Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Gián án Những võ tướng thời Tây Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.66 KB, 3 trang )

Một con người Bình Định - Anh hùng Võ Duy Dương
[ ]
1. Võ Duy Dương là ai?
Võ Duy Dương (1827 - 1866), còn gọi là Thiên hộ Dương do giữ chức Thiên hộ, là lãnh tụ cuộc
khởi nghĩa Đồng Tháp Mười. Khi Pháp xâm lược 3 tỉnh Miền Đông Nam kỳ, ông đã đứng lên sát
cánh với Thủ khoa Huân khởi nghĩa ở Tiền Giang (1861), rồi ông lại tham gia nghĩa quân của
Trương Công Định. Cho đến năm 1864, Trương Định mất, ông cùng Đốc binh Kiều lập căn cứ
Đồng Tháp Mười tiếp tục kháng chiến, nhưng vẫn phối hợp với Trương Quyền, con trai Trương
Định, và Acha Xoa, lãnh tụ nghĩa quân người Campuchia, đánh thắng Pháp nhiều trận lớn.
2. Tiểu sử
a. Khi còn ở quê nhà
Theo tư liệu của gia đình họ Võ ở Nhơn Tân (An Nhơn, Bình Định) và của Ban Nghiên cứu lịch
sử tỉnh Bình Định, Võ Duy Dương sinh năm 1827 tại thôn Cù Lâm Nam nay là thôn Nam Tượng I,
xã Nhơn Tân, An Nhơn, Bình Định.
Nam Tượng I là một thôn nhỏ nằm dưới chân núi Thơm, cách sông Côn 4 km về phía Nam, cách
làng Kiên Mỹ 12 km. Tổ tiên của Võ Duy Dương từ miền Bắc là Võ Hữu Man vào thôn Nam
Tượng lập nghiệp, đến đời Võ Duy Dương là đời thứ 6.
Theo lời kể của cụ Võ Quế, 85 tuổi (1989), cháu nội Võ Duy Dương, thì ông Dương là con thứ ba
trong gia đình và thuở nhỏ ông Dương là người sáng trí, khỏe mạnh và giỏi võ nghệ. Khi cha qua
đời, gia đình sa sút, ông Dương phải đi chăn trâu để sinh sống. May nhờ vị quan sở tại cảm thông
hoàn cảnh nghèo khó và mến tài nên nhận làm con nuôi.
Trong một kỳ thi võ, ông cử được một lúc 5 trái linh, mỗi trái 60 cân (hai tay xách 2 trái, hai nách
kẹp 2 trái, răng cắn 1 trái, nên từ đó mọi người đều gọi ông là Ngũ Linh Dương. Ông có người anh
thứ tên là Võ Duy Tân, sau này tham gia phong trào Cần Vương kháng Pháp ở Bình Định do Mai
Xuân Thưởng chỉ huy. Sau khi Mai Xuân Thưởng chết, ông Tân lại theo Võ Trứ, bị Pháp bắt và xử
án chém cùng với nhiều nghĩa quân khác tại Gò Chàm (Bình Định) ngày 13 tháng 9 năm Đinh Dậu
(tức ngày 9 tháng 10 năm 1898), thọ 73 tuổi.
b. Vào Nam kháng chiến
Năm 1853, theo đề nghị của các quan, trong đó Nguyễn Tri Phương, vua Tự Đức ban hành chính
sách đồn điền. Năm 1857, hưởng ứng chính sách vừa kể, Võ Duy Dương vượt biển vào Nam tìm
đến đất Ba Giồng, ven Đồng Tháp Mười (nay thuộc địa bàn huyện Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè,


tỉnh Tiền Giang), để chiêu dân lập ấp, kết bạn với Nguyễn Hữu Huân và trở thành một hào phú ở
địa phương.
Tháng 2 năm 1859, Pháp đánh chiếm Gia Định rồi đánh chiếm thành Mỹ Tho (tháng 4 năm 1861),
Võ Duy Dương cùng Thủ Khoa Huân kéo lực lương về Gia Định đánh Pháp. Vì vậy, ông được
phong chức Chánh quản đạo. Thành Gia Định vỡ, ông vượt biển về kinh, bái yết vua Tự Đức hiến
kế đuổi giặc. Ông được điều về Quảng Nam dẹp cuộc nổi dậy của người Thạch Bích (mọi Vách
Đá) và được phong hàm Chánh bát phẩm Thiên hộ vào năm 1860.
Tháng 5 năm 1861, ông được sung vào phái bộ của Khâm phái quân vụ Đỗ Thúc Tịnh vào Nam
với nhiệm vụ chiêu mộ nghĩa dõng chống ngoại xâm. Trong một thời gian ngắn, ông mộ được gần
một ngàn người, trong số đó, có cả lính đánh thuê của Pháp và một người Pháp là Liguet và ông
được phong chức Quản cơ.
Ông đóng quân ở Bình Cách, liên kết với Trương Định ở Gò Công, Trần Xuân Hoà (phủ Cậu) ở
Thuộc Nhiêu và Đỗ Thúc Tịnh ở Mỹ Quí.
Tự giác giương cao khẩu hiệu "Cần Vương" chống Pháp, nghĩa quân lấy Đồng Tháp Mười là vùng
rừng đầm lầy, hiểm trở vào bậc nhất ở Nam Bộ thời bấy giờ làm căn cứ. Từ đây, nghĩa quân dùng
chiến thuật du kích đánh Pháp trên cả một vùng rộng lớn từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Đồng Tháp,
gây cho đối phương nhiều tổn thất Giữa lúc lực lượng nghĩa quân đang quyết chiến, thì hiệp ước
Nhâm Tuất ngày 5 tháng 6 năm 1862 được ký kết. Liền ngay sau đấy, triều đình Huế buộc các tổ
chức nghĩa quân phải hạ khí giới. Không tuân lệnh, ông bị triều đình tước binh quyền và lùng bắt
(Phan Thanh Giản nhận lệnh triều đình, sai quản cơ Trần Văn Thành truy đuổi Nguyễn Hữu Huân
rồi Trương Định lần lượt chết trong công cuộc kháng Pháp, ông cùng với các nghĩa sĩ khác như
Nguyễn Tấn Kiều (tức Đốc Binh Kiều, phó tướng), Trần Kỳ Phong, Thống Bình, Lãnh Binh
Dương, Thương Chấn, Thống Đa, Quản Văn, Quản Là... vẫn không nản lòng, càng tổ chức đánh
Pháp quyết liệt hơn.
Ngày 14 tháng 4 năm 1866, Pháp huy động một lực lượng gồm ngót ngàn thủy quân, bộ binh cùng
nhiều tàu chiến, đại bác chia làm 3 mũi đồng loạt tiến công từ 3 hướng Cần Lố, Cái Nứa và Bắc
Chiêng, quyết đánh chiếm sở chỉ huy của nghĩa quân. Nhiều trận đánh ác liệt đã xảy ra đã khiến
Pháp bị tiêu hao không ít, nhưng trước sức công phá của súng đạn, Pháp chiếm được Đồn Trung,
khiến nghĩa quân phải rút đi.
Sau khi rút khỏi Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương đem quân phối hợp với con của Trương Định

là Trương Quyền và thũ lãnh người Khmer là Acha Xoa, tiếp tục đánh Pháp nhiều trận trước khi
suy yếu dần.
c. Ra Huế và cái chết
Tháng 10 năm 1866, Võ Duy Dương dùng thuyền theo đường biển ra Bình Thuận để cầu
viện sự giúp đỡ của triều đình và liên lạc với nghĩa sĩ miền Trung nhằm gây dựng lại lực lượng.
Dựa vào những phân tích của Gustave Janneau về hai bản tấu kín của ông Dương dâng vua
Tự Đức (không tìm thấy 2 bản tấu, chỉ có bản phân tích có in trong Võ Duy Dương với Đồng Tháp
Mười, tr.175 - 182) thì rất có thể triều đình cho vời ông ra Huế để trình bày kỹ càng hơn việc: "đề
nghị nhà vua cho phép dùng mưu kế thu hồi lại 3 tỉnh miền Đông", "nếu nhà vua cho lệnh, ông có
thể tiêu diệt hết binh lính Pháp ở nơi kênh rạch nhỏ hẹp, nơi mà các đại bác mất tác dụng"...
Cũng không loại trừ khả năng triều đình đang tìm cách bó tay Võ Duy Dương, để làm vừa
lòng Pháp, không cho họ lấy cớ vì ông "phá quấy" mà lấn chiếm đất thêm (bấy giờ chủ súy Pháp
thường cho là ba tỉnh miền Tây vẫn chứa giấu tên Thiên Hộ Dương - Đại Nam thực lục chính biên
(Đệ tứ kỷ), tập 31, tr 64). Vì cũng chính trong sách sử có một đoạn như sau: “Tháng 9 Bính Dần,
Nguyễn Hữu Có đến lỵ sở, đi qua Gia Định có bảo sứ Pháp rằng: bè lũ Võ Duy Dương nên cho ra
đầu thú, dồn đi khai khẩn. Khi Hữu Có đến Vĩnh Long đem việc ấy đến nói kín với Phan Thanh
Giản. Giản bèn tư cho các tỉnh... phàm bè lũ Duy Dương đều cho ra đầu thú đi khẩn hoang. Lại
sắc cho tuần phủ Bình Thuận, Khánh Hòa hễ thấy tên Dương, tên Tuệ thì đổi tên, cấp cho ngựa
trạm về kinh, phái đi nơi khác, cho hết điều tai tiếng."
Nhưng thật không ngờ, khi đến cửa biển Cần Giờ, ông và các thuộc hạ tâm phúc đều bị
cướp biển sát hại, nên câu hỏi vì sao ông ra Huế vẫn là thắc mắc chưa có lời giải đáp.
d. Giải thích thêm về cái chết
Tuy vẫn còn vài ý kiến khác, nhưng theo những nỗ lực tìm kiếm xác minh gần đây, nhiều nhà
nghiên cứu sử đã đồng thuận rằng Võ Duy Dương đã bị cướp biển giết ở mũi Thị Khiết (Thần
Mẫu) thuộc vùng biển Cần Giờ, khoảng tháng 10 năm 1866, lúc ông mới 39 tuổi.
Bởi căn cứ vào các nguồn:
(i)Trong báo cáo của Nguyễn Đức Hạnh gửi cho Chánh sở mật thám Pháp: "Người này tên là
Dương đã bỏ trốn sau khi Tháp Mười bị chiếm. Ông ta lên chiếc ghe bầu để đi Bình Thuận. Trước
khi đến xứ này, ông đã bị tên Lý Sen, cầm đầu một đám cướp biển tấn công.Lý Sen đi trên một
chiếc thuyền mành mà người ta gọi là “Thiền du”, đã cho liệng xuống biển tất cả những người An

Nam đi trên chiếc ghe cửa này. Lý Sen lục lọi trong một chiếc rương lớn lấy tất cả áo quần, các
cấp bằng và mũ miện của Thiên Hộ Nguyên soái tên Võ Duy Dương."
Nguyễn Đức Hạnh còn cho biết thêm sau đó tên Sen bị bắt vì Hai Sĩ tố cáo y đã cướp bóc nhiều
ghe biển, và tên Sen đã cắn lưỡi chết trong ngục.
(ii) Tác giả Schreiner trong quyển Đại Nam Quốc sử (Nguyễn Văn Nhàn dịch, Sài Gòn, 1905,
tr.490) cũng đã tái xác nhận nguồn tin này: "Người ta nghe tin ông Võ Duy Dương mới chết chìm
tại phía mũi Đinh (Padaran), là nơi ông đánh với ba chiếc ghe tàu ô của đảng ăn cướp, quân ấy
hạ hết người trên hai ghe."
(iii) Trong dân gian ở xã Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp còn lưu truyền câu chuyện "Sau
khi thất thủ ở Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương rút qua An Giang, Rạch Giá và bị cướp biển chặn
đánh và chết ở cửa biển Rạch Giá" (địa điểm chết khác với 2 tài liệu trên).
Ngoài ra còn có 2 tư liệu cũng cho rằng ông Dương mất ngoài biển cả, nhưng nguyên do tại
vì bão tố làm cho đắm thuyền:
(iv) Đại Nam thực lục chính biên (tập 31, tr. 65) có đoạn chép: "Thiên Hộ Dương ủy người về
dâng sớ kín. Vua sai Vũ Trọng Bình hỏi kín, cốt phải hỏi đến chỗ cùng bàn cho ổn thỏa. Rồi được
quan Thuận Khánh báo rằng Võ Duy Dương đi thuyền về tỉnh Bình Thuận đầu thú gặp gió nên bị
đắm ở phận biển Thần Mẫu, sai đi tìm xác, chi đồ vật đem chôn, cấp cho mẹ hắn mỗi tháng 5
quan tiền, 1 phương gạo."
(v) Nam Kỳ Phong tục nhân vật diễn ca (NXB Phát Toàn, Sài Gòn, 1909, tr 67) của Nguyễn Liên
Phong:
“Thoát thân về với ghe bầu,
Khỏi nơi Cần Hải tiền xu đoán thoàn.
Giấc nồng đêm dậy nhảy khan,
Hồn chôn bụng cá ưng oan chẳng cần”
3. Tưởng nhớ
Để tưởng nhớ Võ Duy Dương, tại Gò Tháp (xã Mỹ Hòa, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng
Tháp), người dân đã lập đền thờ ông và đã được công nhận di tích lịch sử cấp quốcgia.
Ngày 14 tháng 11 âm lịch hằng năm, là ngày giỗ chung của 2 ông: Thiên hộ Võ Duy Dương
và Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều.
Tại nơi ông sinh ra (xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn), năm 1997, dòng họ đã góp tiền xây

dựng đền thờ và hàng năm tổ chức tế lễ.
Và gần đây, sáng ngày 15 tháng 12 năm 2007 Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam trao tặng cho
đền thờ Võ Duy Dương tại xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn một tượng đồng phác họa chân dung
ông, trong chương trình “Mỗi người một giọt đồng đúc tượng danh nhân”.
Tại đền thờ ông ở Gò Tháp có câu đối:
“Sử sách sáng chói danh Thiên Hộ
Bia miệng lưu truyền tiếng Đốc binh”
Và câu ca dao còn lưu truyền tại địa phương:
“Chiều chiều mây giục gió vần
Cảm thương Thiên Hộ xả thân cứu đời!”
theo:binhdinhngaynay

×