Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Thế giới nghệ thuật trong cho tôi xin một vé đi tuổi thơ của nguyễn nhật ánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.92 KB, 58 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------

NGUYỄN THỊ OANH

Thế giới nghệ thuật trong Cho tôi xin một vé đi
tuổi thơ của Nguyễn Nhật Ánh

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nói đến văn học dành cho thiếu nhi ta không thể không nhắc đến những
cái tên quen thuộc như Tơ Hồi, Võ Quảng, Trần Đăng Khoa… Bên cạnh đó
cịn có những cây bút trẻ như Phùng Ngọc Hùng, Trần Thiên Hương, Nguyễn
Ngọc Thuần, Nguyễn Nhật Ánh. Trong số những tác giả kể trên, Nguyễn
Nhật Ánh nổi lên như một hiện tượng với số lượng tác phẩm và số lần xuất
bản kỉ lục. Ơng thành cơng trên rất nhiều lĩnh vực như nhà văn, nhà báo, nhà
giáo, nhà thơ nhưng có lẽ ơng được biết đến nhiều nhất ở vai trò nhà văn.
Nguyễn Nhật Ánh được bình chọn là tác giả tiêu biểu nhất của văn học thiếu
nhi Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX.
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là cuốn sách khá đặc biệt của nhà văn

Nguyễn Nhật Ánh. Với tác phẩm này, ông đã khẳng định sự chuyên nghiệp


2

trong phong cách viết và trong “độ rung” về cảm xúc. Câu chuyện hồn nhiên
tinh nghịch của bốn cô cậu bé đã mang lại cho nhà văn Nguyễn Nhật Ánh
nhiều giải thưởng: Tác phẩm bán chạy nhất tại hội sách Thành phố Hồ Chí
Minh năm 2008, cuốn sách hay nhất năm 2008 (theo bình chọn của bạn đọc
báo Người lao động), giải vàng sách hay của Hội xuất bản Việt Nam, giải
thưởng Hội nhà văn 2009, giải thưởng văn học Asean 2010. Ngồi ra, tác
phẩm cịn được dịch ra tiếng nước ngoài như tiếng Thái, tiếng Nhật.

Đến với tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, ta bắt gặp thế giới trẻ
thơ vô cùng hồn nhiên, đáng yêu. Những trò chơi tinh nghịch, những nghĩ suy
ngộ nghĩnh giàu tưởng tượng là đặc trưng của tuổi thơ. Đọc tác phẩm ta như
lạc vào thế giới của sự hồn nhiên mà cũng khơng ít suy tư, trăn trở. Cách kể
chuyện hấp dẫn, giọng điệu dí dỏm, ngơn ngữ sống động… là những nét đặc sắc
nghệ thuật tạo nên sự cuốn hút cho tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh.

Chọn đề tài: “Thế giới nghệ thuật trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ
của Nguyễn Nhật Ánh” giúp chúng tơi tìm hiểu sâu hơn nội dung tư tưởng
cũng như nghệ thuật viết truyện của Nguyễn Nhật Ánh, từ đó khẳng định
thêm những đóng góp của ơng cho nền văn học đương đại Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh không chỉ mang lại cho người đọc
tiếng cười trong trẻo mà còn ẩn chứa ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Nhiều bạn đọc
đã coi Nguyễn Nhật Ánh là người thầy của mình và những tác phẩm của ông
như những cuốn sách giáo khoa. Tuy là nhà văn có khá nhiều độc giả yêu mến
và số lượng tác phẩm được xuất bản nhiều nhưng đến nay có khơng nhiều
cơng trình đi sâu nghiên cứu về các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh. Những
bài viết về Nguyễn Nhật Ánh chủ yếu chỉ ở dưới dạng những bài giới thiệu,
phỏng vấn nhỏ trên các báo, trang web, đài phát thanh, truyền hình. Nhìn
chung các bài viết này đã thể hiện sự phong phú khi đánh giá những sáng tác


3


của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh dưới nhiều góc độ. Tiêu biểu có những bài viết
của các tác giả sau:
Tác giả Vân Thanh với bài viết “Nguyễn Nhật Ánh - nhà văn thân quý
của tuổi thơ” cho ta cái nhìn khái quát về những sáng tác của Nguyễn Nhật
Ánh cả về nội dung và nghệ thuật. Cũng ở đó, Vân Thanh đã đưa ra nhận xét
“Truyện của Nguyễn Nhật Ánh có khả năng đi vào lịng người bởi tình cảm
nồng hậu của tác giả đối với các lứa tuổi trẻ thơ mà anh luôn yêu quý và tôn
trọng” [25, tr.20]
Tác giả Vũ Ân Thy trong bài viết Nhà Văn Nguyễn Nhật Ánh – “Tơi
viết như cậu học trị” đã giải thích tại sao tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh
được bạn đọc đón nhận rất nồng nhiệt: “Có lẽ do tâm hồn của tôi gần gũi với

tâm hồn của các em nên những gì tơi viết ra, các em cảm thấy như chuyện
của chính mình” [26]. Tác giả cũng cho rằng: “Nguyễn Nhật Ánh không chỉ
trở thành lá chắn cho tâm hồn học trò, anh còn mang lại cho vă n học thanh
thiếu niên một sinh khí mới, lãng mạn, dí dỏm, nghịch ngợm và lành mạnh”
[26]
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân trong bài viết “Cho tôi xin một vé đi
tuổi thơ (Đọc văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh)” nhận xét về đề tài, ngôn ngữ, cách
viết, giá trị các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh:“Trong tiểu thuyết của anh,
không gian không rộng lắm, thời gian không dài lắm, những câu chuyện cũng
chẳng có gì là ly kỳ để kích thích trí tò mò chuộng lạ của độc giả trẻ tuổi như
các loại truyện cổ tích, truyện phiêu lưu, viễn tưởng, thế mà trẻ thơ vẫn “say
anh như điếu đổ” [28, tr 22]

Tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương đưa ra nhận xét về nhân vật “tôi”
trong tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, đồng thời khẳng định thành
công của Nguyễn Nhật Ánh khi viết tác phẩm này: “Mỗi nhà văn khi sáng tác
đều có sẵn một tín niệm nghệ thuật. Viết cho trẻ con hay viết về trẻ con thì


4

đều cần phải dùng quan năng của trẻ em để sáng tạo. Và Nguyễn Nhật Ánh
đã có được cái ân sủng trời cho ấy khi viết về trẻ thơ. Ông đã tạo nên một
kiểu nhân vật “tôi” đứa trẻ - người lớn trong truyện “Cho tôi xin một vé đi
tuổi thơ” khơng giả dối, khơng đóng vai, khơng “cưa sừng làm nghé” mà

chân thực, sống động để mỗi đứa trẻ khi đọc cuốn sách đều thấy chính mình ở
đó và mỗi người lớn khi lật giở từng trang viết đều thấy nhớ về đứa trẻ đã
sống trong mình” [18]
Như vậy qua các ý kiến nhận xét, đánh giá về các sáng tác của nhà văn
Nguyễn Nhật Ánh và tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ ta thấy rằng
Nguyễn Nhật Ánh và Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ được đón nhận, đánh giá
một cách nồng nhiệt. Tuy nhiên các cơng trình nghiên cứu đó mới chỉ dừng
lại ở những nhận định, đánh giá mang tính chất khái qt, chưa có cơng trình
nào nghiên cứu sâu về thế giới nghệ thuật truyện Cho tôi xin một vé đi tuổi
thơ. Chính vì thế, trong khóa luận này chúng tôi đi vào nghiên cứu thế giới
nghệ thuật truyện Cho tơi xin một vé đi tuổi thơ, thơng qua đó góp phần hiểu
rõ hơn về những đóng góp của tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh đối với sự vận

động của văn học thiếu nhi hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Thế giới nghệ thuật trong Cho tôi
xin một vé đi tuổi thơ được thể hiện: cảm hứng nghệ thuật, không - thời gian
nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng điệu.
- Phạm vi khảo sát: trong tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ
(2008)
4. Giới thuyết thuật ngữ
- Thế giới nghệ thuật: “khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ
thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của tác giả, một trào
lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới



5

riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế giới thực
tại vật chất hay thế giới tâm lý của con người, mặc dù nó phản ánh các thế
giới ấy. Thế giới nghệ thuật có khơng gian riêng, thời gian riêng, có quy luật
tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị
riêng” [11, tr.302].
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng để

tìm hiểu các đặc điểm nội dung và hình thức trong Cho tơi xin một vé đi tuổi
thơ từ đó rút ra những nhận định khái quát về tác phẩm.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Phục vụ có hiệu quả cho việc tìm ra
những nét mới mẻ, khác biệt trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh cả về nội
dung và nghệ thuật.
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Xem xét yếu tố tạo nên cấu trúc tác
phẩm, tìm ra nguyên tắc chi phối sự hình thành của chúng.
6. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận của
chúng tơi được chia làm 3 chương.
Chương 1. Cảm hứng nghệ thuật trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ
Chương 2. Không gian, thời gian nghệ thuật trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ


Chương 3. Ngôn ngữ và giọng điệu trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ


6

NỘI DUNG
Chương 1
CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT
TRONG CHO TÔI XIN MỘT VÉ ĐI TUỔI THƠ

1.1. Cảm hứng về thế giới trẻ thơ

1.1.1. Trẻ em - thế giới tuổi thơ đầy sắc màu
Ký ức bao giờ cũng khiến người ta xúc động, ký ức tuổi thơ càng dễ
làm mọi người rung lên những xốn xang, thương nhớ. Cho tôi xin một vé đi
tuổi thơ là tấm vé mời đặc biệt mà nhà văn Nguyễn Nhật Ánh gửi đến bạn đọc
với mong muốn mọi người hãy ln nhớ về tuổi thơ của mình để hiểu hơn và
cảm thông hơn cho trẻ em. Tác phẩm được gợi cảm hứng từ tuổi thơ của
chính nhà văn nên đã phản ánh thật tự nhiên, sâu sắc về một thế giới tuổi thơ
hồn nhiên, tinh nghịch. Với Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, nhà văn Nguyễn
Nhật Ánh đã tạo nên một phong cách riêng biệt và mang lại cho người đọc
những trải nghiệm mới, những hiểu biết mới về trẻ em.
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là cuộc du hành đưa ngược ta về với quá
khứ. Những mảnh ghép tuổi thơ mở ra bao lối về trong ký ức. Đó là những

sắc màu tươi vui, những gam màu trầm buồn đong đầy tiếc nhớ trong ánh
nhìn tinh nghịch của trẻ con và đan cài vào đó là cả cái suy tư của người đã
trưởng thành. Nhân vật chính của câu chuyện là thằng cu Mùi khi tám tuổi và
những người bạn thân của Mùi là thằng Hải cị, con Tủn, con Tí sún. Xoay
quanh câu chuyện của bốn đứa trẻ là những nụ cười, những giọt nước mắt,
những cảm giác lâng lâng khó tả, những lúc ngoan ngoãn hay những giờ phút
“điên điên” nhất. Tất cả cho ta một cái nhìn chân thực về thế giới tuổi thơ
không chỉ của riêng nhà văn mà cịn của rất nhiều người.
Với Cho tơi xin một vé đi tuổi thơ, Nguyễn Nhật Ánh mang lại cho
người đọc những điều bất ngờ, những tiếng cười tươi vui mà ẩn chứa trong đó



7

bao suy ngẫm. Sự tò mò của độc giả được nhà văn đánh động ngay từ những
trang đầu của cuốn truyện. Tác phẩm được mở đầu bằng tiếng thở dài não
nuột của cu Mùi “một ngày tôi chợt nhận thấy cuộc sống thật buồn chán và tẻ
nhạt” [1, tr.10]. Một “câu nói yếm thế” của cu cậu ở tuổi lên tám mà đậm chất
suy tư. Cu Mùi triết lý: “tám tuổi có cái buồn chán của tuổi lên tám. Đó là cái
ngày khơng hiểu sao tơi lại có ý nghĩ rằng cuộc sống khơng có gì để mà chờ
đợi nữa” [1, tr.11]. Người đọc hẳn phải bật cười bởi câu nói có phần ơng cụ
non của cu Mùi. Nó cho rằng cuộc sống này “thật là cũ kỹ”, tẻ nhạt, lặp lại
như cái máy. Mở đầu cho câu chuyện là mảng suy tư dưới con mắt của trẻ
thơ. Điều này xuất phát bởi cu Mùi chưa tìm ra được cho mình được sự đổi

mới so với cuộc sống thường ngày. Nguyễn Nhật Ánh đã thông thuộc tâm lý
trẻ em và ghi lại điều đó thật sinh động. Cu Mùi ghét những gì cứ lặp đi lặp
lại buồn tẻ. Vẫn tiếng chim hót, vẫn tiếng dế, tiếng gà khơng đổi nhưng ngày
ngày Mùi phải cột chặt vào cuộc sống ấy. Kể cả việc ăn uống, Mùi cũng
không được làm theo ý mình “tơi chỉ khối xực những món chẳng bổ béo gì
như mì gói chẳng hạn” nhưng nó lại khơng được mẹ cho phép ăn mì gói.
Việc ngủ trưa dường như cũng là một cực hình đối với cu Mùi, nó cảm thấy
“tủi thân và sầu muộn” khi phải ngủ trưa: “tôi nằm cựa quậy bên cạnh ông
trên chiếc đi-văng, thở dài thườn thượt khi nghĩ đến những quả đấm mà lũ
bạn nghịch ngợm đang vung lên ngoài kia” [1, tr.22]. Cu Mùi thích một cuộc
sống bừa bộn với thói quen ngủ dậy muộn, vứt sách bừa bãi, tức là một cuộc
sống khơng có người quản thúc, được tự do làm những điều mà mình thích.

Đọc tới đó ta thấy được tâm sự của một đứa trẻ mong muốn được sống trong
một thế giới đúng nghĩa của con trẻ.
Song trẻ con vẫn chỉ là trẻ con, nỗi buồn chán của của cu Mùi trơi qua
nhanh, thay vào đó là sắc màu rực hồng của những trị chơi thú vị “đá bóng,
bắn bi nhưng thường xuyên nhất và hăng hái nhất là những trò rượt đuổi,


8

đánh nhau hay vật nhau xuống đất cho đến khi khơng cịn đứa nào ra hình thù
một học sinh ngoan nữa mới thơi” [1, tr.19]. Nếu nói tuổi thơ là một bức
tranh lớn thì mỗi kỉ niệm là một mảnh màu tạo nên những sắc màu lung linh

của tuổi thơ trong sáng. Có thể nói, ước mơ mà trẻ con mọi thời đại luôn khao
khát là được làm mọi việc theo ý nghĩ của mình. Ở đây, cu Mùi cũng vậy,
được thỏa sức làm điều mình muốn, cu Mùi hết sức vui sướng và mãn
nguyện. Những việc mà nó muốn làm là những việc mà trẻ con đều muốn
làm. “Rất nhiều đứa trẻ khơng đi đứng bình thường như thiên hạ mà thích
nhảy chân sáo ngồi đường. Thậm chí nhiều đứa thích đi bằng mũi chân trên
gờ tường cheo leo hơn là sải bước vững vàng trên mặt đất. Nhiều đứa trẻ
khác đội nón cứ thích quay ngược lưỡi trai ra đằng sau. Nhiều đứa trẻ khác
nữa thích dung bút để đọ gươm và xé giấy tập để xếp tàu thuyền hơn là dùng
thứ này để viết lên thứ kia” [1, tr.105]. Những lúc “trở chứng” như thế là
những giây phút trẻ em được tự do thoải mái nhất. Đối với trẻ em thì có gì
thích hơn thế.

Và trước hết, bộ tứ: Cu Mùi, thằng Hải cị, con Tí sún, con Tủn chơi trò
vợ chồng. Đây là một trò chơi hết sức thú vị, hấp dẫn đối với cả bốn đứa trẻ.
Tiêu chuẩn chọn “bạn đời” của cu Mùi đơn giản “chỉ vì nó thích tơi, tơi nói gì
nó cũng nghe răm rắp”, mặc dù ngoại hình thì “Con Tí sún khơng đẹp đẽ gì,
người đen nhẻm, tóc xoăn tít, suốt ngày chạy nhảy ngoài nắng, đã thế lại sún
răng” [1, tr.31]. Sống trong trò chơi, chúng được thỏa sức làm những gì
chúng nghĩ, được hị hét chống lại những gì mà người lớn đặt ra. Trị chơi
sắm vai thú vị này đã mang lại cho chúng cảm giác vui sướng đến nỗi “tối
hơm trước thằng Hải cị chắc thao thức suốt đêm chờ trời sáng. Sáng ra tôi
thấy mắt nó đỏ kè. Nếu hơm đó khơng phải là ngày chủ nhật, có lẽ Hải cị sẽ
bị sự nơn nóng đốt thành than trước khi cả bọn đi học về” [1, tr.37].



9

Trị chơi tìm kho báu là một trong những cách mà bọn trẻ bày ra để xóa
đi sự buồn chán đơn điệu hàng ngày. Khu vườn nhà Hải cị chính là địa điểm
để bốn đứa trẻ tiến hành kế hoạch. Chúng háo hức làm việc và hy vọng sẽ
chạm được vào kho báu. “Chúng tơi mỏi mịn chờ tiếng va của lưỡi cuốc vào
nắp hịm gỗ hoặc một vật gì cưng cứng như vàng hay kim cương nhưng hồi
cơng” [1, tr.145]. Cuộc tìm kiếm kho báu mang lại cho những nhân vật nhí
cảm giác được phiêu lưu, hồi hộp. Tuy nhiên, nó cũng mang lại hậu quả là cả
bốn đứa trẻ đều phải “mặt mày nhàu nhò như quần áo vừa lấy vơ từ dây phơi”
vì bị bố mẹ phạt do đã phá hỏng cả khu vườn nhà Hải cò. Cảm giác tươi vui,

háo hức lúc đầu của bốn đứa trẻ đã chuyển sang thành sự “tang thương” “héo
úa”. Thế là kết thúc một cuộc thám hiểm đáng nhớ.
Trẻ em ln có cái nhìn khác với cái nhìn của người lớn, cuộc sống của
trẻ em dường như cũng sôi động hơn của người lớn. Đọc Cho tôi xin một vé đi
tuổi thơ người đọc được thoát khỏi thế giới thực tại của bộn bề cuộc sống để
trở lại với những miền kí ức của tuổi thơ. Ở đó ta bắt gặp chính bản thân mình
với những niềm vui, nỗi buồn, những cảm giác khác nhau nhưng đậm chất
ngây thơ và trong sáng. Tất cả tạo nên hình hài của một tuổi thơ rất sống động
và rất tiêu biểu.
1.1.2. Trẻ em trong mối quan hệ với cuộc sống đa chiều
Không chỉ là những trang viết tươi vui, hóm hỉnh, Cho tơi xin một vé đi
tuổi thơ cịn thể hiện tình cảm, sự quan tâm ân cần của mẹ dành cho cu Mùi.

Mẹ là người sáng nào cũng phải “kêu khản cả giọng rồi lay người (…) cù vào
lòng bàn chân ” thì cu Mùi mới chịu dậy. Quan tâm đến sức khỏe của cả gia
đình dường như là nhiệm vụ quan trọng của mỗi người mẹ “mẹ tôi luôn quan
tâm đến sức khỏe và cụ thể hóa mối quan tâm của mình bằng cách bắt tơi (và
cả gia đình) ăn những món ăn có nhiều chất dinh dưỡng” [1, tr.13]. Song với
một đứa trẻ như cu Mùi thì việc ăn những món ăn dinh dưỡng quả thật như tra


10

tấn “tôi vẫn buộc phải ăn dù là ăn trong miễn cưỡng và lười nhác, và đó là lý
do mà mẹ tôi luôn than thở về tôi” [1, tr.14].

Không chỉ lo lắng về cách ăn uống của con, mẹ cu Mùi cịn xót xa khi
thấy con từ trường về với bộ dạng “khuỷu tay đã trầy xước, mắt đã bầm tím,
chân đi cà nhắc và áo quần thì trơng cịn tệ hơn mớ giẻ lau nhà” [1, tr.19] vì
chơi trị đánh nhau với bạn ở lớp. Mẹ quan tâm lo lắng cho cu Mùi “giọng
thảng thốt, vừa nói vừa nắn nót cánh tay rớm máu” của nó. Và đúng với bản
chất của tình mẫu tử, mẹ cu Mùi đã bao che, bênh vực cho nó trước sự trừng
phạt của bố “ơng ơi, con nó đã nát nhừ ra rồi” và ân cần chăm sóc nó bằng
cách tắm và bơi lên người nó “đủ thứ thuốc xanh xanh đỏ đỏ”. Ngồi ra, mẹ
cu Mùi cịn có nhiệm vụ (có lẽ là rất vất vả) quan sát khơng cho nó chạy đi
chơi đánh nhau. Chính vì thế mà cu Mùi chỉ được chơi những trò ẻo lả như
nhảy lò cò hay bịt mắt bắt dê, đại khái là dành cho bọn con gái hay khóc nhè
[1, tr.24]. Nhưng cu Mùi nghịch ngợm đâu chịu “đầu hàng” nhanh chóng, nó

đã biết cách ỉ ôi để mẹ “thả” qua nhà hàng xóm chơi thỏa thích.
Thật hạnh phúc đối với người mẹ khi thấy con mình lớn lên một cách
bình thường như bao đứa trẻ khác. Bất cứ sự khác thường nào của con cái
cũng khiến bố mẹ phải suy nghĩ. Biết tính con mình hay nghịch mà lười học,
mẹ cu Mùi hết sức ngạc nhiên khi có một ngày nó trở nên ngoan ngỗn đến lạ
thường. Cu Mùi muốn chứng tỏ rằng “muốn làm ba mẹ hài lịng là điều vơ
cùng đơn giản mà bất cứ đứa trẻ nào nếu muốn cũng đều làm được” [1,
tr.121]. Nó đã chăm chỉ học tập “học như thể ngày mai tôi sẽ chết (...) học
như điên, vùi đầu vào tập không cả ăn cả chơi, mặc kệ tiếng réo gọi tuyệt
vọng của thằng Hải cò, con Tủn và con Tí sún khơng ngừng đập vào cửa sổ ”
[1, tr.121]. Quyết tâm học tập của cu Mùi đã mang lại kết quả, nó thuộc bài
vanh vách. Thấy con tiến bộ ngồi sức tưởng tượng, mẹ nó bỗng trở nên lo

lắng “con có bị sao khơng con? Chắc con phải đi bác sĩ thôi” [1, tr.123].


11

Người mẹ luôn luôn quan tâm đến con cái với tình u thương và sự
dịu dàng cịn những ơng bố lại luôn tỏ ra nghiêm khắc. “Nếu những nguyên
tắc đạo đức là bà mẹ thì những nguyên tắc luật pháp là ông bố: Một bên đưa
ra những khuyên giải nhẹ nhàng, một bên suốt ngày hằm hè và đưa ra những
răn đe” [1, tr.141]. Tất nhiên cả bố và mẹ đều rất thương con nhưng mỗi
người lại có một cách thể hiện khác nhau. Khi thấy cu Mùi trở về nhà trong
tình trạng khơng ra “hình thù của một học sinh ngoan” thì bố đã nói “rất gần

với cách rồng phun lửa: Mày lại đánh nhau ở đâu rồi phải không?” [1, tr.19].
Và nếu như không được sự che chở của mẹ thì có lẽ cu Mùi đã phải chịu một
trận đòn roi từ người bố nghiêm khắc. Bố còn là người trơng chừng cu Mùi
khi ngủ trưa khiến nó phải ngủ trưa trong “sầu muộn”. Điều khiến cu Mùi sợ
bố nhất có lẽ vì bố ln là người kiểm tra bài vở của nó trước khi đi ngủ “Ơng
khơng bao giờ lùi bước trước những giọt nước mắt của tơi, dù lúc đó trơng tơi
rất giống một kẻ sầu đời đến mức chỉ cách cái chết có một bước chân” [1,
tr.25]. Bố rất kiên trì khi kiểm tra bài cu Mùi, ông “sẵn sàng chờ đợi tôi cho
dù ông buộc phải đọc đến mẩu rao vặt cuối cùng khi khơng cịn gì mà đọc
nữa” [1, tr.26]. Và bố cũng thực sự ngạc nhiên khi cậu con trai ham chơi của
mình lại có thể “trả bài vanh vách” cho ơng nghe “ba tôi dụi mắt năm sáu cái
liền, nức nở khen, nếu khơng kiềm chế được có lẽ ơng đã ôm chầm lấy tôi và

nhấc bổng tôi lên”. Người đàn ông dù mạnh mẽ thế nào cũng không
khỏi“rơm rớm nước mắt” vui sướng khi con cái mình tiến bộ.
Thật hạnh phúc biết bao khi trẻ em luôn nhận được sự quan tâm, chăm
sóc của bố mẹ mặc dù mỗi người có một sự thể hiện khác nhau. Đặt trẻ em
trong mối quan hệ giữa bố và mẹ, Nguyễn Nhật Ánh muốn thể hiện tình yêu
thương của bố mẹ dành cho con cái. Sống trong tình yêu và sự quan tâm ân
cần ấy, chắc chắn trẻ em sẽ lớn lên trong những điều kiện tốt nhất. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, người đọc cũng rút ra được bài học cho bản thân mình: người


12


lớn cần quan tâm đến trẻ em nhưng phải quan tâm cho đúng cách. Họ cần
lắng nghe những điều trẻ em mong muốn, từ đó có cách giáo dục phù hợp,
tránh mang lại cảm giác bị áp đặt cho chúng.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã từng nói:“Trong tất cả các tác phẩm viết
cho trẻ em của tôi, dù là truyện sinh hoạt hay truyện giả tưởng, tình bạn là
một yếu tố quan trọng và ln được đề cao (…) chính tình bạn mới giúp cho
các nhân vật của tơi vượt qua khó khăn và nghịch cảnh”. Trong Cho tơi xin
một vé đi tuổi thơ, các nhân vật mới tám tuổi nên tình bạn của các em chủ yếu
xoay quanh các trò chơi. Những cuộc chơi vui vẻ, hấp dẫn, những lúc giận
hờn vu vơ càng làm tình bạn của các em gắn lại gần nhau hơn. Bốn nhân vật
đáng yêu trong câu chuyện như là bốn anh em “có phúc cùng hưởng có họa
cùng chịu”. “Chúng tơi chia sẻ với nhau từ niềm vui nhỏ đến nỗi buồn lớn lao

trong cuộc sống, từ lằn roi ba mẹ thường quất vô mơng cho đến kho báu vơ
giá sắp tìm được” [1, tr.144].
Cho tơi xin một vé đi tuổi thơ cịn đưa ra cách nhìn giữa thế giới trẻ con
và thế giới người lớn. Với cặp mắt hồn nhiên, trẻ em có cách nhìn nhận ngây
thơ và trong sáng hơn nhiều so với người lớn. Cách suy nghĩ của một người
khi nhỏ và khi lớn lên cũng có sự khác nhau: “thằng Hải cị hồn nhiên phóng
khống bao nhiêu thì ơng giám đốc Hải cị tính tốn và cố chấp bấy nhiêu .
Thằng Hải cị sẵn sàng làm gì nó muốn trong khi ơng giám đốc Hải cị chỉ
muốn làm những gì người khác muốn” [1, tr.91]. Nhưng có một đặc điểm trẻ
con và người lớn đều giống nhau đó là thích thay đổi và làm mới mình “sự
thay đổi của hồn cảnh dẫn đến sự thay đổi của cảm xúc” [1, tr.101]. Trẻ con
thích thay đổi những điều đã đi vào quy phạm đối với chúng để mong sao tìm

đươc niềm vui và sự thú vị. Cùng mong muốn làm mới mình nhưng trong
quan hệ giữa người lớn và trẻ con “thì người lớn cho phép mình làm những gì
mình thích, kể là những ý thích rất là vớ vẩn và cấm trẻ con làm tất cả những


13

gì họ khơng thích và sự cẩm cản của họ nhiều khi cũng vớ vẩn nốt”
[1, tr.102].
Qua thế giới nghệ thuật Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, bạn đọc nhận ra
rằng giữa người lớn và trẻ con có sự khác nhau căn bản là trẻ em không tiếp
nhận thế giới dưới khía cạnh sử dụng, ngược lại người lớn ln ln nhìn sự

vật dưới góc độ chức năng. Nếu người lớn định nghĩa: áo để mặc, ghế để
ngồi, răng để nhai, lưỡi để nếm… thì trẻ con lại cho sự vật bình thường những
chức năng khác mới mẻ hơn bằng sự trợ giúp của trí tưởng tượng phong phú.
Đối với con Tí sún, cái gối khơng cịn để gối đầu mà đã trở thành con búp bê
hay khóc nhè. Đối với Hải cị, cây chổi khơng phải để quét nhà mà có thể trở
thành thứ phá nát cửa kính nhà hàng xóm hay phương tiện để cưỡi lên, bay đi
như phù thủy... Hải cò và cu Mùi còn cho rằng “áo khơng chỉ dùng để mặc mà
cịn là thứ để nắm lấy khi tụi nó trìu níu để vật nhau xuống đất” . Trẻ con tin
trên đời này có kho báu thực bao gồm vàng và kim cương thì người lớn lại
định nghĩa kho báu chính là tri thức vơ giá, là chìa khóa mở ra cuộc sống.
Về tâm lý, Nguyễn Nhật Ánh phân tích và cho rằng “người lớn ln
cho rằng mình đứng về phía chân lý, nếu xảy ra một sai lầm nào đó thì phần

lỗi đương nhiên thuộc về trẻ con” [1, tr.157]. Đối với vấn đề tiền bạc, nhà văn
cũng chỉ ra được sự khác biệt giữa người lớn và trẻ con: kiếm được tiền mà
không phải ngửa tay xin bố mẹ là ước muốn của mọi đứa trẻ trên đời còn
người lớn lại thích xin xỏ. Mặc dù thừa tiền nhưng người lớn thích kì kèo xin
bằng được tấm vé mời kèm theo cái mặt khó chịu của người cho.
Đưa ra cái nhìn cuộc sống trong sự đối sánh giữa người lớn và trẻ con,
Nguyễn Nhật Ánh muốn gửi thông điệp đến người đọc: Người lớn cần có cái
nhìn đúng đắn hơn đối với trẻ em, phải luôn lắng nghe để thấu hiểu được các
em đang suy nghĩ và mong muốn điều gì “người lớn cần phải biết rằng trẻ
con cũng thường xuyên phán xét họ nghiêm khắc khơng kém gì họ phán xét



14

chúng. Điều đó sẽ giúp cho người lớn chú ý hơn đến cách sống của mình ”
[1, tr.208].
Như vậy Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ đã ghi lại một cách chân thực và
sinh động cuộc sống của một cậu bé tám tuổi. Ở đó, cu Mùi nhận được sự
quan tâm tận tình của cha, mẹ, sự chia sẻ của bạn bè. Tất cả như những hạt
bụi kim cương của thời gian mà Nguyễn Nhật Ánh đã gom lại để viết nên tác
phẩm này.
1.1.3. Trẻ em – “nhà cách mạng bé con”
Trẻ em ln ln khao khát có một thế giới riêng, thế giới mà ở đó
chúng được làm những gì chúng thích. Do đó mong muốn tạo ra một thế giới

theo ý thích của mình ln bùng cháy trong đầu bọn trẻ. Cuộc sống thực của
chúng càng bị gị bó, cấm kị bao nhiêu thì khát khao được tự do lại càng mãnh
liệt bấy nhiêu. Chán ngán với cuộc sống cũ kỹ buồn tẻ, cu Mùi, Hải cò, con
Tủn, con Tí sún đã tìm ra được lối thốt cho mình. Và chúng đã “nổi loạn”
với phương tiện là trí tưởng tượng phong phú của con trẻ. Những hành động
ngộ nghĩnh của trẻ em đã tạo cảm hứng cho nhà văn Nguyễn Nhật Ánh viết
nên cuộc cách mạng lớn lao của các em.
Sự mong muốn thay đổi đầu tiên mà cu Mùi và các bạn ra sức làm đó là
“cải cách bố mẹ”. Nếu như bố mẹ ở ngoài đời luôn luôn bắt trẻ con phải tuân
theo những quy phạm, phải ăn, học đúng giờ, không được đánh nhau, khơng
được xé vở thì bố mẹ trong mơ của chúng phải dạy con rằng: “Khơng học bài
làm bài gì hết! Con ngoan là phải chạy nhảy, trèo cây, tắm sông, đánh lộn!”

[1, tr.33]; “Đánh nhau mà không rách áo, trầy chân, bầm mặt mà cũng gọi là
đánh nhau hả?” [11, tr.35], rằng hai lần bốn là mấy cũng được nhưng không
phải là tám như bảng cửu chương. Cuộc sống cứ thế theo chúng mới là “đáng
sống làm sao!”. Trò chơi sắm vai này khiến em nào cũng háo hức, thú vị. Bởi
chỉ có trong những tình huống giả định ấy chúng mới được thỏa sức sống với


15

những ước mơ luôn thường trực, ngày nào cũng phải làm những việc chúng
chẳng thích là dậy sớm, ăn sáng, đi học, ngủ trưa, học bài,… thì cuộc sống sẽ
buồn tẻ vơ cùng. Với bất kỳ đứa trẻ nào thì khác đi một tí, dẫu chỉ là trong

tưởng tượng thơi cũng đã rất thú vị rồi. Lũ trẻ không thay đổi được quy luật
thì chúng bày ra cách chơi trị thay đổi thực tế. Vậy đó, chúng có một cơ chế
tự nhiên để tồn tại. Đó là khả năng sáng tạo và tưởng tượng, nổi loạn và “làm
cách mạng” để tạo ra giá trị riêng. Nhưng đóng vai là đóng vai cịn thực tế thì
vẫn là thực tế, trẻ con thì khơng thể tách mình ra khỏi vai diễn như người lớn.
Thằng cu Mùi lẫn thằng Hải cị, con Tí sún và con Tủn đều thất bại cay đắng
khi va phải hiện thực: “Tôi tập tành làm nhà cách mạng bé con, chán nản khi
không thay đổi được thế giới, đã thế còn làm vạ lây cho người khác”[1, tr.44].
Thất bại trong cuộc cách mạng đầu tiên, bốn đứa trẻ phải quay lại với
cuộc sống đơn điệu hàng ngày. Tuy nhiên, với tính hiếu động và trí tưởng
tượng diệu kì, cu Mùi đã nghĩ ra lối thoát cho cả bọn. Nó đã nghĩ ra trị chơi
đặt tên cho thế giới:“kể từ hơm nay, tụi mình khơng gọi con gà là con gà, con

chim là con chim, cuốn tập là cuốn tập, cây viết là cây viết nữa” [1, tr.49].
Cái trò chơi lạ thường này xuất phát từ ý định muốn khẳng định bản thân
“cần phải chứng tỏ tụi mình có giá trị riêng” [1, tr.53] và “mục đích hết sức
tốt đẹp là làm cho thế giới mới mẻ, tinh khôi như được sinh ra lần nữa” [1,
tr.55]. Và lũ trẻ thi nhau thả hồn vào trò chơi mặc cho sức tưởng tượng bay
bổng. Vậy là thế giới đã được bốn đứa trẻ biến đổi thật kì thú: con chó thành
cái bàn ủi, cái miệng thành cánh tay, đi ngủ thành đi chợ, chiếc cặp thành cái
giếng, thằng cu Mùi là thầy hiệu trưởng, thằng Hải cò là cảnh sát trưởng, con
Tủn là tiếp viên hàng khơng, con Tí sún là nàng Bạch Tuyết… Những ngày
tháng được chơi trò chơi này khiến bọn trẻ vơ cùng thích thú. Chúng đã xây
dựng được một thế giới bí hiểm mà ở đó chỉ có chúng mới hiểu được những
ki hiệu ngơn ngữ của chúng. Nhưng cái thế giới ấy chỉ tồn tại trong một thời



16

gian ngắn bởi ở trần gian này mọi thứ đã đâu vào đấy, đã được gắn với chức
năng thực dụng: “ly dùng để uống nước, chai dùng để chứa nước, chén là để
ăn cơm, thau là để đựng rau, đựng thịt cá” [1, tr.104]. Dẫu sao thì bọn trẻ cũng
đã thực sự được sống giữa cái thế giới được đặt tên lại mặc dù điều này chỉ diễn
ra trong một thời gian ngắn.

Tự khẳng định bản thân, quyết không làm theo những gì máy móc, tẻ
nhạt là tính cách của cu Mùi. “Tôi không phải là trái đất. Tôi là thằng cu Mùi.

Thằng cu Mùi không lái được trái đất theo ý mình nhưng có thể bắt cuộc sống
của nó đi theo cái cách mà nó chợt nghĩ ra” [1, tr.98]. Không làm được việc
lớn như cải cách bố mẹ hay đặt lại tên cho thế giới thì chúng làm những việc
nhỏ như “khi khát nước, tơi khơng thèm rót nước vơ ly nước. Tơi rót nước vơ
chai xá xị” [1, tr.98], hay thay vì ăn cơm trong chén, cu Mùi bèn đổ hết cơm
và thức ăn vào thau, dẫu rằng “trông tôi ăn cơm trong thau rất giống con heo
nhà tôi ăn cơm trong máng [1, tr.100]. Tuy nhiên, điều thích thú này của cu
Mùi và Hải cị chẳng diễn ra được lâu, chúng phải trả lại cho mọi vật chức
năng mà người lớn đã quy định cũng giống như đã buộc lòng phải trả lại tên
cho thế giới mà chúng đã thay đổi. Bi kịch của trẻ con là thế. Điểm yếu của
chúng là ở chỗ chúng chính là trẻ con. Trẻ con thì khơng thể sắp xếp lại trật tự
xã hội. Ước mơ của con trẻ là được người lớn thấu hiểu nhưng thực tế thì

chẳng bao giờ chúng được thỏa nguyện. Mong muốn của bọn trẻ chỉ có thể
xảy ra trong giả định. Và bọn thằng cu Mùi, Hải cị, con Tí sún và con Tủn đã
lập một phiên tịa vơ tiền khống hậu: phiên tịa trẻ con xử người lớn để được
nói hết, nói mọi thứ mà chúng ao ước người lớn sẽ nói và làm với chúng. Ở
phiên tịa ấy “chúng tơi cảm thấy đã lấy lại được sự công bằng, đã xả được
bao nhiêu là ấm ức, đã tưởng tượng ra được cảnh người lớn chân thành xin
lỗi trẻ con về bao nhiêu là khuyết điểm mà nếu trẻ con không vạch ra thì
người lớn khơng bao giờ nhận thấy. Hơm đó, chúng tôi như sống trong mơ –


17


một giấc mơ có lẽ mọi trẻ con trên trái đất đều ao ước” [1, tr.63]. Mọi đứa trẻ
đều sẽ lớn lên với giấc mơ ấy, giấc mơ về một cặp kính vạn hoa xoay chuyển
và biến đổi thế giới bằng con mắt tinh khơi nhất của mình.
Như vậy, mong muốn thường trực của con trẻ là được làm mọi việc
theo ý mình. Tuy nhiên, những việc làm của trẻ con rất khó được người lớn
chấp nhận. Dù đã cải cách nhưng nhà cách mạng bé con của chúng ta vẫn
không thể thay đổi được thế giới. Tất cả chỉ như những cuộc phiêu lưu mà
chúng đặt ra để tự làm mới cuộc sống của chính mình. Qua đó ta thấy ước
muốn được cảm thông và chia sẻ không chỉ của riêng thằng cu Mùi, Hải cị,
con Tủn, con Tí sún mà còn của rất nhiều trẻ em trên thế giới.
1.2. Cảm hứng về thế giới học đường
1.2.1. Những buổi học “đặt tên cho thế giới”

Với suy nghĩ như bao đứa trẻ cùng trang lứa, cu Mùi cho rằng tới lớp là
được thoát khỏi sự giám sát của bố mẹ. Tuy nhiên nó lại rơi vào sự giám sát
cũng khơng kém phần gắt gao của thầy cô. Bởi thế, để được tự do nghịch phá
trong lớp học, cu Mùi phải biết chọn vị trí thuận lợi để có thể “tha hồ tán gẫu,
cãi cọ, cấu véo hay giở đủ trò nghịch ngợm mà không sợ bị cô giáo phát
hiện” và “ít khi bị kêu lên bảng trả bài” [1, tr.17]. Cái vị trí đắc địa đó là ở
bàn chót. Đối với lứa tuổi bé, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh hiểu rằng các em rất
hiếu động, rất muốn vui chơi với bạn bè, chỉ có tới trường các em mới có điều
kiện để gặp nhau nhiều hơn và thực hiện mong muốn ấy. Do đó tâm lý chung
của các em là mong ngóng giờ ra chơi, cho nên ngày nào cũng như ngày nào,
cu Mùi “vừa xì xầm trị chuyện vừa cựa quậy lung tung và mong ngóng tiếng
chng ra chơi chết đi được” [1, tr.18]. Phải chăng trong quan niệm của

Nguyễn Nhật Ánh, ra chơi cũng là một giờ học lý thú của học sinh. Nó khơng
chỉ là thời gian để các em thư giãn sau những buổi học căng thẳng mà còn là
thời gian để các em tiếp xúc, giao lưu với bạn bè, từ đó bồi đắp cho các em


18

tình bạn thân thiết hơn. Đồng thời chơi cũng là tạo cho các em kĩ năng sống
hoạt bát nhanh nhẹn hơn. Có lẽ đây là điều khiến trẻ em yêu q Nguyễn
Nhật Ánh bởi ơng đã đưa ra cái nhìn đúng đắn, phù hợp với tâm lý của chúng.
Với các nhân vật của Nguyễn Nhật Ánh, việc học và chơi có thể bổ sung cho
nhau, học mà chơi, chơi mà học. Ngồi trong lớp học, cu Mùi thấy chẳng khác

nào bị “giam cầm”. Và cu Mùi chỉ là cu Mùi thật sự khi tiếng trống ra chơi
vang lên. Các em đã tận dụng những khoảnh khắc hiếm hoi ấy vào việc đá
bóng, bắn bi, nhưng thường xuyên nhất là những trò rượt đuổi đánh nhau hay
vật nhau xuống đất. Ra về cũng được cu Mùi cho là một giờ - giờ ra về. Tuy
nhiên giờ ra về không được cu Mùi đón đợi, mong ngóng như giờ ra chơi mà
thay vào đó là sự uể oải. Giờ ra về đánh dấu sự kết thúc của thời gian được tự
do. Từ đó đến khi đi ngủ, cu Mùi lại phải trở lại làm một đứa con ngoan, không
được nghịch phá. Với nó, đều đó thật tẻ nhạt biết bao.

Vốn là một đứa bé mất tâp trung, kể cả khi ngồi học ở nhà hoặc trên
lớp, cu Mùi cũng dễ “bị lãng đi bởi một chuyện gì đó, bất cứ là chuyện gì”.
Trí tưởng tượng phong phú khiến cu Mùi gặp khơng ít rắc rối. Khi học chữ O,

cu Mùi liên tưởng tới cái mũ của chú Nhiên, chữ Ơ lại khiến nó liên tưởng
đến chịm râu của ơng ngoại con Tí sún. Rồi cu Mùi lại nghĩ lung tung, liên
tưởng đủ mọi chuyện, đến khi cô giáo hỏi đây là chữ gì thì nó lại khơng trả lời
được. Một lần nữa chúng ta lại phải khẳng định rằng Nguyễn Nhật Ánh là
người cực kì am hiểu tâm lý trẻ em, bởi ở lứa tuổi của cu Mùi, trí tưởng tượng
ln ln được đánh thức. Do đó, chỉ cần xuất hiện một điều mới lạ, các em
cũng có thể liên tưởng đến những gì đã được biết. Tị mị, ham học hỏi và hay
liên tưởng là đặc điểm chung của trẻ em. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đưa ra
một trường hợp cụ thể để khắc họa sinh động hình ảnh của những cô cậu bé
hồn nhiên và hiếu động. “Căn bệnh” hay liên tưởng của cu Mùi có phần giống
với Rimbaud – tác giả bài thơ Những nguyên âm. “Rimbaud cũng từng bị óc



19

tưởng tượng của mình cầm tù: A đen, E trắng, I đỏ, O xanh” [1, tr.119].
Chính vì thế mà cu Mùi sau này đã cho rằng Rimbaud là thi sĩ lớn nhất và gần
gũi nhất trong mắt mình.
Cu Mùi ln luôn là đứa trẻ muốn thay đổi những điều cũ kĩ và thử sức
với những điều mới mẻ. Trong việc học cũng vậy, học giỏi hơn dường như
cũng là một phương thức nổi loạn của nó. Bằng quyết tâm của mình, cu Mùi
đã sưu tầm được hết điểm mười này đến điểm mười khác và nó bỗng trở nên
tỏa sáng trong mắt bố mẹ, thầy cô và nhất là“ngày ngày được bơi trong
những tiếng trầm trồ của tụi bạn”. Thế là những ngày tới trường của cu Mùi

khơng cịn chỉ là những cuộc cấu véo, đánh nhau nữa mà còn có cả sự ngưỡng
mộ của bạn bè. Cu Mùi đã bước lên đỉnh của sự vinh quang. Điều đó mang
đến cho nó một trải nghiệm mới cũng thú vị như một cuộc phiêu lưu.
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ đem lại cho người đọc những giờ phút
thú vị, những tiếng cười sảng khoái trước hành động và suy nghĩ non nớt của
con trẻ. Đến với những buổi học của cu Mùi ta thấy được sự hiếu động và tâm
lý chung của mọi đứa trẻ là ham chơi hơn ham học. Đối với chúng, mỗi buổi
đến trường là một điều thật thú vị bởi chúng không chỉ được tiếp thu kiến
thức mà cịn có thể cùng nhau vui chơi, chia sẻ những vui buồn và khám phá
bản thân mình.
1.2.2. Những suy tư “buồn ơi là sầu”
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là cái nhìn của tác giả - một người đã

trưởng thành - về thời thơ ấu của chính mình, do đó tác phẩm thể hiện cái
nhìn đan cài của người lớn và trẻ em. Độ lùi của thời gian dường như mang
lại cho ta cái nhìn khách quan và công bằng hơn đối với trẻ em. Ở thế giới của
sự hồn nhiên trong sáng, đôi khi các em được mặc sức suy nghĩ và hành động
theo sở thích của mình. Những ý nghĩ của tuổi thơ đôi lúc đã trở thành những


20

suy tư ngộ nghĩnh. Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ thể hiện cách nghĩ, cách nhìn
của cả trẻ em và người lớn với cuộc đời.
Nguyễn Nhật Ánh viết về đề tài trường lớp với một tấm lòng yêu

thương và thơng cảm sâu sắc với học sinh, vì thế, văn ơng như đi guốc trong
bụng học trị. Và Nguyễn Nhật Ánh đã đánh trúng vào tâm lý của các em “tơi
chẳng thích được giờ nào cả, từ giờ tốn, giờ tập viết đến giờ tập đọc, chính
tả. Tơi chỉ thích mỗi giờ ra chơi” [1, tr.18]. Nếu như mọi người gọi những
năm tháng ngồi trên ghế nhà trường là “mài đũng quần trên ghế nhà trường”
thì cu Mùi gọi thẳng là “bị giam cầm trong lớp học”. Có thể nói, Nguyễn
Nhật Ánh đã hiểu rất rõ suy nghĩ của trẻ em từ đó phản ánh vào trong tác
phẩm một cách hài hước, khơng gây khó chịu cho cả trẻ em và người lớn.
Trước những suy tư ngộ nghĩnh đó, có ai lại khơng bật lên tiếng cười sảng
khối. Cái tài của Nguyễn Nhật Ánh là ông đã phản ánh được những suy tư
của trẻ em dưới cái nhìn của trẻ em chứ khơng phải của người lớn, từ đó tránh
được sự áp đặt. Theo bản thân cu Mùi thì “ra về có nghĩa là rời khỏi một nhà

giam này đến một nhà giam khác, y như người ta chuyển trại cho tù nhân, có
gì hay ho đâu” [1, tr.19]. Đối với cu Mùi ở tuổi lên tám thì cuộc sống này quả
thật “buồn ơi là sầu” nếu như không có những trị chơi “điên điên” mà bọn trẻ
tự nghĩ ra để làm mới cuộc sống của chính mình.
Ngày cu Mùi chia tay con Tủn là lần đầu tiên cu Mùi biết buồn. Nói về
nỗi buồn, cu Mùi đã đưa ra suy nghĩ của mình: “Đơi khi chúng ta cũng cần có
nỗi buồn làm bạn, nhất là lúc cuộc sống bỗng dưng trống trải và cảm giác cô
độc đang xâm chiếm ta từng phút một” [1, tr.175]. Lời lẽ có vẻ già dặn người
lớn nhưng đó lại là tâm trạng rất thật của cu Mùi tám tuổi, hẳn là nó đang bị
cảm giác cô đơn xâm chiếm.
Nguyễn Nhật Ánh từng được gọi là “nhà văn nhìn đời bằng đơi mắt trẻ
thơ”, dù viết về đề tài nào, ông cũng luôn có một cách viết mới mẻ, hấp dẫn,



21

thu hút người đọc cả trẻ em lẫn người lớn. Những suy tư rất thật, rất trẻ con
của các em trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh góp phần làm nên nét trẻ
trung, đáng yêu trong cách viết của ông. Thể hiện suy nghĩ của lứa tuổi học
trò, Nguyễn Nhật Ánh có cái nhìn cảm thơng và u thương sâu sắc với các
em. Có lẽ vì thế mà những tác phẩm của ơng được độc giả nhí đón nhận nồng
nhiệt và hết sức yêu mến.
1.2.3. Những mảnh ghép rung động đầu đời
Xuyên suốt những tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh là nhân vật xưng

“tôi” lúc nghịch ngợm, ham chơi, quên học, khi lại có những rung động buồn
vui vơ cớ. Tuy nhiên, hầu hết các nhân vật đều đa cảm, yếu đuối, có tâm hồn
trong trẻo. Nói chung nhân vật trẻ em của Nguyễn Nhật Ánh phần lớn đều là
những cơ bé, cậu bé, mà theo cách nói của người lớn là duy cảm, duy tình,
chứ khơng duy lý. Đây là một đặc điểm tự nhiên trong tính cách trẻ thơ mà
nhà văn vốn am hiểu.
Có thể nói một phần của thế giới tuổi thơ là những tình cảm ngây thơ
trong sáng, những rung động chưa phải là tình yêu nhưng lại gây một sự thích
thú, một cảm giác mới lạ. Ở vào giai đoạn “không trọng lượng”, những ý
tưởng cảm xúc đều chưa rõ ràng, có rồi khơng, xuất hiện rồi tự xóa đi. Những
nhân vật ở lứa tuổi này thoắt buồn, thoắt vui, mong manh, dễ vỡ. Những rung
động ấy rồi cũng qua đi nhưng sức ám ảnh của kỷ niệm thì vẫn dai dẳng và

mãnh liệt. Nó làm con người trưởng thành, phong phú thêm lên. Và hơn tất
cả, ký ức về một thời yêu dấu đã qua sẽ còn theo các em đến cuối cuộc đời, sẽ
gìn giữ và ni dưỡng trong tâm hồn các em những tình cảm tốt đẹp, cao q.

Cho tơi xin một vé đi tuổi thơ viết về lứa tuổi nhỏ nên những rung cảm
của các em mới chỉ ở sự hồn nhiên ban đầu. Tuy nhiên tình cảm đó vẫn để lại
ấn tượng sâu đậm trong lòng các nhân vật cho tới khi trưởng thành. Trong trò
chơi vợ chồng, lý do cu Mùi cưới con Tí sún chẳng qua là vì con Tí sún lúc


22


nào cũng nghe lời nó. Một lý do rất ngây thơ khiến người đọc bật cười. Song
cu Mùi quyết không chọn con Tí sún làm vợ cho cuộc sống sau này chỉ vì
“con Tí sún chưa bao giờ nấu được một tơ mì ra hồn trong suốt cuộc đời
mình nếu như cuộc đời nó chỉ tính đến tuổi lên tám” [1, tr.66]. Đúng ra thì cu
Mùi thích con Tủn “vì con Tủn xinh gái nhất xóm, lại có lúm đồng tiền”.
Nhưng lên tám tuổi người ta cũng đã biết ghen, chỉ có điều họ khơng biết đó
gọi là ghen “tơi khơng cưới con Tủn bởi tơi thấy nó cứ hay cặp kè với thằng
Hải cị. Sau này tơi biết đó là cảm giác ghen tuông, tất nhiên là ghen tuông
theo kiểu trẻ con” [1, tr.31]. Cũng chính vì “ghen tng” mà cu Mùi “đùng
đùng cưới con Tí sún” và vơ tư bắt thằng Hải cò và con Tủn làm con.
“Chuyện tình” của cu Mùi và Tủn cịn được lãng mạn hóa bằng những
cuộc hẹn hị. Thấy chú Nhiên gửi tin nhắn mời cơ Linh đi chơi, cu Mùi cũng

học địi gửi tin nhắn rủ con Tủn đi hẹn hò “Chiều nay chúng ta đi dạo một
chút chăng? Buồn ơi là sầu”, “Chiều nay chúng ta lai rai một chút chăng?
Buồn ơi là sầu”. Và hai cuộc hẹn hò đầu tiên diễn ra suôn sẻ trong niềm vui
hớn hở của hai đứa trẻ. Tuy địa điểm hẹn hò “chỉ là loanh quanh sau hè nhà
hàng xóm rồi ra đứng cạnh ao rau muống bên hơng nhà thằng Hải cị nhìn
châu chấu nhảy tới nhảy lui, chốc chốc lại lấy tay vỗ vào đùi bem bép vì bị
muỗi chích” [1, tr.80] nhưng đối với chúng như vậy là đã là tất cả, rất thú vị
bởi những gì chúng làm “y như người lớn”. Cuộc hẹn hò thứ hai, cu Mùi đã
phải “ăn cắp tiền của mẹ để đãi con Tủn ăn chè đậu đỏ, bánh lọt” ở quán bà
Hai Đọt. Cu Mùi cho rằng: đời thế mới vui. Tuy nhiên, lần hen hò thứ ba đã
xảy ra sự cố, cu Mùi đã nhắn tin cho con Tủn “chiều nay chúng ta lên giường
một chút chăng? Buồn ơi là sầu”. Kết quả của cuộc hẹn là “chỉ mình tơi lên

giường, nằm sấp xuống cho ba tôi đét roi vào mông” [1, tr.82]. Trẻ con ln
muốn là người lớn và ln thích bắt chước người lớn. Chính điều này đã
khiến cu Mùi dùng những tin nhắn mà chú Nhiên gửi cho cô Linh để gửi cho


23

con Tủn. Hai lần hẹn hị thành cơng khiến cả hai đứa trẻ tỏ ra thích thú, dù sao
thì chúng cũng đã được hẹn hò như người lớn. Từ khi bị cấm không được sử
dụng điện thoại nữa, cu Mùi khơng được nhắn tin rủ con Tủn đi chơi, nó trở
nên “buồn quá nhiều chút”. Thế là kết thúc một chuyện hẹn hò.
Câu chuyện của cu Mùi và con Tủn cịn trở nên hấp dẫn hơn khi có sự

xuất hiện của Dung điệu. Thực sự cu Mùi “ln khoan khối khi bắt gặp tiếng
cười của con Dung điệu xen lẫn trong những tiếng xuýt xoa của tụi bạn” [1,
tr.125]. Và rồi cu Mùi lại có sự so sánh giữa con Tủn và con Dung điệu:
“Thực lịng mà nói tơi thích con Tủn hơn con Dung điệu. Giọng cười con Tủn
không hay bằng con Dung điệu nhưng nó hơn con Dung điệu ở chỗ nó có lúm
đồng tiền. Con gái mà có lúm đồng tiền trơng dun tệ” [1, tr.126]. Cu Mùi
thích con Tủn nhưng con Tủn lại hay “cặp kè” với Hải cị nên nó chán đời
khủng khiếp. Và cu Mùi đã ghen, nó muốn hẹn hị với con Dung điệu sao cho
chuyện đó diễn ra trước mắt con Tủn. Song điều đó chỉ là trong ý nghĩ bởi cu
Mùi chỉ thích nghe con Dung cười chứ khơng có hứng rủ nó đi chơi. Dù ở lứa
tuổi nào thì tình u cũng có mặt tích cực và tiêu cực của nó. Chỉ vì tức việc
con Tủn khơng chơi cùng lại suốt ngày cặp kè với Hải cò mà cu Mùi “đâm

chán”. Nó lại ghét học giỏi và trở nên lười nhác, ham chơi như cũ.

Kết thúc chuyện tình của cu Mùi và Tủn là cuộc chia tay trong quán
chè của bà Hai Đọt. Sự ra đi của con Tủn làm cu Mùi phải “chìm”, và đây là
lần đầu tiên cu Mùi biết buồn, “nỗi buồn đã rung chuông tâm hồn một chú bé
tám tuổi ngày tôi xa con Tủn” [1, tr.176]. Một cảm giác rất lạ chợt xâm chiếm
tâm hồn cậu bé tám tuổi. Nhìn con Tủn ăn chè mà cu Mùi muốn khóc. “Buổi
chia tay hơm đó chỉ gói gọn trong hai động tác ăn và khóc. Khơng ai nói với
ai được câu nào” [1, tr.177]. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời cu Mùi được
nếm trải nỗi buồn của sự chia ly. Trong cái hồn nhiên trong trẻo của trẻ thơ
giờ đây đã được điểm xuyết nỗi buồn của người lớn. Một người bạn với nhiều
kỉ niệm sẽ mãi mãi là một phần tuổi thơ trong lòng bọn trẻ.



24

Tình cảm mà cu Mùi dành cho con Tủn là những rung cảm đầu tiên thật
trong sáng. Nó khơng phải là thứ tình cảm với những suy nghĩ già dặn như
người lớn mà diễn ra thật tự nhiên. Nó cũng khơng trịn trịa, khơng được định
hình rõ ràng mà chỉ như những mảnh ghép nhỏ ghép thành một tình cảm khó
qn tuổi học trị. Tuy mờ ảo mơng lung, mong manh dễ vỡ nhưng những
rung động này sẽ còn đọng lại trong lòng các em dù cuộc đời mai này có thay
đổi. Lấy cảm hứng từ “mối tình” của cu Mùi và con Tủn, Nguyễn Nhật Ánh
đã chinh phục được bạn đọc ở lứa tuổi mới lớn bởi những suy nghĩ và hành

động ngộ nghĩnh, đáng yêu.


25

Chương 2.
KHÔNG GIAN, THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG CHO TÔI XIN MỘT VÉ ĐI TUỔI THƠ

Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là hai khái niệm của Thi
pháp học hiện đại. Không gian và thời gian trong sáng tác của Nguyễn Nhật
Ánh cũng như mọi hiện tượng của thế giới khách quan khi đi vào nghệ thuật

được soi rọi bằng tư tưởng tình cảm, được nhào nặn và tái tạo trở thành một
hiện tượng nghệ thuật độc đáo thấm đẫm cá tính sáng tạo của nhà văn. Cảm
quan về khơng gian và thời gian gắn liền với cảm quan về con người và cuộc
đời, gắn bó với ước mơ và lý tưởng của nhà văn.
2.1. Không gian nghệ thuật
Không gian trong văn học là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật vì
khơng có hình tượng nghệ thuật nào khơng có một nền cảnh của nó. Khơng
gian nghệ thuật là hình tượng khơng gian có tính chủ quan và tượng trưng, là
sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một
quan niệm nhất định về cuộc sống. Nó biểu hiện mơ hình thế giới của con
người, là quan niệm về trật tự thế giới và sự lựa chọn của con người. Không
gian nghệ thuật không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học,

các ngơn ngữ tượng trưng, mà cịn cho thấy những quan niệm về thế giới,
chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở
khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các
hình tượng nghệ thuật. Vì vậy khơng thể tách hình tượng ra khỏi khơng gian
mà nó tồn tại. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “Khơng gian nghệ thuật là
hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó.
Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm
nhìn diễn ra trong trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể,
cảm tính bộc lộ tồn bộ quảng tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục,



×