (4- 2001) đã nêu một vài suy
nghĩ về vấn đề dạy múa cho trẻ mầm non. Tác giả cũng băn khoăn nhiều về
khả năng của giáo viên trong việc dạy múa cho trẻ.
Như vậy, việc tổ chức cho trẻ múa trong hoạt động âm nhạc đóng vai
trị quan trọng đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ, bồi dưỡng tâm
hồn trẻ. Tuy nhiên, hiện nay ở trường mầm non việc thực hiện hoạt động dạy
trẻ múa trong giờ hoạt động âm nhạc cịn rất hạn chế.

Vì thế tơi đã lựa chọn cho mình đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp
phát triển kỹ năng múa cho trẻ Mẫu giáo 4 – 5 tuổi trong hoạt động âm nhạc”,
tôi mong muốn cơng trình nghiên cứu về biện pháp phát triển kĩ năng múa
cho trẻ mẫu giáo nhỡ nói riêng và trẻ mẫu giáo nói chung sẽ góp phần làm
phong phú thêm các động tác múa, giúp trẻ có hứng thú, có khả năng cảm
nhận nghệ thuật và phát triển kĩ năng múa hơn nữa, qua đó góp phần thực
hiện tốt mục tiêu giáo dục mầm non.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Kĩ năng múa
1.2.1.1. Kĩ năng
Trong mọi lĩnh vực hoạt động, để tiến hành hoạt động có hiệu quả con
người khơng những cần phải có tri thức về đối tượng hoạt động mà còn phải
biết sử dụng những tri thức đó vào việc cải tạo hiện thực, tức là con người cần
phải có kĩ năng. Kĩ năng là một đề tài được rất nhiều nhà nghiên cứu trong
7


nước và ngồi nước quan tâm phát triển, có khá nhiều những quan điểm của
họ về khái niệm kĩ năng là gì. Tuy nhiên qua những hiểu biết và sự nghiên
cứu của mình, chúng tơi xin đưa ra hai quan điểm chính sau:
+ Quan điểm thứ nhất
Quan điểm thứ nhất xem xét kĩ năng từ góc độ kĩ thuật của hành động, của
thao tác mà ít quan tâm đến kết quả của hành động.
- Theo PGS.TS Hà Nhật Thăng: “Kĩ năng là kĩ thuật của hành động thể hiện
các thao tác của hành động”.
- Theo PGS.Trần Trọng Thủy cho rằng, kĩ năng là mặt kĩ thuật của hành động,
con người nắm được hành động tức là kĩ thuật hành động có kĩ năng.
- A.G.Covaliop cho rằng: Kĩ năng là phương thức thực hiện hành động thích hợp
với mục đích và điều kiện hành động. Ở đây ông không đề cập đến kết quả của
hành động. Theo ông kết quả hành động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó

quan trọng hơn cả là năng lực của con người chứ không đơn giản là cứ nắm vững
cách thức hành động thì đem lại kết quả tương ứng.
- Với V.A.Kruchetxki: “Kĩ năng là thực hiện một hành động hay một hoạt động
nào đó nhờ sử dụng những kĩ thuật, những phương thức đúng đắn”
Như vậy, theo quan điểm này kĩ năng là phương thức thực hiện hành
động phù hợp với mục đích và điều kiện hành động mà con người đã nắm
vững. Theo các tác giả trên, người có kĩ năng hoạt động nào đó là người nắm
được các tri thức về hoạt động đó và thực hiện hành động theo đúng u cầu
của nó mà khơng cần tính đến kết quả của hành động.
+ Quan điểm thứ hai
Quan điểm xem xét kĩ năng từ góc độ khơng đơn thuần chỉ là mặt kĩ
thuật hành động mà còn là biểu hiện năng lực của chủ thể hành động và nhấn
mạnh đến kết quả của hành động.
- Các tác giả K.K.Platonop và G.G.Golubev cho rằng: kĩ năng là năng lực của
con người thực hiện cơng việc có kết quả là một chất lượng cần thiết trong
những điều kiện mới và trong những khoảng thời gian tương ứng.

8


- X.I.Kiegop cho rằng: “Kĩ năng là khả năng thực hiện có hiệu quả hệ thống các
hành động phù hợp với các mục đích và điều kiện của hệ thống này”.
- Theo P.A.Rudich: “Kĩ năng là tác động mà cơ sở của nó là sự vận dụng thực
tế của kiến thức đã tiếp thu được để đạt được kết quả trong một hình thức hoạt
động cụ thể”.
- H.D.Levitov thì cho rằng, kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một tác động nào đó
hay một hành động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng đúng đắn các hình
thức hành động nhằm thực hiện hành động có kết quả.
- Theo TS.Vũ Dũng: “Kĩ năng là năng lực vận dụng có kết quả những tri thức
về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những

nhiệm vụ tương ứng.
- Các nhà tâm lý học Việt Nam như PGS.TS Ngơ Cơng Hồn, PGS.TS
Nguyễn Ánh Tuyết, GS.Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành cho rằng, kĩ
năng là một mặt năng lực của con người thực hiện một cơng việc có hiệu quả.
Các tác giả theo hướng này đã coi kĩ năng không chỉ đơn thuần bao gồm mặt
kĩ thuật của hành động mà chú trọng tới mặt kết quả của nó trong mối quan hệ
với mục đích, phương tiện, điều kiện và cách thức tiến hành hoạt động.
- Trong Từ điển tiếng Việt, kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu
nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế.
Qua việc trình bày các quan điểm trên, chúng ta thấy mặc dù còn có
nhiều ý kiến, nhưng thực ra chúng khơng có gì mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau.
Sự khác nhau là ở chỗ mở rộng hay thu hẹp phạm vi triển khai của một kĩ
năng hành động trong các tình huống khác nhau mà thơi. Cịn bản chất của kĩ
năng bao giờ cũng bao gồm một số thành phần cơ bản, đó là:
- Những kiến thức, tri thức khoa học, sự hiểu biết mang tính khái quát về lĩnh
vực hoạt động, hành động nào đó.
- Vốn sống kinh nghiệm cá nhân về lĩnh vực hoạt động.
Ví dụ: trong chúng ta, ai cũng có lần hát hoặc nghe hát, do vậy mỗi chúng ta
sẽ có những cảm xúc khơng giống nhau khi nghe một bài hát ở các ca sĩ hoặc
cá nhân khác nhau hát.
9


Hành động cá nhân thể hiện rất rõ các mức độ và loại cảm xúc của
mình. Hành động với cảm xúc tích cực như say mê, hứng thú .. thường cho ta
các kết quả hành động cao (mức kĩ năng). Mức kĩ năng đó là các thao tác
hành động diễn ra nhanh, chính xác, kịp thời, đúng với các điều kiện, đối
tượng, phương tiện và hồn cảnh để có được một kết quả hoạt động cao.
Ngược lại, hành động với cảm xúc tiêu cực dễ có các biểu hiện chán nản, uể
oải, mệt mỏi…thường cho ta kết quả không cao, thậm chí khơng có kết quả

(chưa đạt mức kĩ năng).
- Các thao tác hành vi, hành động (Thao tác phân tích, tổng hợp…hành động
trí óc. Thao tác cầm nắm, nâng nhấc…tay chân, hành động với vật chất) phải
hợp lí, khơng có động tác thừa, theo trật tự nhất định.
Như vậy, kĩ năng là khả năng vận dụng có mục đích và sáng tạo những kiến
thức vốn sống kinh nghiệm cá nhân vào hoạt động lí thuyết cũng như trong
thực tiễn, kĩ năng bao giờ cũng xuất phát từ kiến thức và dựa trên kiến thức,
kĩ năng chính là kiến thức thể hiện trong hành động đảm bảo cho hoạt động
có kết quả.
Tóm lại, ta có khái niệm về kĩ năng như sau:
Kĩ năng là khả năng vận dụng những tri thức, vốn sống kinh nghiệm cá
nhân vào hoạt động hay hành động thực tiễn trong điều kiện cụ thể đảm bảo
hành động có kết quả theo mục đích đã đặt ra.
1.2.1.2. Khái niệm về múa
Nguồn gốc của nghệ thuật múa chính là những hành động của con
người trong đời sống, trong quá trình lao động cộng với sự quan sát thiên
nhiên. Từ đó, các động tác múa có những thay đổi, cải tiến, đi đến khái quát
nghệ thuật.
Như vậy, múa là bộ mơn nghệ thuật. Nó là một phương tiện sắc bén để
con người nhận thức thế giới và cải tạo thế giới theo lý tưởng xã hội. Đặc biệt,
múa là một hình thái ý thức của xã hội, thơng qua con đường thẩm mỹ. Múa
khơng phải lời nói, khơng phải màu sắc và càng không phải là âm thanh. Múa
không giống các bộ môn nghệ thuật khác ở chỗ, nó dùng động tác và tư thế
10


của thân thể con người. Động tác, tư thế trong múa không giống các động tác,
tư thế trong các bộ mơn nghệ thuật khác, vì động tác và tư thế múa đòi hỏi
phải kết hợp chặt chẽ với âm nhạc, hội họa, văn học…Động tác của múa
không phải để phụ trợ cho lời như trong chèo, cải lương, kịch hay giống các

động tác sinh hoạt như trong điện ảnh. Đồng thời nó cũng khơng phải thể dục
thể thao, vì động tác thể dục chủ yếu nhằm rèn luyện sức khỏe và nếu đẹp thì
càng tốt. Mục đích biểu hiện của động tác múa phức tạp, phong phú hơn
nhiều, nó gắn liền với đời sống và sự bộc lộ tình cảm của con người. Nói cách
khác, động tác và tư thế của múa nhằm biểu hiện tư tưởng, tình cảm của một
chủ thể đã định. Múa khơng chỉ có khỏe và đẹp. Mục đích biểu hiện của ngơn
ngữ múa quyết định sự tồn tại và phát triển của chính bộ mơn nghệ thuật này.
Như vậy, múa là môn nghệ thuật độc lập, dùng động tác, tư thế của
thân thể con người có tiết tấu, tạo hình để biểu hiện tư tưởng và tình cảm.
1.2.1.3. Kĩ năng múa
Từ những khái niệm trên, ta có khái niệm kĩ năng múa như sau:
Kĩ năng múa là khả năng vận dụng những tri thức, vốn sống kinh
nghiệm cá nhân vào hoạt động nghệ thuật múa trong điều kiện cụ thể đảm
bảo thực hiện các động tác múa một cách linh hoạt, mềm dẻo và biểu hiện
được cảm xúc theo mục đích đã đặt ra..
Nghiên cứu sẽ đi sâu khảo sát và tác động vào các hành động thành phần tạo
thành kĩ năng múa, theo đó đề ra các biện pháp tác động vào các hành động
thành phần nhằm phát triển kĩ năng múa cho trẻ 4 - 5 tuổi ở một số trường
mầm non tại thành phố Đà Nẵng.
1.2.1. Biện pháp phát triển kĩ năng múa
1.2.1.1. Biện pháp
Để giải quyết một vấn đề, chúng ta cần phải nghiên cứu các yếu tố liên
quan tới vấn đề đó. Các yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau và trong một
chừng mực nhất định, yếu tố này là cơ sở để xác định yếu tố kia. Biện pháp là
một trong những yếu tố cần thiết để giải quyết một vấn đề, nó được xác định

11


căn cứ vào những yếu tố khác như: mục đích, nhiệm vụ, nội dung, đặc điểm

của đối tượng…
Vậy biện pháp là gì? Theo cuốn từ điển tiếng Việt – Viện ngôn ngữ học
2005 – Trung tâm từ điển học – nhà xuất bản Đà Nẵng khái niệm biện pháp
được giải thích như là một “cách làm, cách thức giải quyết một vấn đề cụ thể”.
Biện pháp là cách thức tiến hành, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.
Như vậy, biện pháp là một bộ phận của phương pháp. Trong hệ thống
các phương pháp dạy học nói chung và phương pháp giáo dục âm nhạc nói
riêng có rất nhiều phương pháp, biện pháp được sử dụng vào quá trình giảng
dạy.
Ở lứa tuổi mầm non, các biện pháp dạy học có vai trị đặc biệt quan trọng, nó
làm cho q trình học của trẻ hấp dẫn, hứng thú hơn, làm cho phương pháp
tác động phù hợp với sự phát triển tâm lý, phát huy tính tích cực của trẻ và
đem lại hiệu quả giáo dục.
1.2.1.2. Phát triển
Phát triển là khuynh hướng vận động theo chiều hướng tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Cái
mới ra đời thay thế cho cái cũ.
Mỗi trẻ đều có một sự phát triển riêng biệt của mình và có nhiều giai
đoạn phát triển khác nhau. Một giai đoạn phát triển cụ thể thì trẻ tiếp nhận
hay học được những kỹ năng nhất định, các kĩ năng đó phát triển diễn tiến
theo một trình tự phát triển về đặc điểm tâm sinh lý. Điều này có nghĩa là trẻ
cần phải đạt được một vài kỹ năng này trước khi có thể phát triển những kỹ
năng mới khác. Ví dụ: Để trẻ có thể múa được một bài múa minh họa hoặc
biểu diễn hoặc múa sinh hoạt thì trước hết trẻ phải học và tập luyện những
động tác đơn giản : các thế tay, thế chân rồi sự kết hợp giữa tay và chân. Khi
trẻ đã làm đúng các động tác đơn giản đó rồi mới tập những động tác khó,
phức tạp hơn và lúc này yêu cầu cao hơn đó là trẻ phải múa đúng nhạc cộng
với sự diễn cảm khi biểu diễn.

12



Quy luật của q trình phát triển có 3 tính chất:
+ Tính phổ biến: Sự phát triển là ở tất cả các sự vật, hiện tượng. Mỗi sự vật
đều vận động theo hướng đi lên theo một sơ đồ xoáy ốc, tuy có những lúc
đứng im nhưng đứng im chỉ là tạm thời. Mọi sự vật đều nằm trong xu hướng
chung là phát triển.
+ Tính đa dạng phong phú: Mọi sự vật hiện tượng dù được đặt trong cùng một
xu hướng phát triển nhưng mỗi sự vật hiện tượng đều phát triển theo một
hướng khác nhau, thậm chí cùng một sự vật nhưng giai đoạn này thì phát triển
thế này, giai đoạn khác lại phát triển thế khác.
+ Tính khách quan: Mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong xu hướng phát triển,
xu hướng này không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người mà chính
là q trình tự giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật đó hoặc trong mối
liên hệ với sự vật khác.
1.2.1.3. Biện pháp phát triển kĩ năng múa
Từ những khái niệm trên chúng tôi cho rằng:
Biện pháp phát triển kĩ năng múa là tổ hợp các cách thức, hình thức
được phối hợp một cách có mục đích để tổ chức hoạt động nhằm giúp cho
người học có kĩ năng múa ngày càng tốt hơn, hồn thiện hơn.
Như vậy, giáo viên có nhiệm vụ lựa chọn ra phương pháp, biện pháp,
hình thức tổ chức để dạy múa sao cho hợp lí, phù hợp với trẻ, nhưng cũng
kích thích được sự hứng thú đồng thời giúp trẻ phát triển được các kĩ năng
múa. Việc lựa chọn đúng biện pháp là một việc làm hết sức quan trọng trong
quá trình giáo dục, vì nếu lựa chọn khơng phù hợp trẻ sẽ rất khó để phát triển
kĩ năng múa. Biện pháp phát triển kĩ năng múa nghĩa là giáo viên phải biết
lựa chọn cách thức mới mà giáo viên cho đó là con đường hay nhất, có hiệu
quả nhất nhằm cung cấp cho trẻ những động tác múa phù hợp với tác phẩm
âm nhạc để thực hiện và luyện tập. Hoặc giáo viên tìm cách tác động đến trẻ
như thế nào đó để trẻ tự mình sáng tạo ra những động tác múa khi nghe một

bản nhạc…Khi đó là giáo viên đã bồi dưỡng để kĩ năng múa cho trẻ lên một
mức độ cao hơn đó là khả năng tự sáng tạo các động tác. Qua nhiều lần thực
13


hiện các cách thức đó thì giáo viên đã làm cho trẻ có kĩ năng múa tốt hơn,
hồn thiện hơn hay nói cách khác là phát triển được kĩ năng múa cho trẻ.
1.3. Khái quát về nghệ thuật múa
1.3.1. Nguồn gốc của nghệ thuật múa
Vấn đề về nguồn gốc của nghệ thuật múa có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, bởi
nghệ thuật múa có ý nghĩa to lớn trong đời sống của loài người. Ngay từ thời
nguyên thủy khi con người đã trở thành đối tượng biểu hiện của hình vẽ, thì
bắt đầu xuất hiện hình vẽ con người và hoạt động thân thể, biểu hiện với
những hình dáng ấy vào sân khấu múa.
Mối quan tâm của các nhà nghiên cứu khoa học đối với vấn đề xuất xứ
của nghệ thuật nói chung và loại hình nghệ thuật múa nói riêng được tăng lên
một cách đặc biệt. Đầu thế kỉ XIX có rất nhiều tài liệu được cơng bố của các
nhà khoa học nghiên cứu trực tiếp nền văn hóa tinh thần, vật chất của bộ tộc
nguyên thủy. Tuy nhiên, những cách lý giải, đánh giá kết luận của các nhà
khảo cứu có khác nhau bao nhiêu đi nữa cũng khơng thể phủ nhận được vai
trị đặc biệt của trong sinh hoạt của người nguyên thủy. Không một biến cố
quan trọng nào trong sinh hoạt của người nguyên thủy mà thiếu múa được.
Như vậy, khơng cịn nghi ngờ gì nữa, múa đã xuất hiện rất sớm trong
lịch sử loài người và trải qua sự tiến hóa lâu dài có liên quan chặt chẽ đến sự
phát triển của bản thân sinh hoạt xã hội của con người sơ khai. Trên cơ sở tư
liệu và dân tộc học, dân gian đã thu được trực tiếp từ sinh hoạt và cách sống
của những bộ lạc thời kì đồ đá, các nhà khoa học có những giả định khác nhau
về nguồn gốc của nghệ thuật múa.
+ Giả thuyết “Lý thuyết sinh vật” về nguồn gốc nghệ thuật múa dựa
trên cơ sở lý thuyết của Đác-uyn. Theo lý thuyết này thì “cảm xúc về cái đẹp

khơng chỉ là vốn sẵn có của con người mà ở cả những con vật”. Con người ta
múa theo bản năng du hứng, mỗi khi trong lịng vui sướng thì nhảy nhót, khua
chân múa tay. Họ cho rằng bản chất nguồn gốc phát sinh nghệ thuật múa là
những hiện tượng sinh vật học thuần túy, thậm chí là hiện tượng “động cỡn”
của động vật, sự hấp dẫn bởi khác giống như gà trống khoe sắc giương mào,
14


vẫy cánh quanh gà mái…Và ở con người cũng có những biểu hiện bộc lộ nét
tâm lý trước đối tượng khác giới.
Giải thích như vậy tức là phủ định con người, coi con người cũng như
lồi vật khơng có tư tưởng, lý trí… Bởi vì “nghệ thuật” quyến rũ trong giới
động vật là biểu hiện thuần túy của bản năng. Còn nghệ thuật múa là sự biểu
hiện thế giới tinh thần của con người một cách đặc thù, có mục đích thực tiễn
và bản chất sâu sắc của nó có tính xã hội. Như vậy lý thuyết khơng thỏa mãn
và đủ sức thuyết phục.
+ Học thuyết Igropa (trò chơi) do Silơ khởi đầu cho rằng bản chất của
con người không mang tính xã hội mà là một thực thể sinh vật sẵn có các
nhu cầu và khả năng tiêu phí trong những trị vơ bổ (khơng mục đích). Theo
học thuyết này, trị chơi là cách giải thốt những năng lượng dư thừa của thực
thể sống. Trò chơi là khát vọng để tách con người khỏi cuộc sống thực tại,
gắn mình vào thế giới ảo tưởng. Đây là sai lầm bởi cuộc đấu tranh khắc nghiệt
để tồn tại trong hang động khó có thể làm xuất hiện con người có đủ khả bỏ
hết thời gian, năng lượng để sống với ước mơ, ảo tưởng.
+Thuyết MaxepTeoria “thần bí”. Để có thể lí giải được những hiện
tượng siêu nhiên bí ẩn đáng sợ và để chiến thắng những con dã thú, đó là mục
đích tồn tại của người nguyên thủy. Cái mà người ngun thủy khơng thể thu
được bằng sức mạnh, nhanh chóng phục thiện và có thể chiếm được bằng
“mưu kế” của mình bằng cách “mua chuộc” việc chuyển những sinh mệnh
của con người từ cõi chết trở thành những thuật pháp bí ẩn thần linh. Như

vậy, múa bắt nguồn từ tơn giáo.
Tất cả những điệu múa “tôn giáo” đã là những phương tiện phục thiện
và tạo tiền đề về mối quan hệ giữa các vị thần thánh với sinh hoạt con người.
Và điệu múa này như có sức mạnh thần bí. Trong các nghi thức tế lễ hoặc
cúng bái từ xưa tới nay, ở nhiều nước thường dùng múa hát.
Ví dụ: Ở nước ta, trong các nghi thức tôn giáo như lên đồng, múa dặm
(Hà Nam). Ở đây người ta múa chỉ để biểu lộ lịng thành kính đối với thần
thánh, để cầu xin phù hộ cho công việc của họ có kết quả.
15


Mặc dầu vậy lập luận của các học thuyết này cũng không thể cắt nghĩa
nguồn gốc nghệ thuật múa khi coi những điệu múa là nhu cầu ma thuật đối
với con người. Bởi thực tế múa còn xuất hiện trước cả việc sùng bái vật tổ và
chủ nghĩa thần linh. Và ngay từ lúc đó, múa đã phản ánh nhiều mặt cuộc sống
lao động cũng như sinh hoạt của con người.
+ Cũng có người cho rằng tình u là nguồn gốc của nghệ thuật múa.
Khi yêu nhau người ta có cảm giác ít nói hơn nhưng vẫn u nhau thơng qua
cử chỉ, điệu bộ. Thực tế có nhiều điệu múa nói về quan hệ nam nữ, về tình
u lứa đơi. Song, không phải tất cả hoạt động của nghệ thuật múa chỉ có vậy
mà ngược lại, múa cịn đề cập đến nhiều vấn đề khác của cuộc sống.
+ Theo lý luận K.Mark- V.I.Lenin thì múa là sản phẩm của con người
trong q trình lao động sáng tạo “Để có thể thu được những vật chất của
thiên nhiên với dạng có lợi cho cuộc sống của nó, con người đã lái những sức
lực tự nhiên của thân thể mình trong sự vận động: tay, chân, đầu…Tác động
thông qua sự chuyển động đó của thiên nhiên, đồng thời con người cũng thay
đổi ln bản chất của riêng mình.”
Như vậy, múa ra đời rất sớm, ngay trong xã hội nguyên thủy, từ khi
con người chưa có tiếng nói. Múa đã được sinh ra trong q trình lao động, và
nó gắn chặt với đời sống lao động sản xuất. Sau một ngày lao động mệt nhọc

và đạt được những thành quả tốt đẹp, người nguyên thủy thấy cần phải vận
động thân thể cho thoải mái, và để truyền đạt tình cảm của mình cho người
khác nên họ đã nhảy múa. Lúc đầu múa rất thô sơ và đơn giản như: dậm chân
theo nhịp gõ, nhịp vỗ tay hay tiếng hú có nhịp điệu. trải qua quá trình lao
động, họ muốn truyền đạt cho nhau những kinh nghiệm nhưng lúc đó ngơn
ngữ chưa đủ để diễn đạt, họ phải dùng động tác chân, tay mô tả lại như làm
mẫu. Dần dần những động tác đó có nhịp điệu, có hình tượng và trở thành
múa thực sự. Trong quá trình hình thành và phát triển của loài người cho thấy
lao động sáng tạo ra con người, mà nghệ thuật múa do con người sáng tạo ra.
Con người đã bước trên con đường sáng tạo nghệ thuật thơng qua q trình
lao động, từ đó những khả năng trí tuệ của con người được hình thành và phát
16


triển. Sự tác động hai chiều giữa lao động- ý thức đã làm nên tiến bộ của nền
văn hóa vật chất, tinh thần.
1.3.2. Quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật múa
Nghệ thuật múa được sinh ra và phát triển trong quá trình lao động.
Trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển của xã hội loài người, nghệ thuật múa
dần được hoàn thiện và chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn hóa dân
tộc, trong đời sống văn hóa xã hội.
+ Trong chế độ chiếm hữu nơ lệ và cộng sản ngun thủy, múa đóng
vai trị quan trọng trong sinh hoạt xã hội. Trong giai đoạn này múa có tính
chất sơ khai, chủ yếu là múa sinh hoạt, và ý nghĩa thực dụng của nó khá rõ
nét. Những điệu múa chứa đựng mối liên hệ với tất cả ý nghĩ, cảm xúc,
khuynh hướng giống nòi, họ hàng, bộ tộc, luật pháp, đạo đức, tôn giáo…Múa
được sử dụng trong thời gian lao động, trong tôn giáo như là cuộc duyệt binh
đơng đúc, như là sự khối cảm thẩm mĩ tối cao. Nó là phương tiện phục vụ
việc giáo dục cho những thế hệ kế tiếp và truyền lại những kinh nghiệm sống
đã được tích lũy. Thơng qua múa người ta tun bố chiến tranh hoặc kí kết

hịa bình. Mỗi dịng họ hay bộ lạc có những điệu múa riêng biệt cho mình
được thể hiện như một hình tượng độc đáo cho sở hữu dòng họ.
+ Đến xã hội phong kiến thì nghệ thuật múa ngày càng được chú ý hơn.
Múa lúc này được dàn dựng để đáp ứng nhu cầu của giai cấp thống trị, do đó
múa cung đình xuất hiện. Mặt khác, mọi sinh hoạt của nhân dân lao động,
những diễn biến trong thế giới tâm linh, những bất lực siêu nhiên đã làm nảy
sinh múa dân gian, múa sinh hoạt, múa truyền thống (bao gồm cả múa tơn
giáo, tín ngưỡng).
+ Xã hội tư bản chủ nghĩa, nghệ thuật múa đạt tới sự chuẩn mực trong
kĩ thuật và kĩ xảo. Con người tích cực sáng tạo ra múa, biểu diễn múa và đánh
giá chất lượng múa nhằm đáp ứng nhu cầu của con người trong thời đại mới.
+ Nghệ thuật múa cách mạng là vũ khí đấu tranh sắc bén của giai cấp
vô sản. những người làm cơng tác múa đã thơng qua múa để tích cực tham gia
vào cuộc đấu tranh giái cấp trong và ngồi nước, phục vụ chính trị của giai
17


cấp vơ sản. Và ở đó, nghệ thuật múa có tính giai cấp, tính chiến đấu và tính
thời đại rõ nét. Những người cách mạng dùng nhiệt tình lớn nhất của mình
tích cực sáng tác ra những tác phẩm múa phản ánh tư tưởng tiên tiến nhất,
phẩm chất cao thượng nhất mà chỉ có quần chúng cơng nơng binh trong thời
chúng ta mới có. Dùng tinh thần xã hội chủ nghĩa và lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa để cổ vũ và giáo dục nhân dân. Đó là nhiệm vụ vinh quang nhất của
những người làm công tác múa cách mạng. Đồng thời, đó cũng là sự khác
nhau căn bản giữa nghệ thuật múa cách mạng của giai cấp vô sản với bất cứ
nghệ thuật múa của một giai cấp nào khác.
Như vậy, lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật múa gắn liền
với sự phát triển của xã hội loài người.
1.3.3. Bản chất của nghệ thuật múa
Múa là nghệ thuật phản ánh cuộc sống bằng hình thức đặc biệt của nó.

Cơ sở của múa là những điệu bộ, động tác có quan hệ đến q trình lao động,
sự quan sát thiên nhiên và những ấn tượng cảm nhận có được từ thế giới xung
quanh, những động tác đó được cách điệu hóa nghệ thuật.
+ Múa là mơn nghệ thuật động:
Múa là nghệ thuật tạo hình được xây dựng bằng những động tác được
chuyển động liên tục, giàu nhịp điệu, giàu biểu cảm của chính cơ thể con
người. Nói cách khác, múa là bức điêu khắc chuyển động trong nhịp điệu
bằng chất liệu của cơ thể con người.
+ Múa là nghệ thuật không gian và thời gian:
Tác phẩm múa phải được tiến hành trong một không gian nhất định.
Đồng thời nó cũng địi hỏi phải có thời gian cố định cho từng tác phẩm, ít
nhất từ 2-3 phút cho đến 2-3 giờ, thậm chí cả buổi, cả ngày. Và với khoảng
thời gian đó chúng ta mới được chứng kiến toàn bộ tác phẩm múa.
+ Chất liệu là bản thân người nghệ sĩ:
Các loại hình nghệ thuật dùng các chất liệu khác nhau trong thiên nhiên
để xây dựng tác phẩm. Ví dụ nghệ thuật tạo hình dùng vải, giấy, thạch

18


cao…để xây dựng tác phẩm… Cịn múa dùng chính bản thân người nghệ sĩ để
xây dựng nên tác phẩm múa.
+ Q trình thưởng thức đồng thời là q trình hồn thành tác phẩm:
Khi thưởng thức một tác phẩm hội họa thì bức tranh đó đã hồn chỉnh
và ở trước mắt ta, hay chúng ta đọc sách thì tác phẩm văn học đã trọn vẹn
nằm trong tay, và chúng ta muốn xem đoạn nào trước cũng được. Ngược lại,
nghệ thuật múa không như vậy. Ngồi trước sân khấu, tác phẩm mới bắt đầu
được tiến hành, và tiến hành tới đâu ta xem tới đó. Chúng ta muốn thấy trước
kết thúc như thế nào cũng không thể được mà phải chờ cho điệu múa tuần tự
phát triển. Nhờ vào sự sắp xếp và biến chuyển các động tác, hình khối, nhờ

vào sức mạnh và nhịp điệu của động tác và nhờ vào sự diễn xuất trực tiếp của
diễn viên, múa đi thẳng vào trực giác người xem và gây một tác động mạnh
mẽ.
+ Tính khái quát và trừu tượng:
Nghệ thuật múa xây dựng những hình tượng nghệ thuật hồn chỉnh
bằng cách sử dụng cơ thể con người làm phương tiện biểu hiện. Khơng thể
đưa vào đó những chi tiết cụ thể, cặn kẽ, tỉ mỉ như trong truyện ngắn hoặc tiểu
thuyết mà phải nâng lên thành khái quát giống như thơ, có thể khái quát đến
mức trừu tượng.
Nghệ thuật múa không mô tả các lao động cụ thể như thế nào mà chỉ
mơ tả người lao động trong trạng thái nào, tình cảm họ ra sao. Nói cách khác
nghệ thuật múa khơng tái hiện nguyên xi toàn bộ mọi hành động, cử chỉ của
con người trong cuộc sống. Nghệ thuật múa đã nắm vững những đặc trưng
của xã hội để phát huy khả năng của mình một cách hiệu quả.
1.3.4. Nội dung của nghệ thuật múa
Trước hiện thực của xã hội, mỗi con người có những ước mơ, khát
vọng, nỗi nhớ, đau buồn, vui sướng, lo toan, thắng lợi, thất bại, tình yêu, mức
độ cảm xúc khác nhau… Nghệ thuật múa đã nắm vững những đặc trưng của
xã hội để phát huy khả năng của mình một cách hiệu quả. Nghệ thuật múa đã
dùng động tác của cơ thể con người là vũ khí chiến đấu trên mặt trận văn hóa
19


văn nghệ, đồng thời là cơng cụ phục vụ chính trị. Bởi mỗi tác phẩm múa bao
giờ cũng chứa đựng một nội dung nào đó của cuộc sống thơng qua tư tưởng
chủ đạo của tác phẩm.
Đề tài múa là cuộc sống của con người và thơng qua đó để bộc lộ tư
tưởng, tình cảm của mình. Như vậy, nghệ thuật múa mang trong mình chức
năng phản ánh xã hội góp phần cải tạo xã hội. Múa mang lại cho người xem,
người diễn sự đồng cảm hoà hợp, trút giải phiền muộn, nảy sinh trong mỗi

người khát vọng vươn tới sự hồn thiện về thể lực và tinh thần. Đó chính là
tình cảm đạo đức, trí tuệ, tạo sự hài hồ cân đối giữa các mặt chân- thiện- mỹ.
1.3.5. Ngôn ngữ nghệ thuật múa
Ngôn ngữ múa là thành phần quan trọng để thể hiện nội dung tác phẩm,
và nó có tác dụng rất lớn trong việc diễn đạt nội dung, tư tưởng của tác
phẩm.Sự biểu hiện của ngôn ngữ múa là tiếng nói quyết định cho sự thành
cơng của tác phẩm. Khơng có một tác phẩm múa nào thành cơng mà khơng có
sự tham gia có tính chất quyết định của ngôn ngữ múa.
Múa phản ánh cuộc sống bằng ngôn ngữ động tác. Múa là loại hình
nghệ thuật tác động đến đối tượng bằng cái đẹp. Sự hài hòa giữa đường nét,
hình khối được tạo nên bởi sự chuyển động của động tác, đội hình, tuyến
múa, gợi những khối cảm thẩm mĩ.
Như vậy, ngôn ngữ múa bao gồm: Động tác, đội hình, tuyến múa, hình
tượng, và tình cảm biểu hiện.
- Động tác múa
Là yếu tố chủ thể của ngôn ngữ múa. Động tác múa gồm hai loại: động
tác mô phỏng và động tác biểu hiện.
+ Động tác mô phỏng không chỉ giải quyết bằng phương pháp khoa
học, đảm bảo tính chân thực mà đồng thời phải được giải quyết rất nghệ thuật,
nghĩa là phải theo quy luật của cái đẹp. Tính mô phỏng của động tác không
chỉ là sức thuyết phục mà phải gây được sự yêu thích cho đối tượng. Ví dụ:
động tác lên ngựa, xuống ngựa, phi ngựa…

20


Chỉ một động tác cũng được cấu tạo bằng một chuỗi các động tác giãi
bày quy trình của nó thơng qua hình tượng nghệ thuật.
+ Động tác biểu hiện phản ánh tình cảm, tâm lý, nguyện vọng của dân
tộc. Cho nên, mỗi dân tộc đều có cách biểu hiện tình cảm trong ngơn ngữ và

khơng giống nhau. Có dân tộc bộc lộ niềm vui của mình bằng tình cảm sơi
động như hị reo, la hét. Có dân tộc lại biểu hiện bằng tình cảm kín đáo, tế
nhị. Hay có dân tộc dùng động tác chân là chính để biểu lộ tình cảm muốn
diễn đạt, nhưng ngược lại, có dân tộc lại dùng động tác tay…
Sự thuần thục động tác trong sinh hoạt do q trình lao động trở thành
thói quen và dần dần do nhu cầu thưởng thức ngày càng cao mà những động
tác như quen thuộc ẩy trở thành cơ sở tạo nên những kĩ thuật, kĩ xảo trong
múa dân tộc. Và qua động tác múa ta có thể xác định đó là tiếng nói của dân
tộc nào.
- Đội hình: Có giá trị như một căn cứ chủ chốt để tạo nên điệu múa. Khi múa
phải di chuyển để tạo nên những đội hình khác nhau như: vịng trịn, vịng
cung, hình chữ V… Trong tác phẩm múa phải xây dựng đội hình hợp lí và
đẹp, đồng thời ln đổi mới sinh động, nếu không dễ gây cảm giác nhàm
chán, không phong phú, không hấp dẫn.
- Tuyến múa: là cấu trúc đội hình, đó là những đường ngang, dọc, lên, xuống,
phải, trái của sân khấu. Các tuyến múa được thực hiện liên tục theo yêu cầu
cần thể hiện của nội dung và phải tuân theo luật về sự hài hòa, đối xứng và
đối tỷ.
- Hình tượng
Nghệ thuật múa tồn tại và phát triển mang trong mình chức năng phản
ánh, giáo dục thẩm mĩ, vui chơi giải trí. Đồng thời tính nhân văn của nghệ
thuật múa luôn được thẩm định ở tầm cao trong vai trị hồn thiện các chức
năng hoạt động. Các chức năng đó tác động lẫn nhau tạo nên sự cảm nhận
nghệ thuật qua hình tượng múa. Hình tượng có thể là điểm dừng của động tác
nhưng lớn hơn, ý nghĩa hơn nó là biểu tượng mang nội dung tâm lí sâu sắc.
Chỉ cần một hình tượng có thể di cảm chiều sâu của một ý niệm.
21


Hình tượng múa mang tính tổng hợp, được xây dựng bằng sự sáng tạo

thông qua thực tiễn của cuộc sống con người. Những hình tượng được đưa
vào múa là hình tượng đã được cách điệu hóa, chính xác hóa phù hopự với
ngơn ngữ múa.
Múa là hình tượng đẹp của nội tâm. Múa cũng như đường nét được
chạm trổ tinh vi nhưng nó nhấn mạnh đến tính tạo hình của động tác. Hình
tượng thẩm mĩ là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội, đem lại những cảm
xúc và nhận thức thẩm mĩ cho người xem. Tác phẩm nghệ thuật nào mà chưa
xây dựng được hình tượng nghệ thuật thì coi như tác phẩm đó chưa thành
cơng.
Biêlinki- nhà mĩ học người Nga nói: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu
như nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó khơng có sự thơi thúc chủ
quan mạnh mẽ nào đó có nguồn gốc trong tư tưởng bao trùm thời đại, nếu nó
khơng là tiếng thét khổ đau hoặc lời ca tụng hân hoan, nếu nó khơng đặt ra
những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”.
- Tình cảm biểu hiện: Là điều rất quan trọng khi thể hiện các tác phẩm nghệ
thuật nói chung cũng như trong nghệ thuật múa nói riêng. Có thể nói sự diễn
cảm trong từng động tác và tư thế múa là linh hồn của người nghệ sĩ khi thể
hiện lại một tác phẩm nghệ thuật. Múa thì phải có hồn, như vậy mới có thể
chuyển tải được tâm tư tình cảm của người sáng tác và người biểu diễn đến
với người xem. Đó chính là người nối chiếc cầu nghệ thuật.
1.4. Nghệ thuật múa của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi trong HĐÂN
1.4.1. Vai trò của nghệ thuật múa đối với trẻ thơ
Múa mang lại cho trẻ thơ một thế giới kỳ diệu không ngừng chuyển
động gợi cho trẻ những cảm giác thú vị, thoả mãn nhu cầu khao khát được
hiểu biết và được hoạt động của trẻ. Đồng thời tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển tâm lý năng lực hoạt động và sự hiểu biết của trẻ.
Múa có vai trị quan trọng trong việc giáo dục trẻ mầm non là phương
tiện, là điều kiện hình thành phẩm chất đạo đức, phát triển thể chất, là điều
kiện định hướng phát triển thẩm mĩ cho trẻ hồn thiện nhất và cịn là phương
22



tiện phát triển trí tuệ. Các chức năng hoạt động múa đóng vai trị quan trọng
trong việc hình thành cho trẻ một tính cách hồn thiện nhất.
1.4.1.1. Múa là phương tiện hình thành phẩm chất đạo đức
Tuổi thơ là thời kỳ bình minh của cuộc đời, là giai đoạn phát triển
mạnh nhất của các chức năng tâm lí. Nghệ thuật múa hình thành “ xã hội trẻ
em ” khi trẻ hát múa với nhau, đồng thời việc phối hợp với nhau để thực hiện
các động tác, tình cảm bạn bè trở nên thân thiết hơn. Trẻ yêu thương giúp đỡ
nhau, cùng nhau vui vầy ca hát. Tính đồng cảm, tính kỷ luật, tính tập thể được
bền chặt hơn. Với những bài hát mà kết hợp với những động tác múa còn
mang đến cho trẻ những cảm xúc, lòng tự hào về quê hương đất nước. Có
những bài hát, điệu múa giúp trẻ phân biệt được những điều tốt, xấu trong xã
hội. Qua đó hình thành cho trẻ phẩm chất đạo đức tốt.
1.4.1.2. Múa là phương tiện phát triển thẩm mĩ
Nghệ thuật múa là “ bức điêu khắc sống ”. Để làm nên bức điêu khắc
múa – ở múa chính là con người thể hiện bằng dáng dấp, cơ bắp, tâm hồn,
nhựa sống của bức điêu khắc đó. Nó gây ấn tượng sâu sắc tới người thưởng
thức và ngay cả người thể hiện nó. Nó mang trong mình màu sắc về đạo đức
thẩm mĩ và vui chơi giải trí, nó cịn có vai trị trong việc hồn thiện các chức
năng hoạt động.
Lứa tuổi mầm non rất hiếu động và lứa tuổi này là thời kì phát triển
giáo dục thẩm mĩ. Chính tiếp nhận thế giới xung quanh bằng trực quan cảm
tính nên khi tiếp thu với nghệ thuật múa trẻ cảm thụ, lĩnh hội được cái đẹp và
cái chưa đẹp, lĩnh hội màu sắc kích thước, góc độ, trang phục…Qua đó phát
triển cho trẻ về đạo đức thẩm mĩ, trẻ biết cái đẹp và thích tạo ra cái đẹp.
Khi múa trẻ dễ dàng cảm nhận được giai điệu âm nhạc, trên cơ sở đó
trẻ đó trẻ biết phối hợp động tác cho phù hợp với giai điệu, đó chính là điều
kiện định hướng thẩm mỹ cho trẻ một cách tốt nhất.
1.4.1.3. Múa là phương tiện phát triển thể chất

Nghệ thuật múa là một q trình rèn luyện của chính cơ thể con người.
Qua các cử chỉ, dáng dấp, đường nét tạo nên dáng vẻ hài hòa, sinh động và
23


mềm mại. Tính đa dạng của động tác múa đã tạo ra những phản ứng gắn với
sự thay đổi nhịp tim, tăng tuần hoàn máu, giãn nở các cơ cũng như sự phát
triển của hệ xương. Sự phối hợp nhịp nhàng, vững chắc càng giúp trẻ biết
khống chế, thay đổi tốc độ, cường độ múa sao cho phù hợp. Qua múa các
động tác của tay, chân, cơ bắp, hô hấp…hoạt động, tạo cho trẻ nhanh nhẹn,
hoạt bát, có tư thế duyên dáng, giúp trẻ phát triển cân đối hài hòa, có đủ sức
khỏe là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của tí tuệ tốt.
1.4.1.4. Múa là phương tiện giáo dục trí tuệ
Khi thể hiện múa ở lứa tuổi mầm non luôn phải đi kèm với bản nhạc và
lời ca. Muốn thực hiện được múa trẻ phải chú ý lắng nghe nhạc, lời ca, thì
mới thực hiện được. Từ đó tư duy của trẻ phải làm việc tích cực, phải tập
trung chú ý để thực hiện động tác múa. Cũng có thể qua lời ca trẻ nghĩ ra
động tác minh họa phù hợp với những gì trẻ đã được tiếp nhận qua môi
trường xung quanh. Khi hoạt động với nghệ thuật múa trẻ phải kết hợp tai
nghe nhạc, mắt nhìn, tay chân hoạt động…chính vì vậy mà trẻ nhận thức và
phản ánh thế giới xung quanh một cách thoải mái và thuận lợi. Hoạt động với
nghệ thuật múa cũng là điều kiện tốt nhất để phản ánh những hoạt động đối
với trẻ thơ. Nghệ thuật múa gắn với sự phát triển trí tuệ của trẻ, địi hỏi trẻ
phải ghi nhớ có chủ định, có trí tưởng tượng, tư duy sáng tạo. Khi múa trẻ biết
lắng nghe nhạc, phối hợp giữa âm nhạc và động tác, kết hợp từ những động
tác giản đơn đến động tác phức tạp. Múa còn rèn luyện cho trẻ tính kiên trì,
biết tự kiềm chế và hồ mình với tập thể.
Như vậy, có thể nói, mỗi loại hình nghệ thuật phản ánh một cách độc
đáo cuộc sống và ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến sự phát triển tình cảm,
trí tuệ của trẻ, mà nghệ thuật múa cũng như các loại hình nghệ thuật khác (âm

nhạc, điêu khắc, hội hoạ…) đều mang trong mình chức năng phản ánh sâu sắc
về đạo đức, vui chơi, giải trí,... đồng thời tính nhân văn của nghệ thuật múa
ln được thẩm định ở độ cao trong vai trị hồn thiện các chức năng hoạt
động. Không những thế mà hoạt động múa cịn có quan hệ mật thiết với các
loại hình nghệ thuật khác như thơ ca, văn học, âm nhạc, sân khấu,... giúp trẻ
24


tiếp cận các loại hình nghệ thuật khác thơng qua múa được dễ dàng và gây
hứng thú cho trẻ. Do đó múa đóng vai trị quan trọng đối với sự phát triển
nhân cách trẻ một cách toàn diện nhất.
1.4.2. Đặc điểm khả năng múa của trẻ mẫu giáo 4- 5tuổi
So với trẻ 3- 4tuổi thì lúc này hệ cơ xương của trẻ 4 – 5 tuổi đã phát
triển hơn, cơ thể rắn chắc, mềm dẻo và linh hoạt hơn. Sự phối hợp động tác
chân, tay với dáng người đi, chạy, nhảy vững vàng hơn. Các cháu làm động
tác tương đối thuần thục. Trẻ có khả năng chuyển đổi động tác nhịp nhàng,
nhanh chậm theo nhạc, biết di chuyển đội hình hàng ngang, hàng dọc.
Tuy nhiên giáo viên cũng cần tránh những động tác khó. Về mặt thần
kinh, khả năng tự kiềm chế có tiến bộ, trẻ có thể chủ động trong hành động và
cảm xúc của mình.
Ở trẻ xúc cảm thẩm mỹ phát triển mạnh mẽ, tâm hồn trẻ nhạy cảm, dễ cảm
xúc cảm với mọi vật xung quanh. Trẻ nhận ra cái đẹp và biết cảm thụ cái đẹp,
thích học hát, học múa và học nhanh bằng cách bắt chước.
Tính hình tượng của trẻ đã phát triển, gần như chi phối mọi hoạt động tâm lí
cho trẻ dễ gần gũi với nghệ thuật.
Đến tuổi mẫu giáo tư duy của trẻ đã chuyển dần từ tư duy trực quan hành
động sang tư duy trực quan hình tượng. Việc thay thế này giúp trẻ nhìn sự vật
hiện tượng một cách tồn diện, chứ không tách rời từng mảng, từng bộ
phận một cách khơ cứng, vì thế cho nên trẻ có thể học múa và bắt chước múa
theo cô một bài múa nào đó một cách dễ dàng hơn.

1.4.3. Mối quan hệ giữa nghệ thuật múa và âm nhạc của trẻ
Âm nhạc và múa từ lâu đã là một thể loại riêng được gọi là “vũ
khúc” nó có tính độc lập, hồn chỉnh và mang tính nghệ thuật cao. Nhạc trong
múa có cái chung và cái riêng đó là tiết tấu hay cịn gọi là nhịp điệu. Nó là
một tổ hợp tiết tấu mang tính nhất định, khơng có đặc tính đó không thể múa
được.
Múa là môn nghệ thuật dùng động tác, tư thế thân thể con người,có tiết
tấu và tạo hình để biểu hiện tư tưởng, tình cảm.
25


×