Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.34 KB, 1 trang )
Mèo trong thành ngữ, tục ngữ
- Trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, hình bóng con mèo xuất hiện rất
nhiều, cả phê phán và ca ngợi.
Ví dụ:
"Không biết mèo nào cắn mỉu nào" (chưa biết ai hơn ai);
"Chữ viết như mèo quào" (viết chữ cẩu thả, xấu);
"Nam thực như hổ, nữ thực như miu" (ăn uống từ tốn, chậm rãi);
"Chó giữ nhà, mèo bắt chuột" (ý nói mỗi người đều đã đều có bổn phận,
trách nhiệm đã được phân công);
"Chó treo, mèo đậy" (tuỳ từng đối tượng mà đưa ra hành động cho hợp lý,
cũng có ý khuyên người ta nên cảnh giác với kẻ gian);
"Chó chê mèo lắm lông" (chê người trong khi mình cũng chẳng ra gì);
"Đá mèo quèo chó" (dồn sự tức giận vô lý vào người khác);
"Mèo mù vớ cá rán" (may mắn chợt đến với người ít tài cán hoặc đang túng
quẫn);
"Mèo đàng chó điếm" (chỉ những đối tượng không ra gì, lưu manh, tương tự
như câu Mèo mả gà đồng);
"Mèo khen mèo dài đuôi" (tự cao tự đại về bản thân);
"Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang" (quan niệm dân gian, có lẽ bởi
tiếng mèo kêu ""ngheo ngheo" gần giống với chữ "nghèo");
"Mèo con bắt chuột cống" (tuổi trẻ tài cao, bên cạnh đó còn hàm ý nghi ngờ
kết quả công việc của người đang thực hiện);
Ngoài ra còn có các câu:
Lèo nhèo như mèo vật đống rơm;
Mỡ để miệng mèo;
Tiu nghỉu như mèo cắt tai;
Rình như mèo rình chuột;
Làm như mèo mửa;
Mèo lại hoàn mèo vv..
Trong ca dao cũng có những câu mượn hình ảnh con mèo để phê phán rất ý
nghĩa: