Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.23 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

PHẠM CÔNG LƯU

PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ
TƯ VẤN PHÁP LUẬT
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

QUẢNG TRỊ, năm 2020


Cơng trình được hồn thành tại:
Trường Đại học Luật, Đại học Huế

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Nga

Phản biện 1: ........................................:..........................
Phản biện 2: ...................................................................

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn
thạc sĩ họp tại: Trường Đại học Luật
Vào lúc..........giờ...........ngày...........tháng .......... năm...........


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu ................................................................... 1


2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 4
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ..................................... 4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn........................................................................... 4
7. Bố cục của luận văn .......................................................................................... 5
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KINH
DOANH DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT ..................................................... 5
1.1. Lý luận về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật ............................................ 5
1.1.1. Khái niệm hoạt động tư vấn pháp luật ........................................................ 5
1.1.2. Khái niệm kinh doanh tư vấn pháp luật ...................................................... 6
1.2. Pháp luật về kinh doanh tư vấn pháp luật ...................................................... 6
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật .................... 6
1.2.2. Nội dung của pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật ................ 7
1.3. Những yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật 8
Kết luận Chương 1 ................................................................................................ 9
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ TƯ
VẤN PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG TRỊ .................. 10
2.1. Thực trạng pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật ..................... 10
2.1.1. Quy định về điều kiện kinh doanh tư vấn pháp luật ................................. 10
2.1.2. Các hình thức kinh doanh tư vấn pháp luật............................................... 12
2.1.3. Quản lý nhà nước về kinh doanh tư vấn pháp luật ................................... 15
2.2. Thực trạng pháp luật và hoạt động tư vấn pháp luật tại Quảng Trị ............. 15
2.2.1. Những đặc điểm tự nhiên và xã hội của tỉnh Quảng Trị liên quan đến hoạt
động tư vấn pháp luật .......................................................................................... 15
2.2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về hoạt động tư vấn pháp luật tại địa bàn
tỉnh Quảng Trị ..................................................................................................... 15
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật ...... 16
2.3.1. Những ưu điểm của pháp luật về dịch vụ tư vấn pháp luật ...................... 16
2.3.2. Về hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật ...................................................... 16

2.3.3. Về tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật .................................... 17


2.3.4. Về dịch vụ tư vấn pháp luật giữa tổ chức hành nghề luật sư với cá nhân, tổ
chức ..................................................................................................................... 17
Kết luận Chương 2 .............................................................................................. 18
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT ................................. 19
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật . 19
3.1.1. Xác định và giới hạn một cách đúng đắn các quyền tự do kinh doanh..... 19
3.1.2. Đảm bảo thúc đẩy xây dựng Nhà nước pháp quyền ................................. 19
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật ................................................................... 20
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật.................................................................. 20
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ..................................... 20
Kết luận Chương 3 .............................................................................................. 21
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, các tổ chức
và cá nhân ngày càng có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật. Các tổ chức,
cá nhân cần sự trợ giúp pháp lý một cách thường xuyên nhằm đảm bảo sự an
toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch của mình.
Nền kinh tế thị trường và q trình tồn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy mạnh
mẽ sự phát triển của dịch vụ tư vấn pháp luật cho các tổ chức và cá nhân khơng
chỉ trong phạm vi quốc gia mà cịn mở rộng ra khu vực và toàn cầu. Các chủ thể
tham gia nhiều giao dịch liên quan đến nhiều lĩnh vực được điều chỉnh bởi pháp

luật trong nước và pháp luật quốc tế. Để các quan hệ pháp luật diễn ra an tồn và
hiệu quả thì cần có sự trợ giúp pháp lý từ phía các nhà cung cấp DVTVPL. Việc
trợ giúp pháp lý của nhà cung cấp DVTVPL đối với bên sử dụng DVTVPL
được thể hiện dưới hình thức hợp đồng DVTVPL. Để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể hơp đồng DVTVPL, đặc biệt là của bên sử dụng
DVTVPL và phòng ngừa tranh chấp xảy ra, địi hỏi pháp luật về HĐDVTVPL
phải khơng ngừng hoàn thiện. Đồng thời hệ thống pháp luật quốc gia về kinh
doanh DVTVPL phải phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Ở Việt Nam, Dịch vụ Tư vấn pháp luật mới khởi động và phát triển từ
những năm 90 của thế kỷ 20 trở lại đây. So với bề dày truyền thống nghề luật ở
các nước phát triển như Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Anh, Pháp…thì kinh nghiệm
hành nghề của giới luật gia Việt Nam là quá ít ỏi và chưa bài bản. Loại hình dịch
vụ pháp lý với tư cách là một loại hình dịch vụ nghề nghiệp cũng đang thiếu một
khung khổ pháp lý để tổ chức và hoạt động. Điều này đã, đang gây những quan
điểm trái chiều trong thực tế.
Mặt khác, hệ quả của nền kinh tế tập trung, các quan hệ xã hội không đa
dạng và phức tạp, dẫn đến việc tổ chức, cá nhân cũng chưa có thói quen sử dụng
DVTVPL cho các hoạt động của mình. Tình trạng quan liêu, hách dịch, cửa
quyền của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước “Chất thương mại” của hoạt
động cung cấp DVTVPL, cũng như sự điều chỉnh của pháp luật
đối với hoạt động dịch vụ này còn nhiều hạn chế, bất cập. Pháp luật điều chỉnh
kinh doanh DVTVPL ở Việt Nam hiện nay cịn chưa hồn chỉnh và được quy
định ở rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, như: Bộ luật Dân sự năm 2005
(nay được thay thế Bộ Luật dân sự 2015); Luật Thương mại năm 2005; Các đạo
luật chuyên ngành và một số văn bản dưới luật, bước đầu đặt cơ sở pháp lý cho
hoạt động DVTVPL của các nhà cung DVTVPL ký kết HĐDVTVPL với các tổ
1


chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng DVTVPL. Các văn bản pháp luật nêu trên quy

định về hợp đồng, HĐDV và DVTVPL chứ không quy định trực tiếp về
HĐDVTVPL điều đó dễ mâu thuẫn với nhau. Ngược lại, có nhiều vấn đề lại
không được quy phạm pháp luật nào điều chỉnh hoặc quy định không rõ ràng
hay quá chung chung…gây khó khăn, lúng túng cho các chủ thể hoạt động kinh
doanh DVTVPL và hoạt động QLNN đối với các chủ thể kinh doanh DVTVPL.
Để đảm bảo thống nhất, minh bạch, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc
thành lập và thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật, góp phần
QLNN đảm bảo chặt chẽ cũng như hoạt động giải quyết tranh chấp đối với hoạt
động kinh doanh DVTVPL, thì pháp luật về kinh doanh DVTVPL cần được sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện. Do đó, việc nghiên cứu cơ sở lý luận của pháp luật
về pháp luật kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật cũng như xem xét, khảo cứu
thực trạng các quy định pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật kinh doanh dịch
vụ tư vấn tại nước ta là một điều hết sức cần thiết, không chỉ để giúp cho tổ chức
hoạt động tư vấn pháp luật có cơ hội hiểu hơn về loại hình hợp đồng dịch vụ này
mà cịn giúp cơ quan nhà nước và các tổ chức hữu quan nghiên cứu để hoàn
thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp
luật. Do đó, đề tài “Pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật” được
tôi lựa chọn để nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật tại Việt Nam trong thời
gian qua đã được Chính phủ, các cơ quan, ban ngành quan tâm đúng mức. Trong
đó các chế định pháp luật nói chung và Pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn
pháp luật có ý nghĩa và vai trị rất to lớn trong việc QLNN đảm bảo chặt chẽ
cũng như hoạt động giải quyết tranh chấp đối với hoạt động kinh doanh
DVTVPL, thúc đẩy sự phát triển xã hội đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập
hiện nay.
Nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả trước đã tiếp cận vấn đề pháp
luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật ở nhiều góc độ khác nhau và là
những tài liệu q báu cho tơi trong q trình nghiên cứu đề tài của mình. Đề tài
mà tơi lựa chọn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về

Pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật tại Việt Nam.
Các cơng trình khoa học ở các mức độ tiếp cận khác nhau đã đề cập đến
vấn đề pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật như:
- Vũ Quỳnh Anh (2006), “Hợp đồng dịch vụ pháp lý trong hành nghề luật
sư – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật
2


Đại học Quốc gia Hà Nội đưa ra những khái niệm cơ bản về hợp đồng dịch vụ
pháp lý, phân biệt hợp đồng dịch vụ pháp lý với các loại hợp đồng dịch vụ khác.
- Nguyễn Như Chính (2011) “Pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lý –
những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, xác định phạm vi và nội dung của các dịch vụ thương mại
pháp lý ở Việt Nam.
- Bài viết “Từng bước xây dụng quan niệm về dịch vụ pháp lý phù hợp tiến
trình hội nhập quốc tế” của TS. Phan Trung Hồi trên Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 2, năm 2007, nêu ra quan điểm phạm vi của dịch vụ pháp lý chỉ bao
gồm dịch vụ pháp lý của luật sư; mặt khác, quan niệm về phạm vi hành nghề của
luật sư mở rộng nhiều hơn so với quy định hiện hành.
- Bài viết “Dịch vụ pháp lý và nhu cầu trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam” của TS. Nguyễn Văn Tuân trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số chuyên
đề Pháp luật về Doanh nghiệp, khẳng định dịch vụ pháp lý là hoạt động rất đặc
thù so với các loại dịch vụ thông thường khác; quan điểm về phạm vi dịch vụ
pháp lý ở Việt Nam bao gồm dịch vụ pháp lý của luật sư và dịch vụ pháp lý của
các tổ chức, đoàn thể xã hội và nhu cầu dịch vụ pháp lý ngày càng tăng trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn
pháp luật Việt Nam về pháp luật kinh doanh dịch vụ tư vấn hiện hành, thực tiễn
hoạt động các dịch vụ tư vấn pháp luật ở Việt Nam.
Trên cơ sở khảo cứu cho thấy các cơng trình này đã tiếp cận nghiên cứu về

pháp luật kinh doanh dịch vụ tư vấn, bước đầu làm rõ một số vấn đề lý luận về
pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn, đồng thời cũng đã tìm hiểu thực trạng
pháp luật và đề ra phương hướng, quan điểm để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực này; giúp cơ quan nhà nước và các tổ chức hữu quan nghiên cứu để hoàn
thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp
luật đảm bảo chặt chẽ, hiệu quả.
Trên cơ sở kế thừa những vấn đề lý luận đã được làm sáng tỏ, luận văn tiếp
tục đi sâu, phân tích những luận điểm khoa học để kiến giải hoàn thiện pháp luật
về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn trên cơ sở làm rõ nội dung các quy định pháp luật về kinh
doanh dịch vụ tư vấn pháp luật, đánh giá những bất cập của pháp luật về kinh
doanh dịch vụ tư vấn pháp luật để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về pháp luật kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật.
3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận về kinh doanh DVTVPL.
- Nghiên cứu làm sáng tỏ thực trạng pháp luật kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp
luật tại Việt Nam, và sự tác động nhiều mặt của nó đến sự phát triển chung của xu
thế xã hội, đồng thời nghiên cứu làm rõ những vấn đề lí luận về tư vấn pháp luật
hiện hành về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật Doanh nghiệp
- Trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng cơ chế pháp lý pháp luật kinh doanh dịch
vụ tư vấn pháp luật. Luận văn làm rõ những nội dung chưa được pháp luật giải
quyết hoặc giải quyết chưa triệt để đưa ra các giải pháp khắc phục
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật về

kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trong giới hạn lãnh thổ Việt Nam.
Thời gian được giới hạn từ năm 2013 đến năm 2019.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật về
đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp; lý thuyết về quyền.
Trên cơ sở đó, phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm:
Trong chương 1, các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
phân tích quy phạm được sử dụng chủ yếu để làm rõ những vấn đề lý luận và
pháp lý về tư vấn pháp luật.
Trong chương 2, phương pháp phân tích pháp luật thực chứng và phân tích
trường hợp được sử dụng chủ yếu để làm rõ thực trạng pháp luật về dịch vụ kinh
doanh tư vấn pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Trong chương 3, phương pháp bình luận và dự báo khoa học được sử dụng
trong việc đưa ra những bình luận và giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ
kinh doanh tư vấn pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Về lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận và pháp luật về kinh
doanh dịch vụ tư vấn pháp luật tại Việt Nam, trên cơ sở đó góp phần làm rõ
những khái niệm, luận điểm khoa học để bổ sung, hoàn thiện những quy định về
pháp luật của nhà nước về pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật đảm
bảo chặt chẽ, hiệu quả.
4


- Về thực tiễn: Luận văn góp phần làm sảng tỏ những nguyên nhân dẫn đến
việc hạn chế trong việc thực thi pháp luật kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật tại
Việt Nam; sử dụng kết quả nghiên cứu trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu

cho giảng viên, học viên, sinh viên ngành luật và giúp cá nhân, tổ chức hiểu rõ
hơn về quyền kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật án bộ thực thi pháp luật tại
địa phương.
7. Bố cục của luận văn
- Ngoài phần mở đầu và phần Kết luận, nội dung chính của Luận văn gồm
3 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư
vấn pháp luật.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về kinh doanh dịch vụ tư vấn
pháp luật.
Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kinh doanh tư
vấn pháp luật.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
KINH DOANH DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT
1.1. Lý luận về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật
1.1.1. Khái niệm hoạt động tư vấn pháp luật
Trong đời sống xã hội, “tư vấn” đã và đang là một khái niệm được sử dụng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, như: tư vấn tâm lý, tư vấn kinh doanh, tư vấn
giáo dục, tư vấn sản xuất, tư vấn pháp luật... Theo Giáo sư Hồng Phê thì: “Tư
vấn theo nghĩa thơng thường là đóng góp ý kiến về những vấn đề được hỏi đến,
nhưng khơng có quyền quyết định”1. Tư vấn là q trình thu nhận những thơng tin
khách quan, những tri thức hiểu biết về một lĩnh vực nhất định bị chi phối bởi các
động cơ chủ quan khác nhau của người tư vấn và người cần tư vấn. Vì vậy, tư vấn
có thể được xem như là một hình thức cho lời khuyên, đóng góp ý kiến từ một tổ
chức hoặc người có trình độ chun mơn cao về một lĩnh vực nào đó tới những
người hoặc tổ chức cần được tư vấn mà có trình độ chun mơn thấp hơn hoặc
khơng có hiểu biết gì về lĩnh vực đó2.
Hồng Phê (Chủ biên) (1999), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Văn hố Thơng tin.
Trần Ngun Tú (2020), Một số vấn đề về tư vấn pháp luật trong trợ giúp pháp lý,

/>1
2

5


1.1.2. Khái niệm kinh doanh tư vấn pháp luật
Hoạt động tư vấn pháp luật gồm có 2 chủ thể chính: cá nhân/tổ chức thực
hiện tư vấn (gọi chung là bên tư vấn) và cá nhân/tổ chức nhận tư vấn (gọi chung
là bên nhận tư vấn). Cũng như các mối quan hệ trong những hoạt động tư vấn
của lĩnh vực khác, bên tư vấn sẽ thực hiện cơng việc của mình dựa trên thỏa
thuận với bên nhận tư vấn và những mong muốn chính đáng của họ để đưa ra
những quan điểm, phương hướng giải quyết tốt nhất trên phương diện pháp luật
cho một tình huống cụ thể, và sau đó sẽ nhận lại thù lao dựa trên chính thỏa
thuận đó. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, bên tư vấn đều sẽ được
nhận thù lao từ bên nhận tư vấn, bởi lẽ đó là những trường hợp mà việc thực
hiện tư vấn pháp luật là hoạt động mang tính chất xã hội, khơng nhằm mục đích
thu lợi nhuận, và trường hợp này sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Việc bên tư vấn pháp luật thực hiện cơng việc của mình một cách thường xun
và nhận thù lao dựa trên thỏa thuận với bên nhận tư vấn ở đây chính là một hành
vi kinh doanh.
1.2. Pháp luật về kinh doanh tư vấn pháp luật
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật
Trước tiên, để tìm ra được khái niệm pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư
vấn pháp luật, cần phải hiểu rõ thế nào là “dịch vụ”. Giáo sư Philip Kotler định
nghĩa: “dịch vụ là bất kỳ hoạt động hay lợi ích nào mà chủ thể này có thể cung
cấp cho chủ thể kia. Trong đó đối tượng cung cấp nhất định phải mang tính vơ
hình và khơng dẫn đến bất kỳ quyền sở hữu một vật nào cả. Còn việc sản xuất
dịch vụ có thể hoặc khơng cần gắn liền với một sản phẩm vật chất nào”3. Theo
quan điểm này, dịch vụ là hoạt động, lợi ích được chủ thể này cung cấp cho chủ

thể kia mà trong đó, dịch vụ sẽ mang tính vơ hình, khơng nhất định phải gắn liền
với một sản phẩm vật chất nào. Theo Từ điển Tiếng Việt, “Dịch vụ là công việc
phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được
trả cơng”4. Theo quy định này, những công việc phục vụ cho nhu cầu nhất định
của số đơng, có tổ chức và được trả cơng là dịch vụ. Khoản 2 Điều 4 của Luật
giá số 11/2012/QH13 của Việt Nam cũng có quy định, “Dịch vụ là hàng hóa có
tính vơ hình, q trình sản xuất và tiêu dùng không tách rời nhau, bao gồm các
loại dịch vụ trong hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam theo quy định của pháp
luật”5.
3

/>[Từ điển Tiếng Việt, 2004, NXB Đà Nẵng, tr256
5
Luật giá, 2012.
4

6


*Bản chất của quan hệ pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật
Kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật về bản chất là một hoạt động thương
mại, cụ thể là hoạt động thương mại dịch vụ. Như vậy, muốn hiểu rõ về kinh
doanh tư vấn pháp luật cần phải nghiên cứu về hoạt động thương mại dịch vụ
nói chung, từ đó sẽ thấy được những vấn đề hoạt động thương mại dịch vụ tư
vấn pháp luật nói riêng.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chỉ quy định cụ thể trong Nghị định số
77/2008/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động tư vấn pháp luật của các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề
nghiệp, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật mà những hoạt động

tư vấn pháp luật của những tổ chức này sẽ mang tính chất xã hội, khơng nhằm
mục đích thu lợi nhuận6.
*Thứ nhất, về chủ thể thực hiện kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật
Trước tiên, để có năng lực chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh dịch vụ tư
vấn pháp luật, bên cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật. Dù là Luật sư hành nghề
với tư cách cá nhân hay tổ chức hành nghề luật sư đều sẽ phải đáp ứng được đặc
điểm chung của thương nhân, thể hiện tính thương mại: đó là phải được thành
lập hợp pháp, có đăng ký kinh doanh cung ứng dịch vụ nằm trong phạm vi hoạt
động thương mại, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và hoạt động đó phải diễn ra
trên thị trường. Bởi lẽ dịch vụ pháp lý trong đó có bao gồm dịch vụ tư vấn pháp
luật là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện, mà cụ thể, theo pháp luật
chuyên ngành Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn, bên cung ứng dịch vụ sẽ
phải đáp ứng đầy đủ một số điều kiện để được thực hiện cơng việc của minh, cụ
thể:
* Thứ hai, về hình thức thỏa thuận giữa chủ thể kinh doanh dịch vụ tư
vấn pháp luật và chủ thể nhận tư vấn pháp luật
Trong hoạt động kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật ln cần có sự tham
gia của hai bên chủ thể là bên cung cấp dịch vụ (có thể gồm một hoặc một số nhà
cung cấp) là bên tư vấn và bên sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật (có thể gồm một
hoặc một số cá nhân, tổ chức có nhu cầu sử dụng), vậy nên để đảm bảo mối
quan hệ mua – bán này được diễn ra suôn sẻ, đúng pháp luật, có lợi cho đơi bên,
các bên tham gia mối quan hệ này cần phải có một sự thỏa thuận với nhau. Sự
thỏa thuận đó chính là hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật.
6

Điều 1, Nghị định số 77/2008/NĐ-CP về Tư vấn pháp luật, 2008

7



* Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ
Như đã nói ở trên, pháp luật Việt Nam khơng có quy định riêng cho hoạt
động cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật, vậy nên quyền và nghĩa vụ của bên
cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật sẽ tuân thủ theo quy định điều chỉnh trực tiếp
đến hành vi kinh doanh thương mại là Luật Thương mại 2005 về quyền và nghĩa
vụ của bên cung ứng dịch vụ nói chung. Theo đó, tại Điều 78 Luật Thương mại
có quy định về Nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ như sau:
* Thứ tư, về quyền và nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ
Việc phía khách hàng thực hiện nghĩa vụ của mình trong mối quan hệ cung
ứng dịch vụ này cũng chính là quyền của bên cung ứng dịch vụ. Theo đó, tại
Điều 85 của Luật Thương mại 2005 quy định nghĩa vụ của khách hàng là phải
thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thỏa thuận trong hợp đồng, cụ thể như
sau:
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, khách hàng có các nghĩa vụ sau đây:
1. Thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thoả thuận trong hợp đồng;
2. Cung cấp kịp thời các kế hoạch, chỉ dẫn và những chi tiết khác để việc
cung ứng dịch vụ được thực hiện khơng bị trì hỗn hay gián đoạn;
3. Hợp tác trong tất cả những vấn đề cần thiết khác để bên cung ứng có thể
cung ứng dịch vụ một cách thích hợp;
4. Trường hợp một dịch vụ do nhiều bên cung ứng dịch vụ cùng tiến hành
hoặc phối hợp với bên cung ứng dịch vụ khác, khách hàng có nghĩa vụ điều phối
hoạt động của các bên cung ứng dịch vụ để không gây cản trở đến công việc của
bất kỳ bên cung ứng dịch vụ nào.”7
1.3. Những yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh dịch vụ tư vấn
pháp luật
Phải khẳng định rằng, dịch vụ tư vấn pháp luật là một dịch vụ gắn liền với
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và thực thi công lý, đảm bảo cơng
bằng xã hội.
Thứ nhất, xét trên khía cạnh là cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi kinh
doanh dịch vụ tư vấn pháp luật. Theo quy định tại Điều 33 Hiến Pháp Nước

Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam “Mọi người có quyền tự do kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Rõ ràng rằng, hoạt động
kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật, mặc dù pháp luật đã có những quy định

7

Điều 85 Luật Thương mại 2005

8


yêu cầu tiêu chuẩn riêng để thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ này, tuy
nhiên vẫn là hành vi kinh doanh được pháp luật bảo hộ, không bị cấm.
Thứ hai, xét trên khía cạnh là bên nhận tư vấn, sau khi được bên tư vấn chỉ
ra những vấn đề pháp lý liên quan đến vấn đề của mình, sẽ hiểu rõ hơn về quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, từ đó đưa ra được những ý kiến, thực hiện được
những hành vi đúng với chuẩn mực xã hội và pháp luật. Việc bên nhận tư vấn
tìm đến bên tư vấn để tìm hiểu về quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng như
mong muốn giải quyết vấn đề của mình một cách hợp pháp chính là một biểu
hiện rõ ràng của tinh thần thượng tôn pháp luật, sống và làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật.
Kết luận Chương 1
Về bản chất, hoạt động tư vấn chính là đưa ra lời khun. Từ khía cạnh đó,
tư vấn pháp luật được hiểu là những lời khuyên trong lĩnh vực pháp luật, hướng
dẫn cá nhân, tổ chức xử sự đúng pháp luật; cung cấp dịch vụ pháp lý giúp cho
các cá nhân, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Hoạt động tư vấn này được thực hiện bởi luật sư hoạt động dưới tư cách cá nhân
hoặc làm việc trong tổ chức hành nghề luật sư, ngoài ra cũng được thực hiện bởi
các chủ thể khác nhưng khơng nhằm mục đích lợi nhuận. Trong chương này, tác
giả đã nghiên cứu và làm rõ một số quan điểm khác nhau, cũng như đưa ra được

khái niệm về hoạt động tư vấn pháp luật, khái niệm về hoạt động kinh doanh
dịch vụ tư vấn pháp luật cũng như bản chất của hoạt động kinh doanh này là một
hoạt động thương mại dịch vụ, từ đó xác định ra được những yêu cầu chung đối
với chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật và hình thức
của sự thỏa thuận giữa bên tư vấn và bên nhận tư vấn. Cuối cùng, tác giả đặt
hoạt động kinh doanh này trong mối quan hệ giữa cá nhân, tổ chức và pháp luật
của quốc gia để thấy được sự liên quan, tác động lẫn nhau của hoạt động kinh
doanh tư vấn pháp luật – các chủ thể tham gia vào cả bên kinh doanh và bên
mua dịch vụ với nền dân chủ, bảo đảm pháp quyền. Từ những khái niệm ban
đầu này, cùng với những nội dung chung của pháp luật mà điều chỉnh hoạt động
kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật, tác giả sẽ dùng làm căn cứ để đánh giá thực
trạng pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật ở chương tiếp theo.

9


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ
KINH DOANH DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
TẠI TỈNH QUẢNG TRỊ
2.1. Thực trạng pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật
2.1.1. Quy định về điều kiện kinh doanh tư vấn pháp luật
Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi muốn thành lập một tổ chức
cung ứng dịch vụ pháp lý của luật sư tại Việt Nam, ngoài việc phải đáp ứng các
điều kiện về tư cách pháp lý của người thành lập và quản lý doanh nghiệp quy
định tại Luật doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014 hiện hành, chủ thể thực
hiện tư vấn còn phải đáp ứng về chuyên môn và kỹ năng hành nghề luật8; tiếp
theo đó là phải đáp ứng được yêu cầu về hình thức tổ chức được quyền thực hiện
kinh doanh tư vấn pháp luật (sẽ được đề cập đến ở mục 2.2), ngoài ra để thực hiện
hoạt động kinh doanh này đúng được theo quy định của pháp luật thì đối tượng

kinh doanh cũng là vấn đề cần được quan tâm và chú trọng.
2.1.1.1. Quy định của pháp luật về điều kiện trở thành chủ thể thực hiện
kinh doanh tư vấn pháp luật
Như đã đề cập ở chương 1, hoạt động kinh doanh tư vấn pháp luật là hoạt
động thương mại dịch vụ luôn gắn liền với pháp luật: trang bị cho khách hàng
kiến thức, hiểu biết về một lĩnh vực pháp luật nhất định. Để thỏa mãn nhu cầu
được biết, được hiểu về mặt pháp lý của chủ thể nhận tư vấn, hỗ trợ cho việc
đảm bảo an toàn về mặt pháp lý cho tổ chức, cá nhân trong nhiều mối quan hệ
xã hội, người thực hiện tư vấn pháp luật (có thể là chủ thể thực hiện tư vấn hoạt
động với tư cách cá nhân hoặc hoạt động với tư cách là thành viên của một
doanh nghiệp pháp lý) phải có trình độ chun mơn và kỹ năng hành nghề luật.
Bởi lẽ việc tư vấn pháp luật không chỉ gắn liền với quy định pháp luật của một
quốc gia, hoặc quy định quốc tế, mà việc này cịn có khả năng tác động đến tình
trạng pháp lý và kinh tế của chính chủ thể nhận tư vấn, cũng có khả năng tác
động lên nhiều cá nhân, tổ chức khác mà có liên quan đến chủ thể nhận tư vấn
này, vậy nên, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đối tượng nhận tư vấn và cả
những đối tượng có thể liên quan, pháp luật quy định các công việc là đối tượng
của hợp đồng dịch vụ pháp lý nói chung và hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật

8

Mục 3. đ) Nghị Quyết Số : 65/2006/NQ-QH11 Về việc thi hành Luật Luật sư

10


nói riêng phải do các chuyên gia pháp lý, có trình độ chun mơn và kỹ năng
hành nghề luật (tức là có chứng chỉ hành nghề) thực hiện.
2.1.1.2. Điều kiện về thời gian để trở thành thành viên của tổ chức hành
nghề luật sư, điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư

Theo quy định tại Điều 33 Luật Luật sư 2012 thì chủ thể thực hiện tư vấn
pháp luật, cụ thể là Luật sư còn phải đáp ứng được những điều kiện như sau để
có thể được thành lập tổ chức hành nghề và thực hiện hành nghề:
a) Luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư
phải có ít nhất hai năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho
tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng
lao động cho cơ quan, tổ chức theo quy định của Luật này;
b) Tổ chức hành nghề luật sư phải có trụ sở làm việc.
4. Một luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một tổ chức
hành nghề luật sư. Trong trường hợp luật sư ở các Đoàn luật sư khác nhau cùng
tham gia thành lập một công ty luật thì có thể lựa chọn thành lập và đăng ký
hoạt động tại địa phương nơi có Đồn luật sư mà một trong các luật sư đó là
thành viên.
5. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt
động, các luật sư thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư không
phải là thành viên của Đồn luật sư nơi có tổ chức hành nghề luật sư phải chuyển
về gia nhập Đoàn luật sư nơi có tổ chức hành nghề luật sư hoặc chi nhánh của tổ
chức hành nghề luật sư theo quy định tại Điều 20 của Luật này” (Điều 32, khoản
3, Luật Luật sư).
2.1.1.3. Điều kiện về năng lực chủ thể của bên kinh doanh dịch vụ tư vấn
pháp luật
Pháp luật hiện tại cho phép tổ chức hành nghề luật sư sẽ bao gồm Văn phịng
luật sư và Cơng ty luật. Bởi lẽ đó, những tổ chức hành nghề này DVPL phải có
năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Theo quy định
tại Điều 86 Bộ luật dân sự 2015 về Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân và
Luật Luật sư thì năng lực chủ thể của tổ chức hành nghề luật sư phát sinh cùng một
thời điểm đó là ngày tổ chức hành nghề được thành lập hợp pháp.
Một là: Năng lực pháp luật của tổ chức hành nghề luật sư kinh doanh tư
vấn pháp luật
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014, thời điểm doanh nghiệp được

thành lập hợp pháp là ngày doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh và được tiến hành các hoạt động kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp
11


kinh doanh các ngành nghề có điều kiện thì thời điểm doanh nghiệp được bắt đầu
kinh doanh là ngày doanh nghiệp được cấp Giấy phép kinh doanh.
Hai là: Năng lực hành vi của tổ chức hành nghề luật sư kinh doanh tư vấn
pháp luật
Năng lực hành vi của tổ chức hành nghề luật sư kinh doanh tư vấn pháp
luật được nhà nước thừa nhận từ thời điểm được thành lập hợp pháp. Kể từ thời
điểm này, tổ chức hành nghề luật sư bằng khả năng của mình được thực hiện
cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật cho khách hàng.
Tóm lại, năng lực chủ thể của tổ chức hành nghề luật sư kinh doanh tư vấn
pháp luật phát sinh vào thời điểm đó là ngày được thành lập hợp pháp. Kể từ ngày
được thành lập hợp pháp thì tổ chức này có năng lực pháp lý và năng lực hành vi,
có quyền thực hiện kinh doanh đúng phạm vi kinh doanh của mình để nhận thù lao.
2.1.1.4. Điều kiện về đối tượng của hoạt động kinh doanh dịch vụ tư vấn
pháp luật
Bộ Luật dân sự quy định: “Đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là cơng
việc có thể thực hện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội”
Phạm vi đối tượng này rất rộng, nhưng vẫn nằm trong giới hạn mà pháp luật quy
định, đó là không bị pháp luật cấm và không trái đạo đức xã hội. Thêm vào đó,
tại Luật Luật sư cũng đã đưa ra quy định như sau về Hoạt động tư vấn pháp luật
của Luật sư. Theo đó, tại khoản 2 của Điều 28 luật này có quy định: “Khi thực
hiện tư vấn pháp luật, luật sư phải giúp khách hàng thực hiện đúng pháp luật để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ”.
Công việc bao gồm các lĩnh vực tư vấn mà bên cung ứng dịch vụ tư vấn
pháp luật thỏa thuận sẽ thực hiện tư vấn cho các cá nhân, tổ chức theo đó có thể
bao gồm tất cả những vấn đề liên quan đến cá nhân, tổ chức, quyền lợi và nghĩa

vụ của những đối tượng này trên phạm vi tư vấn pháp luật, miễn là nội dung tư
vấn của bên thực hiện tư vấn không phải là điều bị pháp luật cấm và không trái
đạo đức xã hội, đồng thời yêu cầu của bên nhận tư vấn ngay từ ban đầu cũng
phải tuân thủ điều kiện là không bị pháp luật cấm và không trái đạo đức xã hội,
đảm bảo bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức sử dụng dịch
vụ tư vấn pháp luật.
2.1.2. Các hình thức kinh doanh tư vấn pháp luật
Người có đủ điều kiện và có chứng chỉ hành nghề để cung cấp dịch vụ
pháp lý nói chung và dịch vụ tư vấn pháp luật nói riêng được hành nghề tại các
tổ chức hành nghề hoặc được hành nghề với tư cách cá nhân. Dù được tổ chức
dưới hình thức nào, các nhà đầu tư cũng phải đáp ứng được những điều kiện do
12


pháp luật quy định để được thành lập và hoạt động. Theo đó, Luật Luật sư 2012
quy định các tổ chức Luật sư được tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, hoạt
động cung ứng dịch vụ pháp lý, trong đó có hoạt động cung ứng dịch vụ tư vấn
pháp luật với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tổ chức hành nghề luật sư do các
luật sư Việt Nam và luật sư nước ngoài đầu tư thành lập sẽ phải bao gồm những
hình thức như sau.
2.1.2.1. Hình thức kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật dưới tư cách là Tổ
chức tư vấn pháp luật
Theo quy định của pháp luật chuyên ngành là Luật Luật sư, hình thức tổ
chức hành nghề luật sư sẽ bao gồm những hình thức sau:
“Tổ chức hành nghề luật sư bao gồm: a) Văn phòng luật sư; b) Cơng ty
luật” (khoản 1, Điều 32).
Theo đó, tổ chức được hành nghề luật sư sẽ được thực hiện kinh doanh
dịch vụ tư vấn pháp luật của mình với hình thức là văn phịng luật sư – doanh
nghiệp tư nhân hoặc công ty luật.
2.1.2.2. Công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn

Theo quy định tại Điều 34 Luật Luật sư, để được hoạt động dưới hình thức
là cơng ty luật thì chủ thể của hoạt động kinh doanh phải đảm bảo tuân thủ theo
quy định như sau:
“1. Công ty luật bao gồm công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm
hữu hạn. Thành viên của công ty luật phải là luật sư.
2. Công ty luật hợp danh do ít nhất hai luật sư sáng l. Cơng ty luật hợp
danh khơng có thành viên góp vốn.
3. Cơng ty luật trách nhiệm hữu hạn bao gồm công ty luật trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên và công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do ít nhất hai luật
sư sáng lập.
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một luật sư sáng lập
và làm chủ sở hữu.
4. Các thành viên công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên thỏa thuận cử một thành viên làm Giám đốc công ty. Luật
sư làm chủ sở hữu công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Giám đốc
công ty.
5. Tên của công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên do các thành viên thỏa thuận lựa chọn, tên của công ty luật
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do chủ sở hữu lựa chọn và theo quy định
13


của Luật doanh nghiệp nhưng phải bao gồm cụm từ “công ty luật hợp danh”
hoặc “công ty luật trách nhiệm hữu hạn”, không được trùng hoặc gây nhầm lẫn
với tên của tổ chức hành nghề luật sư khác đã được đăng ký hoạt động, không
được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và
thuần phong mỹ tục của dân tộc” (Điều 34).
2.1.2.3. Hình thức kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật dưới tư cách là Văn
phòng luật sư

Theo quy định tại Điều 33 Luật Luật sư, để được hoạt động dưới hình thức
là Văn phịng luật sư thì chủ thể của hoạt động kinh doanh phải đảm bảo tuân
thủ theo quy định như sau:
“1. Văn phòng luật sư do một luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động
theo loại hình doanh nghiệp tư nhân.
Luật sư thành lập văn phịng luật sư là Trưởng văn phòng và phải chịu
trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng.
Trưởng văn phòng là người đại diện theo pháp luật của văn phòng.
2. Tên của văn phòng luật sư do luật sư lựa chọn và theo quy định của Luật
doanh nghiệp nhưng phải bao gồm cụm từ “văn phịng luật sư”, khơng được
trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề luật sư khác đã được
đăng ký hoạt động, không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống
lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
3. Văn phịng luật sư có con dấu, tài khoản theo quy định của pháp luật” (Điều 33).
2.1.2.4. Các hình thức kinh doanh tư vấn pháp luật khác
* Tổ chức hành nghề luật sư nước ngồi
Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng cho phép việc tổ chức hành nghề Luật
sư nước ngoài được thực hiện kinh doanh tại Việt Nam dưới các hình thức:
Thứ nhất, hình thức chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài
(gọi là chi nhánh): Là đơn vị phụ thuộc của tổ chức hành nghề luật sư nước
ngoài do một luật sư (nước ngoài hoặc Việt Nam) làm Trưởng chi nhánh, là
người đại diện theo ủy quyền của tổ chức luật sư nước ngoài để quản lý, điều
hành hoạt động của chi nhánh;
Thứ hai, Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một trăm phần trăm vốn nước
ngoài: Là tổ chức hành nghề luật sư do một hoặc nhiều tổ chức hành nghề luật
sư nước ngồi thành lập tại Việt Nam;
Thứ ba, Cơng ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh: Là tổ
chức hành nghề luật sư liên doanh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và
14



tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một trăm
phần trăm vốn nước ngồi và cơng ty luật trách nhiệm hữu hạn liên doanh gọi
chung là cơng ty luật nước ngồi. Giám đốc cơng ty luật nước ngồi là luật sư
(Việt Nam hoặc nước ngồi). Tên gọi và trụ sở của cơng ty luật nước ngoài phải
tuân theo quy định về tên và trụ sở của doanh nghiệp theo quy định của Luật
doanh nghiệp.
2.1.3. Quản lý nhà nước về kinh doanh tư vấn pháp luật
Hoạt động kinh doanh tư vấn pháp luật với bản chất là một hoạt động kinh
doanh thương mại, tuy nhiên lại chứa đựng đặc thù của một hoạt động chuyên
ngành là hoạt động tư vấn pháp luật, bởi lẽ đó hoạt động này cần phải có được
sự phối hợp quản lý của cơ quan quản lý kinh doanh và cơ quan quản lý chuyên
ngành. Pháp luật hiện hành đã quy định: “nguyên tắc quản lý luật sư và hành
nghề luật sư là sự kết hợp “giữa quản lý nhà nước với chế độ tự quản của tổ
chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư”, nhằm phát
huy, nâng cao chức năng, vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
luật sư và tổ chức hành nghề luật sư, phù hợp với đặc thù của hoạt động luật
sư”9.
2.2. Thực trạng pháp luật và hoạt động tư vấn pháp luật tại Quảng Trị
2.2.1. Những đặc điểm tự nhiên và xã hội của tỉnh Quảng Trị liên quan
đến hoạt động tư vấn pháp luật
- Những đặc điểm tự nhiên của tỉnh Quảng Trị liên quan đến hoạt động tư
vấn pháp luật
Quảng Trị có lợi thế về địa lý - kinh tế, là đầu mối giao thông, nằm ở trung
điểm đất nước, ở vị trí quan trọng - điểm đầu trên tuyến đường huyết mạch
chính của hành lang kinh tế Đơng - Tây nối với Lào - Thái Lan - Mianmar qua
cửa khẩu quốc tế Lao Bảo đến các cảng biển Miền Trung như: Cửa Việt, Chân
Mây, Đà Nẵng, Vũng Áng... Đây là điều kiện rất thuận lợi để Quảng Trị mở
rộng hợp tác kinh tế trong khu vực, giao thương hàng hóa, vận tải quốc tế, phát
triển thương mại, dịch vụ và du lịch.

2.2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về hoạt động tư vấn pháp luật tại
địa bàn tỉnh Quảng Trị
Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội cùng với sự phát triển
chung trong lĩnh vực tư vấn pháp luật, các tổ chức hành nghề luật sư tại tỉnh Quảng
Trị đã hoạt động ổn định và phát triển. Công tác quản trị, điều hành tổ chức, hoạt

9

Điều 6 Luật luật sư

15


động của tổ chức hành nghề luật sư trong lĩnh vực tư vấn pháp luật được cải tiến
theo hướng chuyên nghiệp và ngày càng tăng doanh thu.
Tính đến ngày 25/9/2019 tỉnh Quảng Trị là địa phương có số lượng luật sư
tổ chức hành nghề luật sư khá khiêm tốn so với cả nước với 14 luật sư.
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp
luật
2.3.1. Những ưu điểm của pháp luật về dịch vụ tư vấn pháp luật
Xuất phát từ mối quan hệ vị trí vai trị của DVTVPL giữa tổ chức hành
nghề luật sư và cá nhân, tổ chức được trình bày và phân tích như những nội
dung trên. Có thể thấy DVTVPL giữa tổ chức hành nghề luật sư với cá nhân, tổ
chức có những ưu điểm sau:
Thứ nhất, tổ chức hành nghề luật sư trực tiếp cung cấp DVTVPL cho cá
nhân, tổ chức thông qua hoạt động tư vấn pháp luật. Việc cung cấp DVTVPL
được thực hiện trên hầu hết trên các lĩnh vực pháp luật khác như: kinh doanhthương mại, hình sự, dân sự, hành chính, lao động và các lĩnh vực pháp luật
khác liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Qua
đó, tổ chức hành nghề DVTVPL giúp cá nhân, tổ chức hiểu biết pháp luật đầy
đủ hơn, biết được các quyền, nghĩa vụ củng như trực tiếp giúp cá nhân, tổ chức

bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật quy định. Đặc biệt, thông
qua hoạt động cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật, cá nhân, tổ chức còn biết lựa
chọn các hành vi ứng xử phù hợp với quy định của pháp luật, tiếp cận và thực
hiện pháp luật.
Thứ hai, qua thực tiễn DVTVPL của tổ chức hành nghề luật sư, giúp cho
cá nhân, tổ chức tiếp cận hệ thống pháp luật củng như tiếp cận cơng lý một cách
bình đẳng, góp phần hỗ trợ thực thi pháp luật, bảo vệ pháp luật, xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước củng như các tiêu chuẩn quốc tế về quyền tự do kinh doanh
theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Thúc đẩy hoạt động kinh
doanh của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đúng pháp luật, có hiệu quả.
Thứ ba, thông qua hoạt động tư vấn pháp luật giúp cho cá nhân, tổ chức có
quyền lựa chọn các tổ chức hành nghề DVTVPL phù hợp yêu cầu của mình,
đảm bảo tính bảo mật cao, xác định phạm vi thực hiện các dịch vụ tư vấn pháp
luật.
2.3.2. Về hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Thứ nhất, về nguyên tắc hành nghề luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm
2012 không quy định cụ thể về nguyên tắc hành nghề luật sư. Điều 5 chỉ quy
16


định ngắn gọn: “1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; 2. Tuân theo quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam; 3. Độc lập trung thực, tôn trọng
sự thật khách quan;4. Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất
quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng;5. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về
hoạt động nghề nghiệp luật sư”.
Thứ hai,về nhận và thực hiện vụ việc của khách hàng, Điều 24 Luật luật sư
năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 quy định: “1. Luật sư tôn trọng sự lựa chọn
luật sư của khách hàng; chỉ nhận vụ việc theo khả năng của mình và thực hiện vụ
việc trong phạm vi yêu cầu của khách hàng; 2. Khi nhận vụ việc, luật sư thông

báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư
trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng; 3. Luật sư khơng chuyển
giao vụ, việc mà mình đã nhận cho luật sư khác làm thay, trừ trường hợp được
khách hàng đồng ý hoặc trường hợp bất khả kháng”.
2.3.3. Về tranh chấp hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật
Thứ nhất, tranh chấp HĐDVTVPL giữa tổ chức hành nghề luật sư tư vấn
pháp luật và cá nhân, tổ chức liên quan đến thù lao và chi phí DVTVPL. Có
nhiều tổ chức hành nghề luật sư tư vấn pháp luật bị khách hàng là cá nhân, tổ
chức vi phạm nghĩa vụ thanh toán thù lao và phí dịch vụ sau khi tổ chức hành
nghề luật sư DVTVPL đã hoàn thành nghĩa vụ cung cấp DVTVPL cho cá nhân
và tổ chức đạt mục đích của mình.
Thứ hai, trường hợp tranh chấp hợp đồng DVTVPL do bên cung cấp dịch
vụ khơng có chức năng kinh doanh DVTVPL theo quy định của pháp luật. Theo
quy định của Luật luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 thì chỉ có tổ chức
hành nghề luật sư mới có đủ tiêu chuẩn, điều kiện được thực hiện DVTVPL.
Thứ ba, trong trường hợp tranh chấp HĐDVTVPL do bên cung cấp
DVTVPL không thực hiện đúng tư cách khi tham gia tố tụng.
2.3.4. Về dịch vụ tư vấn pháp luật giữa tổ chức hành nghề luật sư với cá
nhân, tổ chức
Thứ nhất, chưa có quy định pháp luật khái niệm dịch vụ pháp lý và dịch vụ
TVPL
Thứ hai, hạn chế và bất cập về phạm vi hành nghề TVPL
Thứ ba, hạn chế và bất cập về chủ thể cung cấp DVTVPL
Thứ tư, hạn chế và bất cập về giao kết hợp đồng DVTVPL
Thứ năm, hạn chế và bất cập về hình thức hợp đồng DVTVPL
Thứ sáu, hạn chế và bất cập về tranh chấp hợp đồng DVTVPL

17



Kết luận Chương 2
Nghiên cứu về thực trạng các quy định pháp luật liên quan tới hoạt động
kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật, tác giả đã nghiên cứu, phân tích và đánh
giá các quy định nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau điều chỉnh
mối quan hệ thương mại dịch vụ này. Quy định của pháp luật về vấn đề nghiên
cứu tập trung nằm ở Bộ luật dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại và
Luật Luật sư tại chương này đã làm rõ cơ sở pháp lý về điều kiện để các chủ thể
(cá nhân, tổ chức) thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật (điều
kiện để được hành nghề luật sư, điều kiện chủ thể kinh doanh dịch vụ tư vấn
pháp luật, đối tượng của dịch vụ tư vấn pháp luật), hình thức kinh doanh dịch vụ
tư vấn pháp luật (văn phịng luật sư, Cơng ty luật trách nhiệm hữu hạn, công ty
luật hợp danh). Từ việc nghiên cứu những căn cứ pháp lý này, những ưu điểm
và bất cập của hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ tư
vấn pháp luật nói riêng và hoạt động dịch vụ pháp lý nói chung đã được chỉ ra,
qua đó, tác giả đánh giá được thực trạng của hệ thống các văn bản này, từ đó
đưa ra định hướng và những giải pháp hữu ích cho việc hoàn thiện pháp luật
được đưa ra ở chương tiếp theo nhằm phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ tư
vấn pháp luật nói riêng và hoạt động dịch vụ pháp lý nói chung, đồng thời từ
đây để đưa ra định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật để hỗ
trợ cho việc phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ này.

18


Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KINH DOANH DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn
pháp luật
Việt Nam là một đất nước đang phát triển. Mục tiêu xây dựng và phát triển

đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa, cùng với đó là phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đang được quan tâm hơn bao giờ hết. Do vậy,
không thể khơng có cơ sở hạ tầng pháp luật tốt để bảo vệ các mối quan hệ xã
hội, trong đó có mối quan hệ xã hội về kinh doanh dịch vụ pháp lý nói chung và
dịch vụ tư vấn pháp luật nói riêng.

3.1.1. Xác định và giới hạn một cách đúng đắn các quyền tự do kinh doanh
Bảo đảm quyền con người là một trong những chức năng cốt yếu của Nhà
nước, mà từ đó Nhà nước được khai sinh. Trong thời đại ngày nay, các thiết chế
nhà nước và xã hội đã có những thay đổi quan trọng tương thích với sự phát
triển và hội nhập của nền kinh tế, tuy nhiên chức năng bảo vệ quyền con người
vẫn là một trong những nhiệm vụ vĩnh cửu của nhà nước, trong đó, việc bảo vệ
quyền tự do kinh doanh đóng một vai trị đặc biệt quan trọng10.
3.1.2. Đảm bảo thúc đẩy xây dựng Nhà nước pháp quyền
Xây dựng nhà nước pháp quyền là một xu thế tất yếu mà mỗi quốc gia đều
hướng tới, trong đó vấn đề trọng tâm là hoàn thiện hệ thống pháp luật. Muốn
vậy, cần thiết phải xác định đúng, chính xác nội dung các nguyên tắc của pháp
luật. Các nguyên tắc pháp luật được ví như xương sống làm giá đỡ cho tồn bộ
hệ thống pháp luật.11 Để có thể đảm bảo được mục tiêu xây dựng Nhà nước
pháp quyền, thì việc xây dựng pháp luật nhằm tạo ra một môi trường pháp lý
phù hợp cho các quan hệ xã hội, trong đó có mối quan hệ kinh doanh dịch vụ tư
vấn pháp luật, thì pháp luật phải thực hiện được những nhiệm vụ cơ bản của
mình, bao gồm việc hệ thống lại hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành, đảm
bảo tính thống nhất, đồng bộ của các quy định pháp luật liên quan; đồng thời
việc xây dựng, bổ sung, sửa đổi hệ thống pháp luật hiện đại cũng phải tuân theo
những chuẩn mực của nền kinh tế thị trường hiện đại. Việc xây dựng pháp luật
liên quan đến quyền hành nghề, chuyên ngành cũng phải được hoàn thiện, đảm
bảo các cá nhân, tổ chức thực hiện kinh doanh nói chung và các cá nhân thực
10


/> />11

19


hiện kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp lý được bảo đảm quyền lợi và đồng thời
thực hiện được nghĩa vụ của mình.
3.2. Giải pháp hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, đồng bộ hóa hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề kinh
doanh dịch vụ pháp lý, trong đó có dịch vụ tư vấn pháp luật
Thứ hai, hoàn thiện các quy định về tổ chức kinh doanh dịch vụ tư vấn
pháp luật
Thứ ba, hoàn thiện các quy định về điều kiện hành nghề cung ứng dịch vụ
tư vấn pháp luật
Thứ tư, về quy định một số đối tượng được miễn đào tạo nghề
Thứ năm, hoàn thiện các quy định về dịch vụ pháp lý nói chung, trong đó
có dịch vụ tư vấn pháp luật tại Luật Luật sư
Thứ sáu, hoàn thiện các quy định về chủ thể thực hiện dịch vụ pháp lý,
trong đó sẽ bao gồm cả chủ thể thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật trong Luật
Thương mại
Thứ bảy, hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ của bên kinh doanh tư vấn
pháp luật, đặc biệt là nghĩa vụ cung cấp thông tin
Thứ tám, hoàn thiện các quy định về chất lượng dịch vụ tư vấn pháp luật
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
3.2.2.1. Nhóm giải pháp áp dụng chung cho tồn quốc
Để có thể nâng cao được hiệu quả thực hiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ
tư vấn pháp luật thì nhà nước cần chú trọng đến những vấn đề như sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức đầy đủ, đúng đắn vai trò của hoạt động tư

vấn pháp luật trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay
Thứ hai, nâng cao chất lượng của chủ thể kinh doanh tư vấn pháp luật, chủ
thể tư vấn pháp luật – Luật sư
Thứ ba, nâng cao nhận thức của chủ thể kinh doanh tư vấn pháp luật, chủ
thể tư vấn pháp luật – Luật sư
Thứ tư, tăng cường sự quản lý nhà nước và xác định rõ vai trò tự quản của
xã hội - nghề nghiệp của Luật sư
Thứ năm, tăng cường sự kiểm tra nhà nước đối với hoạt động của cá nhân,
tổ chức hành nghề luật sư
3.2.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh DVTVPL tại
tỉnh Quảng Trị
20


Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp
luật tại tỉnh Quảng Trị cần chú trọng đến những vấn đề như sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác thông tin, truyền thông về TVPL
Thứ hai, nâng cao năng lực của đội ngũ những người thực hiện TVPL.
Thứ ba, tăng cường phối hợp giữa các Trung tâm tư vấn pháp luật với các
cơ quan có liên quan trong tỉnh.
Thứ tư, Tăng cường quản lý nhà nước về TVPL
Thứ năm, quan tâm thực hiện tốt chế độ chính sách cho đội ngũ làm cơng
tác TVPL.
Kết luận Chương 3
Cùng với cơ sở nền tảng của đất nước là hoàn thiện xây dựng nền kinh tế
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm lợi ích cộng đồng, đạo đức xã hội trên
mọi lĩnh vực, tiến tới hội nhập quốc tế toàn diện, trong thời gian qua, pháp luật
nước ta đang triển khai cải tổ, hoàn thiện theo định hướng giảm dần những sự
kiểm sốt, tác động có sức ảnh hưởng quá lớn của nhà nước đến các vấn đề
trong xã hội mà đặc biệt là những vấn đề liên quan đến quyền tự do, ý chí của

các cá nhân, tổ chức trong xã hội về việc thiết lập và xử lý các mối quan hệ
trong đó là các quan hệ kinh tế.
Việc quy định cụ thể, rõ ràng về hoạt động của Luật sư, yếu tố chuyên môn
nghề nghiệp của luật sư – một nghề quan trọng trong việc nghiên cứu, vận dụng
pháp luật sẽ hỗ trợ, thúc đẩy cho công việc phát triển dịch vụ tư vấn pháp luật
nói riêng và và phát triển chất lượng đội ngũ Luật sư nói chung. Hiện nay vấn đề
cơ bản nhất cần hoàn thiện với hợp đồng tư vấn pháp luật là hoạt động thống
nhất và đồng bộ hóa pháp luật điều chỉnh loại hợp đồng này. Việc thống nhất và
đồng bộ có thể được tiến hành qua các nội dung chính thống nhất các văn bản
pháp luật điều chỉnh trực tiếp vấn đề này Luật thương mại, luật doanh nghiệp,
luật Luật sư sẽ là bước tiến rõ rệt trong việc củng cố hoạt động tư vấn pháp luật,
hoạt động kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật trong tương lai. Bên cạnh đó,
việc chú trọng bổ sung, thay đổi, rà soát những quy định pháp luật chưa phù hợp
trong Luật chuyên ngành là luật Luật sư cũng là yếu tố quan trọng để việc điều
chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư được hiệu quả,
đảm bảo về mặt pháp lý. Bên cạnh việc sửa đổi hệ thống pháp luật, việc nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư và
cả nhận thức của chủ thể nhận tư vấn cũng sẽ là những điểm quan trọng hỗ trợ
cho việc phát triển tối ưu hoạt động kinh doanh tư vấn pháp luật, đặc biệt là chất
lượng dịch vụ tư vấn pháp luật.
21


×