Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng nông độ khóa đa lượng đến sự hình thành và phát triển chồi lan PHALAENOPSIS YUBIDAN và lan ĐẺNOBIUMSONIA trong hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.21 MB, 122 trang )

Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Hoa lan là một trong những giống hoa rất được yêu
thích không chỉ về màu sắc, kiểu dáng mà còn mang
một nét đẹp rất sang trọng và trang nhã. Chính vì vậy
hiện nay, rất nhiều hộ gia đình đang có thú chơi hoa lan.
Nguyên nhân của trào lưu trên là do cuộc sống ngày
càng phát triển, nhu cầu tạo góc vườn nhỏ, mang màu
xanh cây lá thiên nhiên vào trong nhà của những người
dân ngày càng cao. Với ưu điểm ít chiếm diện tích, không
quá khó trồng, cho hoa đẹp lại lâu tàn nên việc chọn,
trồng và tạo một vườn lan nhỏ trong khuôn viên nhà là
sự lựa chọn của nhiều người.
Bên cạnh đó, hoa lan là sản phẩm cây trồng có giá
trị kinh tế cao, ngày càng có nhiều cơ sở kinh doanh hoa
lan mọc lên, kinh doanh nhiều chủng loại. Nhưng làm sao để
có số lượng lớn cây giống, đồng đều, chất lượng cao là
một vấn đề khó.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển
của công nghệ sinh học, ngành vi nhân giống cây đặc
biệt trên đối tượng cây hoa lan từng bước phát triển,
nhiều đơn vị nhà nước cũng như tư nhân đã mạnh dạn
đầu tư để sản xuất cây giống phục vụ cho nông dân. Tuy
nhiên qui mô cũng như những hạn chế về đội ngũ kỹ
thuật cũng như kiến thức về lónh vực này có hạn, vì thế
cây giống có chất lượng thấp không đồng đều, không
đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hầu hết các


giống hoa lan phải nhập giống từ Thái Lan, trong đó Hồ
điệp chủ yếu được nhập từ Đài Loan.

SVTH: Đào Thị Lý

-1-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Hiện nay, việc nghiên cứu và nhân giống hoa lan đã
được tiến hành ở nhiều nơi, nhưng hầu hết đều chưa có
thành tựu nào đột biến để ngành nhân giống hoa lan
phát triển đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Những
thành công hiện nay thường là nhân giống với qui mô
sản xuất nhỏ. Trong đó kỹ thuật nhân giống hoa lan phổ
biến hiện nay là nhân giống trên môi trường thạch.
Phương pháp này có nhược điểm là chi phí giá thành cây
giống cao do thời gian nuôi cấy dài, độä đồng đều cây
giống thấp, khó áp dụng sản xuất theo qui mô công
nghiệp.
Hiện nay trên Thế giới nhiều nước có ngành Công
nghệ Sinh học phát triển đã ứng dụng các công nghệ cao
để nhân nhanh giống cây trồng như: hệ thống fermenter,
bioreactor, quang tự dưỡng,… Ở nước ta các công nghệ
này mới chỉ thực hiệân ở phòng thí nghiệm của một số
trường Đại Học, Viện Nghiên cứu hoặc Trung tâm Công
nghệ Sinh học trong mấy năm gần đây. Tuy nhiên việc

nghiên cứu xác định môi trường thích hợp cho từng cây
trồng nhân bằng các hệ thống này còn rất hiếm.
Để từng bước áp dụng công nghệ mới trong sản
xuất cây lan giống ở nước ta, đẩy nhanh tiến độ sản
xuất cây giống theo qui mô công nghiệp, góp phần khắc
phục sự thiếu hụt cây giống trong sản xuất hiện nay.
Chúng tôi tiến hành đề tài: "Nghiên cứu ảnh hưởng
nồng độ khoáng đa lượng đến sự hình thành và phát
triển chồi lan Hồ điệp (Phalaenopsis Yubidan) và lan
Dendrobium Sonia trong hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời
TIS (Temporary Immersion System)".
2. Mục tiêu nghiên cứu

SVTH: Đào Thị Lý

-2-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Xác định ảnh hưởng nồng độ các khoáng đa lượng
trong môi trường nuôi cấy mô Murashige & Skoog (MS) đến
sự hình thành và phát triển chồi lan Phalaenopsis Yubidan
và lan Dendrobium Sonia, nhằm thiết lập môi trường thích
hợp

để


nhân

chồi

lan

(Phalaenopsis

Yubidan)



lan

Dendrobium Sonia trong hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời
TIS (Temporary Immersion System).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nồâng độ các khoáng đa lượng
trong môi trường MS lỏng ảnh hưởng tới chồi nhân bằng
hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời TIS, đối với hai giống
lan Hồ điệp (Phalaenopsis Yubidan) và lan Dendrobium Sonia.
Đây là vật liệu nền rất quan trọng trong nuôi cấy mô vi
nhân giống hoa lan.
4. Ý nghóa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên
cứu
Ý nghóa khoa học:
Hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời TIS thuộc dạng
bioreactor đơn giản. Nhiều nghiên cứu trên Thế giới đã
xác định áp dụng công nghệ TIS trong vi nhân giống cây
trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao, chất lượng cây giống

tốt, nâng hệ số nhân chồi gấp 3-20 lần so với phương
pháp nhân truyền thống, rút ngắn được thời gian nuôi
cấy trong phòng, góp phần làm giảm giá thành sản
phẩm cây giống.
Ý nghóa thực tiễn:
Áp dụng công nghệ TIS trong vi nhân giống hoa lan ở
nước ta là một công nghệ mới, nó sẽ mở ra một triển
vọng cho việc sản xuất cây giống theo qui mô công

SVTH: Đào Thị Lyù

-3-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

nghiệp, đáp ứng đủ lượng cây giống với chất lượng cao
cho sản xuất trong nước và cho xuất khẩu.
Cây lan giống sản xuất bằng hệ thống TIS trong nước
giúp người nông dân chủ động sản xuất, hạn chế nhập
cây giống từ nước ngoài, góp phần ngăn chặn được
dịch bệnh lây lan từ nước ngoài qua con đường cây giống.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài thực hiện nhân chồi trong hệ thống nuôi cấy
ngập tạm thời TIS, nghiên cứu 6 môi trường nuôi cấy
lỏng với các nồng độ khoáng đa lượng khác nhau trên
giống lan Phalaenopsis Yubidan và giống lan Dendrobium Sonia.
Thí nghiệm bố trí kiểu đầy đủ ngẫu nhiên hoàn toàn,

gồm 6 nghiệm thức và 3 lần lặp lại.

TÓM TẮT
Trong nuôi cấy mô vi nhân giống lan, chồi là nguyên
liệu nền rất quan trọng hình thành cây giống. Nó ảnh
hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng cây giống.
Sự hình thành và phát triển của chồi phụ thuộc vào các
yếu tố trong môi trường nuôi cấy. Đề tài nghiên cứu
nồng độ các khoáng đa lượng trong môi trường nuôi cấy
MS ảnh hưởng đến chồi hai giống lan Phalaenopsis Yubidan
và lan Dendrobium Sonia. Kết quả đã xác định được ảnh
SVTH: Đào Thị Lý

-4-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

hưởng của khoáng đa lượngđến hệ số nhân chồi hai
giống lan nhiên cứu. Nếu giảm ½ khoáng đa lượng trong
môi trường MS, bổ sung 1mg/ml BA, 0,5mg/l NAA, 0.5g/l PVP,
1g/l tryptone vaø 30g/l sucrose sẽ tạo số chồi cao, chất lượng
chồi tốt cho cả hai giống lan. Đối với lan Phalaenopsis
Yubidan, nếu tăng dan khoaựng ủa lửụùng: ẳ, ẵ , 1 ụỷ giai
ủoaùn: 2 tuần, 4-6 tuần, 8 tuần sẽ thúc đẩy nhanh khả
năng tạo chồi.

CHƯƠNG 1:

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. GIỚI THIỆU VỀ HOA LAN VÀ KỸ THUẬT NHÂN
GIỐNG
1.1.1. Tình hình sản xuất hoa lan trên thế giới và ở
Việt Nam
1.1.1.1. Tình hình sản xuất hoa lan trên thế giới

SVTH: Đào Thị Lý

-5-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Hoa lan được mệnh danh là nữ hoàng của các loài
hoa, thị trường tiêu thụ hoa lan rộng khắp thế giới, mang
lại lợi nhuận kinh tế cao cho nhiều nước.
Thị trường tiêu thụ hoa lan của khối châu Âu rất hấp
dẫn. Năm 2006 khối EU có sản lượng xuất khẩu hoa lan
trên thế giới đạt 55 tỉ sản phẩm, mang lại giá trị kim
ngạch xuất khẩu hoa lan là 73 tỉ EUR. Trong đó, Hà Lan là
một quốc gia duy nhất ở Châu Âu có công nghiệp trồng
lan xuất khẩu, do trồng trong nhà kính nên Hà Lan có thể
xuất khẩu hoa quanh năm, đồng thời là đầu mối trung
gian nhập khẩu hoa lan (37%) từ các nước khác trên thế
giới. Năm 2006, Hà Lan xuất khẩu hoa lan chiếm 95%
(52.049 ngàn sản phẩm) tổng sản lượng hoa lan trong khối
EU (Nguồn: AIPH/Union Fluers: Internaational Statistics Flowers

and Plants 2007).
Mặc dù, khối châu Âu có sản lượng xuất khẩu hoa
lan cao hơn so với các khối khác, nhưng do nhu cầu tiêu thụ
hoa lan trong khối EU cao nên trong năm 2006 sản lượng
nhập khẩu hoa lan từ các nước lên tới trên 155 tỉ sản
phẩm, giá trị kim ngạch nhập khẩu đạt gần 90 tỉ EUR
(Nguồn: AIPH/Union Fluers: Internaational Statistics Flowers and
Plants 2007).
Hoa lan hiện nay đang là mặt hàng xuất khẩu chiến
lược, mang lại nguồn lợi kinh tế cho nhiều Quốc gia Châu
Á. Thái Lan là nước xuất khẩu chủ yếu là hoa lan nhiệt
đới,

đặc

biệt



Dendrobium,

phổ

biến

nhất



Dendrobium Sonia và jumbo White. Ngoài ra cũng còn còn

một số loài nổi tiếng khác như Aranda, Mokara, Oncidium
và Vanda. Hơn 80% Dendrobium trên thị trường Thế giới là
từ Thái Lan. Chỉ với loại hoa lan chủ lực là Dendrobium,

SVTH: Đào Thị Lý

-6-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Thái Lan đạt doanh thu mỗi năm gần 600 triệu USD từ giá
trị xuất khẩu loại hoa này.
Giá trị xuất khẩu năm 2000 khoảng 1.765 triệu baht.
Dendrobium được chọn là sản phẩm vô địch bởi vì sản
phẩm của nó xuất khẩu liên tục trong năm. Hiện tại,
Thái Lan là nước đứng đầu thế giới về hoa lan. Nó trở
thành niềm kiêu hãnh của người trồng hoa lan của Thái
Lan. Hiện nay, Thái Lan có khoảng 24 triệu m 2 trang trại
trồng hoa lan (Nguồn: Thailand orchid export.htm).
Hiện nay, hoa lan của Thái Lan chiếm lónh rộng trên
thị trường thế giới: Bắc Mỹ, Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ,
Canada, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Ba Lan, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc, và một số nước Trung Đông và Châu
Phi. Khách hàng chính vẫn là: Nhật, Ý, và Mỹ.
Trong khi đó, Đài Loan là nước đứng đầu thế giới về
sản xuất và xuất khẩu hoa lan Hồ điệp bằng qui trình
công nghệ cao, giá trị doanh thu từ xuất khẩu loại hoa

này hàng năm khoảng 43 triệu USD. Trên thị trường thế
giới, sản phẩm chủ yếu của hoa lan Hồ điệp là hoa
chậu, sản phẩm này có giá trị kinh tế cao gấp nhiều
lần so với hoa Hồ điệp cắt cành.
Hàng

năm,

Đài

Loan

sản

xuất

được

36

triệu

Phalaenopsis. Trong đó, 12 triệu hoa lan được xuất khẩu ra
các nước như: 3 triệu đến Nhật Bản; 3 triệu đến Trung
Quốc; 2,5 triệu tới Hoa Kỳ và 3,5 triệu cho các quốc gia
khác. Trong tháng 6/2004, Hoa Kỳ đã cung cấp giấy phép
xuất khẩu Phalaenopsis cho Đài Loan trên thị trường Hoa Kỳ
(Nguồn: The world’s fascination with potted orchids-Floraculture
Int.htm).
1.1.1.2. Tình hình sản xuất lan ở Việt Nam


SVTH: Đào Thị Lý

-7-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Diện tích trồng hoa ở Việt Nam hiện nay là 2.500 ha
nhưng hoa lan chỉ chiếm 5–6%. Nước ta bắt đầu sản xuất
và thương mại hoa lan tập trung khoảng 6 năm trở lại đây
nhưng tốc độ phát triển khá nhanh. Chỉ riêng TP.HCM diện
tích vườn lan tới nay đã gần 80 ha, hoa lan đang mang lại thu
nhập cao cho nhiều nông hộ. Tuy nhiên hiện nay do cây
giống trong nước không đủ cung cấp cho sản xuất, các
nhà vườn nhập cây giống ồ ạt từ nước ngoài như: Thái
Lan, Đài Loan, Trung Quốc (Nguồn: Báo cáo điều tra thống
kê của Sở NN & PTNT TP. HCM năm 2008).
Theo thống kê của Sở NN & PTNT TP. HCM trong năm
2003 doanh số kinh doanh hoa lan cây kiểng chỉ đạt 200-300
tỉ đồng nhưng đến năm 2005 đã tăng đến 600-700 tỉ
đồng và ngay từ đầu năm 2006 doanh số đạt được là 400
tỉ đồng.
Theo TS. Dương Hoa Xô - Trung tâm Công nghệ sinh học,
đến nay đã hoàn thiện quy trình nhân giống in vitro cho 7
nhóm giống hoa lan, có khả năng cung cấp 200.000 cây
con hoa lan cấy mô thuộc các nhóm Mokara, Dendrobium,
Phalaenopsis, Catlleya. Năm 2007, đã cung cấp cho các nhà

vườn khoảng 50.000 cây hoa lan cấy mô các loại. Năm
2008, sản xuất 100.000 cây giống hoa lan cấy mô, tập
trung cho nhóm hoa lan cắt cành Mokara, Dendrobium và
một số giống lan rừng quý.
Đến 2009, chiếm lónh thị trường hoa tết là những loại
hoa mới, lạ, và cao cấp như: tiểu quỳnh, lily, tulip, địa lan,
Hồ điệp ... nhân giống bằng công nghệ in vitro.
Hiện nay, rất nhiều loại hoa đã được sản xuất bằng
phương pháp nuôi cấy mô tại Việt Nam, như: lan dendro, lan
Hồ điệp, vanda, catleya, vũ nữ, vạn thọ Pháp, cúc Đài
Loan, hoa salem, cẩm chướng, hoàng thảo, hoa đồng tiền
SVTH: Đào Thị Lyù

-8-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

nhập nội (các giống Tamara, Banesa, Caliente, Redbull)... Thị
trường tiêu thụ hoa trong nước ngày càng mở rộng, mỗi
năm tiêu thụ hàng triệu cây hoa các loại, riêng hoa lan
cũng gần 2 triệu cây.
Đặc biệt Đà Lạt là nơi sản xuất hoa lan sớm nhất cả
nước với nguồn cây giống phong phú săn tìm trong rừng
sâu. Lâm Đồng dẫn đầu cả nước về nguồn lợi lan rừng
với 101 chi và 396 loài, chiếm 55,3% về chi và 76,5% về
loài lan rừng của Việt Nam. Không ít loài lan được phát
hiện lần đầu tiên trên thế giới mang tên Đà Lạt, 10/12

loài lan quý của Việt Nam phân bố ở vùng rừng Lâm
Đồng. Những năm 1980, Đà Lạt đã xuất khẩu số lượng
lớn cành hoa sang các nước Đông Âu.
Những năm gần đây, ngành sản xuất hoa lan ở Đà
Lạt đã hồi sinh và phát triển mạnh mẽ nhờ ứng dụng
kỹ thuật công nghệ cao vào sản xuất. Với công nghệ
hiện đại, đã giúp làm giảm chi phí trồng từ 40.000-70.000
đồng/gốc lan trước đây, xuống chỉ còn 4.000-7.000
đồng/gốc. Sử dụng công nghệ nuôi cấy mô, và đặc
biệt bằng phương pháp gây vết thương kết hợp nuôi cấy
lỏng.
TS. Dương Tấn Nhựt cùng các cộng sự ở Phân viện
Sinh học Đà Lạt đã nhân giống thành công Hồng hài loài lan hài duy nhất trên thế giới có hương thơm, được Tổ
chức Bảo vệ động thực vật hoang dã thế giới đưa vào
danh mục thực vật cần bảo vệ bởi chỉ phân bố hẹp ở
Việt Nam, khó sống, khó sinh sản.
Theo TS. Dương Tấn Nhựt, Thành phố Đà Lạt là cỗ
máy điều hòa khổng lồ cho phép sản xuất địa lan trong
thiên nhiên theo hướng công nghiệp với chi phí sản xuất

SVTH: Đào Thị Lý

-9-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

chỉ bằng 1/10 so với các quốc gia phải trồng lan trong

nhà kính, có hệ thống điều hòa nhiệt độ.
Lan Đà Lạt đã và đang mở rộng thị trường ra nhiều
châu lục, trong đó có những thị trường khó tính như Mỹ,
Nhật Bản, Đài Loan... Nhiều doanh nghiệp trong và ngoài
nước đang tiến hành khảo sát lập trang trại sản xuất hoa
lan quy mô lớn bởi tiềm năng, triển vọng đầu tư tại Đà
Lạt là rất lớn so với Trung Quốc và các nước ASEAN
khác.
1.1.2. Giới thiệu về giống lan Hồ điệp
Lan Hồ điệp là một trong những giống lan rất được
yêu thích không chỉ về màu sắc, kiểu dáng mà còn
mang một nét đẹp rất sang trọng và trang nhã. Chính vì
vậy, nó đã nhanh chóng trở thành sản phẩm trồng trọt
mang lại hiệu quả kinh tế cao không chỉ ở Việt Nam mà
còn nhiều nước trên thế giới như Đài Loan, Nhật Bản,
Hà Lan, Mỹ…
Loài hoa đẹp này thường trồng chậu và người ta
thường có dịp gặp nhiều nơi như trên ti vi, trong nhà, trong
vườn, tạp chí, nơi bạn làm việc và thậm chí được dùng
làm quà tặng cao cấp giá trị. Bên cạnh đó hoa Hồ điệp
rất lâu tàn, độ bền bông cao nên là sự lựa chọn làm
vật trang trí, tạo cảnh quan trong các ngày lễ, tết.
1.1.2.1. Phân loại
Vị trí phân loại:
Giới

Plantae

Ngành


Magnoliophyto Ngọc Lan

Lớp

Lipliopsida

Phân lớp
Bộ
Họ
SVTH: Đào Thị Lý

Thực vật
Hành

Liliidae

Orchidales
Orchidaceae
-10-

Hành
Lan
Lan


Đồ án tốt nghiệp

Chi

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh


Phalaenopsis

Lan Hồ điệp

1.1.2.2. Nguồn gốc và sự phân bố
Phalaenopsis Hồ điệp, có tên từ chữ Grec Phalaina có
nghóa là bướm và Opsis có nghóa là sự giống nhau. Lan
Hồ điệp là lan có hoa giống bươm bướm phất phơ rất đẹp.
Giống Hồ điệp có trên 70 loài và ngày càng được lai tạo
ra rất nhiều. Hồ điệp là một loại lan đại chúng được xếp
vào bậc nhất. Hoa to, hình dáng đẹp, nhiều màu, dễ
trồng. Vì những đặc điểm trên Hồ điệp hiện nay rất được
ưa chuộng.
Hồ điệp được khám phá năm 1750, đầu tiên được
ông Rumphius đặt tên là Angraecum album. Năm 1753 Linne
đổi tên thành Epidendrum. Năm 1825 nhà thực vật Hà Lan
định danh lại là Phalaenopsis.
Hồ điệp phân bố chủ yếu ở Malay, Indo, Philippine,
phía đông Ấn Độ và Úc. Ở Việt Nam cũng có một số
loài vì có hoa nhỏ nên được gọi là tiểu Hồ điệp. Hồ
điệp có thể mọc ở khí hậu nhiệt đới và đồi núi cao
2000 m nên vừa chịu được khí nóng ẩm vừa chịu được khí
hậu mát.
Một số loại lan Hồ Điệp rừng ở Việt Nam:
Hồ điệp dẹt (Phalaenopsis Coenu). Cây sống phụ, rễ
lớn, không có thân, lá hình bầu dục thuôn dài. Phát hoa
dài 30 cm, hoa màu vàng xanh, có từ 6- 12 hoa, hoa nở rất
lâu tàn và có hương thơm. Cây mọc ở miền Trung, có
dáng đẹp có thể trồng ở Đà Lạt. Hoa nở vào mùa thu.

Hồ điệp ấn (Phalaenopsis Mannii). Cây mảnh, có lá
dạng bầu thuôn, hơi cong, màu xanh bóng. Phát hoa dài
thường buông thòng xuống, hoa tập trung ở đỉnh cánh
màu vàng nghệ với vân màu đỏ. Cây mọc ở Trung Bộ,
Đà Lạt- Lâm Đồng. Hoa nở vào mùa hè.
SVTH: Đào Thị Lý

-11-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Lan Hồ điệp trung (Phalaenopsis parishii). Cây nhỏ, lá
hình trái xoan, màu xanh bóng, rụng vào mùa khô. Phát
hoa mọc thẳng đứng, mang 3-9 hoa ở đỉnh màu vàng nhạt
môi hồng tươi, giữa có 2 vạch nâu. Cây mọc đẹp, hoa
đứng, màu sắc sặc sở nên được trồng làm cảnh, trang
trí trong phòng hợp. Hoa nở mùa xuân.
Lan tiểu Hồ điệp hay Hồ điệp nhài (Phalaenopsis
Pulcherrima). Cây nhỏ sống trên đất cát trong các rừng
chồi, rễ mập khỏe, lá hình trái xoan. Phát hoa nở dài
mang hoa ở đỉnh. Hoa có màu trắng, hồng tím… Hoa nhỏ,
cánh bầu dục, lưỡi có màu đậm hơn, họng màu tím. Cây
mọc ở miền Trung, Đồng Nai, Bình Châu… Cây ra hoa vào
mùa mưa.
Ngoài ra còn một số cây như: Phalaenopsis manni,
Phalaenopsis gibbosa, Phalaenopsis lobbii, Phalaenopsis fuscata,
Phalaenopsis cornu cervi, Phalaenopsis petelotii... Những cây

này thường có hương thơm.
Một số cây Hồ điệp ngoại nhập có hoa đẹp:
Ph. Pilong Cardino + Phuket beauty có hoa chùm to đẹp,
đài và cánh đều trắng tinh, lưỡi đỏ uốn cong, có hai râu
dài rất đẹp, hoa rất lâu tàn.
Ph. Gaint Forst “ Snowbound” đài và cánh đều trắng
tuyền, to, kín, lưỡi nhọn màu vàng, rất đẹp.
Phalae- Rousserol “Francois Lecouple”, đài và cánh màu
hồng có rất nhiều chấm đỏ, lưỡi vàng rất đẹp.
Ph. Sujianna Wijanto “Sunshine” toàn màu vàng tươi có
đốm đỏ nhỏ rất đẹp.
1.1.2.3. Đặc điểm thực vật
Hồ điệp là loài lan đơn thân, mập, ngắn, lá to, dày
mọc sát vào nhau. Đây là giống gồm các loài có hoa
lớn, đẹp. Phát hoa mọc từ nách lá, dài, đơn hay phân
SVTH: Đào Thị Lý

-12-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

nhánh, cánh hoa phẳng, trải rộng, hoa nở từng cái, 3 đài
to tròn, 2 cánh xòa rộng kín. Môi cong, dẹp, có 2 râu dài.
Trụ có hình bán nguyệt với 2 phân khối u lên chứa đầy
phấn hoa. Ngày nay Hồ điệp được lai tạo với nhiều màu
sắc và kích thước đa dạng: trắng, tím, đỏ, vàng, hồng.
Lan có rễ khí sinh phát triển mạnh, màu lục, phía

ngoài có một lớp mô xốp dày gọi là màng bao - có tác
dụng dự trữ nước và bảo vệ rễ khỏi bị khô. Lá đơn
nguyên, dày, không cuống và có bẹ, dạng bầu dục, màu
xanh bóng, đậm và nhẵn.
Hoa mọc thành cụm, lưỡng tính, đối xứng hai bên. Bao
hoa dạng cánh, rời nhau, xếp thành hai vòng: ba mảnh
vòng ngoài và hai mảnh vòng trong bé hơn, mảnh thứ ba
có hình dạng và màu sắc khác hẳn gọi là cánh môi.
Gốc cánh môi thường kéo dài ra, chứa tuyến mật. Nhị
và nhụy dính liền thành cột nhị nhụy. Hạt phấn thường
dính lại thành khối phấn. Hai khối phấn ngăn cách nhau
bởi trung đới. Bộ nhụy gồm 3 lá noãn dính nhau thành
bầu dưới, mang nhiều noãn, đính bên.
Quả của lan Hồ điệp thuộc loại quả nang, mở bằng
các khe nứt dọc theo hai bên đường của giá noãn. Quả
lan chứa rất nhiều hạt, tùy vào giống, loài mà hạt có
thể từ vài trăm đến vài ngàn hạt. Hạt cần trải qua 130 –
150 ngày để hạt trưởng thành, hạt mở sau 90 ngày. Hạt
nhỏ được gió mang xa như hạt bụi, phần lớn hạt bị chết vì
chứa phôi chưa phân hóa. Theo Bernard (1909), hạt lan
muốn nảy mầm phải nhiễm nấm Rhizoctonia vì loại nấm
này có tác dụng khởi phát sự tái lập phân bào. Trong
thực nghiệm, người ta có thể đánh thức các “phôi sơ
khai” (protocorm) khi sử dụng sốc thẩm thấu bằng cách

SVTH: Đào Thị Lý

-13-



Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

nuôi cấy hạt trên môi trường chứa sucrose (Bùi Trang
Việt, 2002).
Keiki: Keiki chỉ một cây con mọc từ một mấu trên
cuống hoa. Một số loài có hoa nhỏ như P. lueddemanniana
thường tạo keiki trên cuống hoa. Hiện tượng này được
Williams mô tả lần đầu tiên vào năm 1894 (Williams và
Williams, 1894).
Keiki còn có thể được hình thành ở nhiều loài
Phalaenopsis và một số loài thuộc các chi lai. Chẳng hạn
trong The Genus Phalaenopsis (Sweet, 1980) có trình bày rõ
khả năng phát triển cây con từ đốt phát hoa Phalaenopsis
kunstleri ở Kew Gardens. Keiki còn có thể hình thành từ rễ
ở các loài Philippine P. stuartiana (Williams vaø Williams, 1894)
vaø Phalaenopsis schilleriana (Davis vaø Steiner, 1952). Các cây
Phalaenopsis dưới điều kiện nuôi trồng không thuận lợi sẽ
tạo ra keiki trên cuống hoa, đặc biệt khi đỉnh đã bị cắt
bỏ.
1.1.2.4. Điều kiện sinh thái.
a. Nhiệt độ và độ ẩm
Hồ điệp là loại hoa của nhiệt đới, nhiệt độ tối
thiểu 22oC- 25oC ban ngày và 18oC vào ban đêm. Tuy nhiên
Hồ điệp là loại lan chịu nóng nhiều hơn đa số các loài
khác. Cây có thể phát triển tốt ở nơi có nhiệt độ cao
35oC vào ban ngày và 25oC vào ban đêm. Nhiệt độ lý
tưởng để phát triển tốt là 25oC-27oC.
Hồ điệp chịu ẩm cao, tối thiểu 60% nhưng không chịu

nước. Làm giàn che phải che 70% nắng. Ẩm độ này rất
phù hợp với điều kiện khí hậu Việt Nam. Khi trồng nên
tạo độ ẩm vừa cho vườn lan vừa cho môi trường xung
quanh.

SVTH: Đào Thị Lý

-14-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Nhiệt độ trong suốt quá trình xử phát hoa nếu vượt
quá 26oC có thể gây ảnh hưởng trực tiếp lên phát hoa,
làm chột đỉnh hoặc giảm số lượng hoa.
b. Nhu cầu nước tưới.
Hồ điệp là cây đơn thân nên không có giả hành
để dự trữ dinh dưỡng và nước. Nước thường tập trung
chủ yếu ở lá, vì Hồ điệp có lá lớn, diện tích tiếp xúc
nhiều nên rất dễ thoát hơi nước.
Trong những ngày trời nắng không để cây khô quá
lâu như vậy cây sẽ kiệt sức. Vào mùa nắng có thể
tưới 3 lần/ngày: sáng, trưa, chiều. Nước tưới có độ pH
khoảng 5-6 là tốt nhất. Nên dùng vòi phun sương tưới
nhẹ rồi di chuyển qua một lượt rồi mới tưới trở lại để cho
nước thắm đều vào chất trồng.
Đối với những vườn lan trồng trong kính thì tưới nước
rất ít khoảng 3-5 ngày/lần. Tóm lại, Hồ điệp cần ẩm

nhiều hơn nước nên chỉ tưới vừa đủ là được.
c. Ánh Sáng.
Hồ điệp cần ánh sáng yếu vì đây là loài ưa bóng
mát, biên độ ánh sáng biến thiên khá rộng 5.000 –
15.000 lux, ánh sáng chỉ cần 20%-30% là đủ. Tuy nhiên
không trồng Hồ điệp ở nơi quá râm mát vì ánh sáng
rất cần cho sự sinh trưởng và trổ hoa.
Cần chú ý không để cây bị cây ánh sáng trực tiếp
chiếu vào, vì như vậy cây sẽ cháy (phỏng) lá. Nếu bị
nhẹ thì cây bị cháy lá, chậm phát triển nặng có thể
làm chết cây. Ta có thể nhận biết được cây thiếu hay
đủ ánh sáng qua màu của lá. Nếu cây thiếu nắng lá
sẽ màu sậm hơn, đọt phát triển yếu. Nếu cây dư ánh
sáng lá sẽ hơi vàng, thậm chí có thể làm cháy lá.
d. Độ thông thoáng.
SVTH: Đào Thị Lyù

-15-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Rất cần thiết cho Hồ điệp, Hồ điệp hay bị bệnh thối
nhũn lá (phõng lá), sự thông thoáng giúp lá cây mau
khô sau khi tưới và bộ rễ không bị úng nước nên hạn
chế bệnh rất nhiều.
Đối với những vườn lan trồng trong nhà kính có thể
dùng quạt hơi nước vừa tạo độ ẩm vừa tạo sự thông

thoáng cho vườn lan. Gió sẽ làm cho lớp không khí nóng
trên bề mặt lá được luân chuyển giúp cho cây lan giảm
sự thoát hơi nước.
e. Dinh dưỡng.
Hồ điệp cần dinh dưỡng thường xuyên, quanh năm
nên không có mùa nghỉ. Hồ điệp cần phân bón tưới
với nồng độ loãng và có thể tưới nhiều lần trong tuần.
Có thể tưới phân hữu cơ như: bánh dầu 15 ngày/lần,
vitamin B1, kích thích ra rễ,...
1.1.2.5. Giá trị kinh tế và tình hình sản xuất lan Hồ
điệp .
a. Giá trị kinh tế của hoa lan Hồ điệp
Hồ điệp không chỉ phổ biến ở Nam Mó, trong những
năm gần đây, Hồ điệp trở thành loại hoa trồng chậu có
giá trị nhất trong ngành công nghiệp trồng hoa ở Đài
Loan. Chúng còn là những món quà xa xỉ ở các nước
Châu Á, đặc biệt là Nhật Bản. Ngoài ra các loài hoa
đẹp, xa xỉ cũng được nhập vào Mỹ để trang trí chậu hoặc
dưới dạng quà tặng cao cấp.
Ngày nay, hoa lan chậu đã trở nên khá phổ biến ở
hầu hết các nước trên thế giới. Người ta có thể thấy
Hồ điệp ở mọi nơi, trên truyền hình, trong nhà, trong vườn,
tạp chí thậm chí nơi bạn làm việc. Chứng tỏ, càng ngày
con người càng nhận thức được tầm quan trọng của
những chậu hoa trong cuộc sống thường nhật của mình.
SVTH: Đào Thị Lý

-16-



Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Lan Hồ điệp là một loài lan có độ bền bông cao trong
điều kiện thích hợp, cũng là một loài cây rất thích hợp
để trồng trong nhà.
Hơn nữa, trong vài thập kỉ gần đây nền công nghệ
trồng lan phát triển giúp người trồng đã giảm giá thành
đáng kể đối với loại lan này nên giá cả phù hợp với
những người mê hoa hay người mới tập trồng cho nên Hồ
điệp ngày càng được ưa chuộng và được trồng ở nhiều
nơi.
Trước đây, Hồ điệp có giá khá cao, nên được xem là
một loại hàng hoá cao cấp trên thị trường. Trong 20 năm
trở lại đây, công nghệ hiện đại và các nghiên cứu đã
giúp cho loại sản phẩm này trở nên phổ biến với người
tiêu dùng, đặc biệt là trong các ngày lễ. Thêm vào đó,
công nghệ lai giống và gieo hạt ngày càng tạo nên nhiều
chủng loại giống mới, nổi bật về màu hoa, kích thước
hoa… Điều này làm cho người tiêu dùng rất thích thú với
thú chơi lan và tạo nên những cơn sốt hoa lan trên thị
trường thế giới.
Hồ điệp được trồng ở mọi nơi trên thế giới, hầu hết
là ở Đức, Nhật bản, Phần Lan, Đài Loan, Thái Lan và Mỹ.
Cây con được nuôi cấy mô ở các nước Phần Lan, Thái
Lan, Đài Loan sau đó cây con lại được xuất khẩu cho các
nước khác với cả Mỹ để trồng ra hoa.
Hàng ngàn các giống được lai và tạo dòng rất có
giá trị trên thị trường. Các nhà nhân giống đã gieo hạt

được rất nhiều giống Hồ điệp có chất lượng hoa và cây
giống rất có giá trị như các tính trạng qui định màu sắc
hoa, và cấu trúc hoa, nhiều nhánh, nhiều vòi hoa, và gần
đây là các giống có hương thơm. Cuộc chạy đua diễn ra
hầu hết tại Đài Loan, điều này dẫn đến một hệ quả là
SVTH: Đào Thị Lý

-17-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

các giống có giá trị hiện nay có thể không còn giá trị
chỉ trong vài năm nữa.
Màu sắc hoa tập trung ở các màu chủ đạo như:
trắng, vàng, xanh, màu mơ chín, hồng, đỏ tươi hay nâu
sẫm. Hoa có thể chỉ có một màu hay sự pha trộn giữa
các màu này với nhau, chủ yếu là khác nhau ở vùng
giữa, hay mép cánh hoa với nhiều cấu trúc khác nhau như
chấm hay sọc trên từng cánh bông. Loại hoa mới được lai
tạo gần đây nhất là Harlequin, có màu trắng hay vàng
với các mép cánh bông được điểm xuyết bởi các chấm
tròn ngẫu nhiên có giá rất cao trên thị trường hiện nay.
b. Tình hình sản xuất lan Hồ điệp .
Lan Hồ điệp là loài hoa đẹp, có giá trị kinh tế cao, là
sản phẩm được cả thị trường trong nước và thế giới ưa
chuộng, là loài lan nhiệt đới, đơn thân, chu kỳ sinh trưởng
ngắn (thời gian từ trồng đến ra hoa khoảng 18-20 tháng

tùy thuộc điều kiện chăm sóc và vùng trồng), dễ áp
dụng sản xuất theo qui mô công nghiệp. Vì vậy từ lâu lan
Hồ điệp đã được rất nhiều nhà sản xuất hoa trong nước
quan tâm. Tuy nhiên việc sản xuất loài hoa này ở nước ta
hiện nay vẫn còn rất hạn chế do nhiều nguyên nhân.
TPHCM mấy năm gần đây được xem như là đơn vị đi
đầu trong cả nước về sản xuất hoa lan cắt cành theo qui
mô tập trung. Chiến lược phát triển nông nghiệp của
Thành phố tới năm 2010 sẽ sản xuất khoảng 300 ha hoa
lan phục vụ cho nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Hoa lan
trồng ở TPHCM chủ yếu là giống Mokara nhập từ Thái
Lan, hiện nay loại hoa này đang bị xuống giá mạnh do sản
phẩm của chúng trên thị trường hoa trong nước gần đạt
tới mức bão hòa. Vì vậy nhiều nhà vườn, trang trại đang

SVTH: Đào Thị Lý

-18-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

chuyển dần sang trồng hoa lan chậu có giá trị kinh tế cao
hơn như Hồ điệp, Vũ nữ, Catleya,... đáp ứng cho thị trường.
Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất cây giống hoa lan trong
nước hiện nay còn rất hạn chế, không đủ cây giống
cung cấp cho sản xuất. Vì vậy các nhà vườn nhập cây
giống ồ ạt từ một số nước trong khu vực như: Thái Lan,

Đài Loan, Trung Quốc,... bằng nhiều hình thức khác nhau
để sản xuất. Phần lớn các cây giống nhập nội bị
nhiễm bệnh, chất lượng kém, một số đã bị loại thải từ
nước ngoài do bị nhiễm bệnh hoặc kiểu dáng lỗi thời.
Trong khi các cơ quan kiểm dịch thực vật trong nước chưa có
các qui chế cụ thể để kiểm soát mặt hàng cây giống
mới này. Điều này sẽ gây ảnh hưởng xấu đến ngành
sản xuất hoa lan ở TP.HCM nói riêng và cả nước nói
chung nếu không có giải pháp kịp thời.
Hiện nay tại TP.HCM cây lan Hồ điệp được xem là cây
trồng chiến lược trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng
và vật nuôi. Đây là cây trồng đem lại hiệu quả cao gấp
2-3 lần so với việc trồng lúa, hoa màu... Trong xu thế đất
trồng ngày càng hẹp thì cây lan không chiếm diện tích
đất nhiều nên là giải pháp rất hiệu quả. Không chỉ
đẹp về màu sắc, hình dáng, hoa lâu tàn… giá thành rẻ
nên ngày càng được ưa chuộng và nuôi trồng.
Tại TP.HCM và các tỉnh lân cận có rất nhiều vườn
trồng Hồ điệp với qui mô từ vài trăm đến vài nghìn
cây. Điển hình là Công ty Lâm Thăng của Đài Loan đầu tư
và Công ty Kim Ngân chuyên trồng về lan Hồ điệp, hàng
năm có thể cung ứng cho thị trường từ vài ngàn đếm
vài chục ngàn cây, nhất là vào dịp Tết Nguyên Đán. Tuy
nhiên do không có sự liên kết giữa các nhà vườn nên

SVTH: Đào Thị Lý

-19-



Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

sản phẩm làm ra không tìm được thị trường tiêu thụ, giữa
cung và cầu không hợp lý.
Về nguồn cây giống thì ở nước ta do không đầu tư
nên cây giống không đạt chất lượng tốt, giống mới
không nhiều nên các nhà vườn thường nhập giống từ
các nước như Thái Lan, Đài Loan…
Ngoài ra hàng năm việc nhập khẩu hoa từ các nước
này ước tính tiêu tốn hàng triệu USD. So với các nước
có ngành trồng lan phát triển như Đài Loan hay Thái Lan
thì ngành trồng ở nước ta cần phải học hỏi nhiều và
cần phải có chính sách phát triển hợp lý nhằm đem lại
hiệu quả kinh tế cao hơn.
1.1.3. Giới thiệu về giống lan Dendrobium
1.1.3.1. Phân loại
Vị trí phân loại:
Lớp một lá mầm

Monocotyledones

Bộ

Orchidales

Họ

Orchidaceae


Họ phụ

Epidendroideae

Tông

Epidendreae

Giống

Dendrobium

Phong lan có vùng phân bố rộng lớn, trải dài từ
đường xích đạo cho đến Bắc cực, từ đồng bằng cho đến
các vùng núi băng tuyết. Họ phong lan (Orchidaceae) với
750 chi và hơn 25000 loài là họ lớn thứ hai sau họ cúc
(Asteraceae) trong ngành hạt kín (Angiospermae) và cũng là
họ lớn nhất trong lớp một lá mầm.
Việc phân loại phong lan khá phức tạp. Theo truyền
thống cổ điển các nhà khoa học trước đây phân loại
Dendrobium thuộc tông Epidendreae, họ phụ Epiden droideae,
phân họ Orchidaceae (Trích Nguyễn Thị Hồng Nhật, 2004).
SVTH: Đào Thị Lý

-20-


Đồ án tốt nghiệp


GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Theo Nguyễn Xuân Linh (1998) phân loại lan Dendrobium
như sau:
- Dendrobium crassinode (Hoàng thảo u lồi).
- Dendrobium draconis (Hoàng thảo nhất điểm hồng).
- Dendrobium farmeri (Hoàng thảo thủy tiên).
- Dendrobium hercoglossum (Hoàng thảo tím huế).
- Dendrobium heterocrrpun (Hoàng thảo nhất điểm
hoàng).
- Dendrobium parciflorum (Hoàng thảo xương cá).
- Dendrobium parisshii (Hoàng thảo tím hồng).
- Dendrobium parishii (Hoàng thảo hạc vó).
- Dendrobium primulim (Hoàng thảo long tu).
- Dendrobium pumilum (Hoàng thảo phù dung).
1.1.3.2. Sự phân bố
Họ Orichiaceae có khoảng 750 chi, 20.000 đến 25.000
loài, chiếm vị trí thứ hai sau họ Cúc trong ngành thực vật
hạt kín và là họ lớn nhất trong một lá mầm. Các loài
trong hệ thống này phân bố rộng, do đó hình thái và
cấu tạo cũng hết sức phức tạp và đa dạng.
Giống Dendrobium có khoảng 16.000 loài và đã được
lai tạo thêm nhiều loại mới. Tên Dendrobium có nguồn gốc
từ chữ Hy Lạp: “Dendro”-có nghóa là gỗ “bio”- có nghóa là
sống. Dendrobium hầu hết là thực vật biểu sinh, sống
bám trên vỏ cây. Ở Việt Nam, người ta còn gọi là
Hoàng Lan, hay còn gọi là Đăng Lan.
Dendrobium chỉ được tìm thấy ở Đông Bán Cầu, trải
dài từ Australia, xuyên suốt nam Thái Bình Dương, Philippine,
Ấn Độ, xuất hiện một ít ở Nhật Bản và xuất hiện

nhiều nhất ở Đông Nam Á.
Do quá đa đạng nên Dendrobium tập trung thành hai
dạng chính:
SVTH: Đào Thị Lý

-21-


Đồ án tốt nghiệp

-

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Dạng đứng (Dendrobium Phalaenopsis): thường mọc ở

xứ nóng, chịu ẩm, siêng hoa. Tp. Hồ Chí Minh trồng rất
nhiều loại này.
-

Dạng thòng (Dendrobium Nobile): chịu khí hậu mát

mẻ ở vùng đồi núi cao như Đà Lạt, Lâm Đồng…
Ở Việt Nam, Dendrobium có đến 100 loài, xếp trong 14
tông, được phân biệt bằng thân (giả hành), lá và hoa.
Lan

rừng

Việt


Nam



rất

nhiều

nhóm

Dendrobium:
Nhóm có giả hành rất dài, to, đứng thẳng như lan
Thái Bình (Dendrobium Pulchellum);
Nhóm có giả hành dài thòng xuống như Long Tu (D.
Primilium);
Nhóm có giả hành to ngắn như Kim Điệp (D.
Chrysotosum), Thủy Tiên (D. Farmeri), Vảy Cá (D. Lindleyi)…
Các loại này đều sống phụ sinh, sống bám trên thân
cây, dạng bụi, có nhiều giả hành mọc sát nhau như mía
và còn có thể nhảy con từ mắt của lóng nên còn gọi
là lan mía hoặc lan tre. Lá hình thuôn dài, mọc xen, màu
xanh, hoa có thể mọc từ thân thành chùm hay cô độc.
Có nhiều loại rụng hết lá mới ra hoa. Các phát hoa
không những mọc trên giả hành mới mà cũng có thể
mọc lên từ các giả hành cũ đã ra hoa rồi. Các giống lan
rừng này thường trồng bám vào thân cây, vào miếng
dớn hoặc xơ dừa. Giá thể phải thông thoáng, phải để
lan vào chỗ hơi râm mát. Tưới nước ngày 2 lần, tưới
phân 10 ngày 1 lần như phân 30.10.10, hoặc phân bánh

dầu, đều tốt. Muốn cho ra hoa phải tạm ngưng tưới nước,
tưới phân để cho cây rụng hết lá, sau đó mới ra hoa.
Lan Dendrobium nhập nội:

SVTH: Đào Thị Lý

-22-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Ở TPHCM nhập rất nhiều lan Dendrobium từ Thái Lan,
Úc về trồng vì phát hoa dài cho rất nhiều hoa, màu sắc
đẹp lại lâu tàn. Các loại Dendrobium nhập đã được lai tạo
thuần hoá nên có hoa quanh năm, không có mùa nghỉ.
Thường thì trồng vào chậu đất nung có nhiều lỗ chung
quanh, giá thể gồm than, gạch, xơ dừa, dớn, vỏ cây...
Cây Dendrobium nhập nội rất đẹp như: Rakpaibulsombat
Wahite có phát hoa dài, nhiều hoa, hoa to màu trắng
tuyền, kín rất đẹp, Thái Lan White, Rasem White cũng đều
có hoa màu trắng rất đẹp và lâu tàn.
Dendrobium Thonglor Beauty có hoa màu tím đỏ, lưỡi đỏ
rất siêng hoa.
Dendrobium Pink Magic "T-orchids" có hoa to, cánh màu
đỏ tươi tròn kín, lưỡi đỏ nhung, họng trắng rất đẹp.
Dendrobium Somsak, hoa tròn cánh trắng, họng đỏ.
Dendrobium Kultana "Oldbhue" hoa màu xanh tím, họng
nhung đen rất lạ. Dendrobium Kaasem Gold cánh vàng tươi,

họng đỏ.
D. Kurniati "Golden Gold" hoa to cánh vàng tươi, lưỡi đỏ,
ở cây này, đài và cánh đều vàng cả bên trong lẫn
bên ngoài rất đẹp.
D.Thonglor`s Delight 2 màu, cánh đỏ có sọc trắng, đài
màu trắng hồng.
D.Candy Stripe đài và cánh đều màu hồng, có nhiều
sọc đỏ theo chiều dọc cánh, rất đẹp.
Loại Dendrobium thật là đa dạng, không thể nào kể
hết ra được.
Ở Thái Lan chuyên trồng Dendrobium cắt cành, trồng
đại trà ở dưới đất.
Ngày nay, ở TPHCM cũng có nhiều vườn lan chuyên
trồng Dendrobium cắt cành. Trồng các loại nhập từ Thái
SVTH: Đào Thị Lý

-23-


Đồ án tốt nghiệp

GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Lan thì rất siêng hoa, mỗi phát hoa có từ 15 hoa trở lên,
một giả hành có thể luân phiên ra từ 5-10 vòi hoa.
1.1.3.3. Đặc điểm hình thái
Dendrobium có số lượng khá lớn, phân bố rộng rãi
nên đặc điểm hình thái đa dạng, do đó không có một
hình dạng chung nhất nào về hoa và dạng cây. Nhìn chung,
lan thuộc giống Dendrobium đều có các bộ phận sinh

dưỡng như rễ, thân, giả hành, lá và cơ quan sinh sản như
hoa, trái.
a. Rễ
Sự đa dạng về hình thái và cấu trúc rễ làm cho
Dendrobium phù hợp với nhiều điều kiện sống: rễ mập,
thân rễ bò dài hay ngắn khi sống ở đất.
Ở một số loài có lối sống phụ bì, bám lơ lửng trên
vỏ cây khác, nên thân rễ có thể dài hay ngắn, mập
hay mảnh mai giúp đưa thân bò đi xa hay chụm lại thành
các bụi dài.
Cây có hệ rễ khí sinh, có một lớp mô hút ẩm dày
bao quanh gồm những lớp tế bào chết chứa đầy không
khí nên rễ ánh lên màu xám bạc. Vì vậy rễ hút được
nước mưa hay chảy dọc trên vỏ cây hấp thụ dinh dưỡng
và chất khoáng, mặt khác giúp cây bám chặt vào giá
thể, không bị gió cuốn. Có khi hệ rễ đan bện thành búi
chằng chịt nhằm thu gom mùn của vỏ cây làm nguồn dự
trữ chất dinh dưỡng.
Một loài có thân lá kém phát triển thậm chí tiêu
giảm hoàn toàn, có hệ rễ chứa diệp tố giúp cây hấp
thu đủ ánh sáng cần thiết cho sự ra hoa và quang hợp.
Ở loài sống hoại thì rễ có dạng búi nhỏ dày đặc
có vòi hút ngắn để hút dinh dưỡng từ đám xác thực
vật (sau khi được nấm phân hủy).
SVTH: Đào Thị Lyù

-24-


Đồ án tốt nghiệp


GVHD: Ks. Nguyễn Ngọc Quỳnh

Rễ của lan Dendrobium không chịu được lạnh, nếu bị
lạnh trong thời gian dài, rễ cây sẽ bị mục nát và cây bị
chết.
b. Thân
Dendrobium thuộc nhóm đa thân (còn gọi là nhóm hợp
trục) có hệ thống nhánh nằm ngang bò dài trên giá
hoặc nằm sâu trong đất gọi là thân rễ.
Thân nhẵn hay có nhiều vảy là do thoái hoá và
một phần thẳng đứng mang lá. Các lá này bao nhau hợp
thành thân giả hay còn gọi là giả hành.
c. Giả hành
Giả hành là những đoạn phình to, bên trong có các
mô mềm chứa dịch nhày làm giảm sự mất nước và dự
trữ chất dinh dưỡng để nuôi cấy trong điều kiện khô hạn
khi cây sống bám trên cao. Ngoài ra giả hành còn chứa
diệp lục tố nên có thể quang hợp được.
Hình dạng và kích thước của giả hành rất đa dạng: từ
nhỏ như chiếc đinh găm đến lớn như mũ người lớn, hình
cầu, thuôn dài, hay hình trụ xếp chồng lên nhau tạo thành
thân giả có lá mọc xen kẽ. Trên thân giả có nhiều mắt
ngủ nên Dendrobium có thể nhân giống nhanh hơn các
giống lan khác theo phương pháp chiết nhánh thông
thường. Một số loài ở xứ lạnh chỉ có nhiệm vụ dự trữ
chất dinh dưỡng nên giả hành không có màu xanh nhưng
phía trên có mang lá.

d. Lá


SVTH: Đào Thị Lý

-25-


×