Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Luận văn: THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.04 KB, 124 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
O0O



DƯƠNG THỊ XUÂN






THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG


CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 60. 22. 34




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN


Người hướng dẫn khoa học: TS. Đào Thuỷ Nguyên











Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN!

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến TS. Đào Thủy Nguyên
đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian
làm luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình thầy giáo Vi Hồng, các thầy cô
giáo khoa Ngữ Văn, cùng gia đình, bạn bè người thân đã tạo điều kiện
giúp tôi hoàn thành luận văn này.

Thái Nguyên, ngày 10 tháng 10 năm 2009

Dương Thị Xuân



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC


NỘI DUNG
TRANG
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1
2. Lịch sử vấn đề
2
3. Giới thuyết về thế giới nghệ thuật
8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
9
5. Mục đích nghiên cứu
9
6. Phương pháp nghiên cứu
9
7. Cấu trúc luận văn
10
NỘI DUNG

Chương 1: Cảm hứng nghệ thuật gắn với thế giới nhân vật trong tiểu
thuyết của Vi Hồng
11
1.1. Khái niệm cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật.
11
1.2. Cảm hứng nghệ thuật gắn với thế giới nhân vật trong tiểu thuyết
của Vi Hồng
13
1.2.1. Cảm hứng ngợi ca gắn với những con người đẹp đẽ
14

1.2.1.1. Ca ngợi những con người có vẻ đẹp lí tưởng về hình thể.
14
1.2.1.2. Ca ngợi những con người bình thường có tấm lòng nhân
hậu, vị tha.
17
1.2.1.3. Ca ngợi những người trí thức có trí tuệ toả sáng
21
1.2.2. Cảm hứng cảm thương gắn với những con người bất hạnh
26
1.2.2.1. Cảm thương cho con người bị những hủ tục phong kiến xưa
vùi dập, đoạ đầy
26
1.2.2.2. Cảm thương cho những con người bất hạnh trước tội ác dã
man tàn bạo của bọn thống trị miền núi
32
1.2.3. Cảm hứng châm biếm, mỉa mai những con người vô học tối tăm
và lên án phê phán, những con người xảo trá, tàn bạo
35
1.2.3.1. Cảm hứng châm biếm mỉa mai những con người vô học tối tăm
35
1.2.3.2. Cảm hứng phê phán, lên án những người có chức, có quyền
bất tài, tráo trở, độc ác, vô nhân tính
39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chương 2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng.
2.1. Khái niệm không gian nghệ thuật.
46
46
2.2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng
48

2.2.1. Không gian bối cảnh.
48
2.2.1.1. Bối cảnh thiên nhiên.
48
2.2.1.2. Bối cảnh xã hội.
61
2.2.2. Không gian sự kiện.
76
2.2.3. Không gian tâm lí.
80
Chương 3. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng.
85
3.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật.
85
3.2. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng.
86
3.2.1. Thời gian sự kiện.
86
3.2.1.1. Thời gian sự kiện lịch sử.
86
3.2.1.2. Thời gian sự kiện đời tư.
91
3.2.2. Thời gian tâm lí.
99
3.2.2.1. Thời gian hiện tại.
100
3.2.2.2. Thời gian quá khứ.
103
3.2.2.3. Thời gian tương lai.
107

3.2.2.4. Thời gian đồng hiện.
110
3.2.3. Mối quan hệ giữa thời gian và không gian nghệ thuật.
111
KẾT LUẬN
115
TÀI LIỆU THAM KHẢO
120



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài.
1.1. Vi Hồng là một cái tên được nhiều người biết đến trong đội ngũ nhà
văn là người dân tộc thiểu số Việt Nam. Trong hành trình lao động nghệ thuật gần
40 năm, ông có số lượng sáng tác khá đồ sộ: 15 cuốn tiểu thuyết, 8 truyện ngắn, 6
tập sưu tầm truyện cổ Tày, Nùng và các công trình nghiên cứu về Sli lượn, khảm
hải, dân ca nghi lễ trong đó, có nhiều tác phẩm dành được nhiều giải thưởng có
giá trị. Ông trở thành một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi các dân
tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, để lại dấu ấn sâu sắc và một tình cảm nồng thắm
nơi trái tim người đọc.
1.2. Vi Hồng sáng tạo trên nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu
thuyết, truyện viết cho thiếu nhi, các công trình nghiên cứu Sli lượn, Khảm hải
Ở thể loại nào nhà văn cũng thể hiện tài năng và một phong cách riêng rất rõ rệt.
Tuy nhiên, thể loại tiểu thuyết là nơi mà ông tập trung nhiều tâm huyết và tinh lực
nhất. Nhiều nhà nghiên cứu đã có những nhận xét khẳng định sự thành công của
ông ở thể loại này. Yếu tố quan trọng làm nên sự thành công ấy chính là thế giới
nghệ thuật. Vì vậy, tìm hiểu thế giới nghệ thuật là một việc làm không thể thiếu

khi nghiên cứu sáng tác của Vi Hồng ở thể loại tiểu thuyết.
1.3. Là một sinh viên đã được nhà giáo Vi Hồng giảng dạy trong những
năm học ở trường Đại học Sư phạm Việt Bắc, người viết ước vọng qua những
trang nghiên cứu này giúp người đọc hiểu hơn về con người, về cuộc đời, đặc biệt
là tài năng của Thầy - một nhà văn dân tộc thiểu số tiêu biểu. Qua đó, góp phần
khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại.
Từ những lí do trên chúng tôi chọn đề tài: Thế giới nghệ thuật trong tiểu
thuyết của Vi Hồng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2. Lịch sử vấn đề.
Vi Hồng là nhà văn tiêu biểu, đã có những đóng góp không nhỏ vào nền
văn học Việt Nam hiện đại nói chung và nền văn học dân tộc thiểu số nói riêng.
Năm 26 tuổi (1959), ông được trao giải nhì, giải thưởng của Tổng hội Sinh viên
Việt Nam với truyện ngắn Ngôi sao đỏ trên đỉnh núi Phja Hoàng. Ba năm sau
(1962), ông lại vinh dự nhận một giải nhì nữa của báo “Người giáo viên nhân
dân” với truyện ngắn Cây su su noọng ỷ. Có thể nói tên tuổi của ông đã được
nhiều người biết đến và trở nên quen thuộc với bạn đọc cả nước từ những năm 70
của thế kỷ trước.
Đã có một số công trình nghiên cứu về thành tựu sáng tác của Vi Hồng
trong thành tựu chung của văn học dân tộc thiểu số: bài Nhìn lại Văn học Tày
của Dương Thuấn Bài “Văn xuôi” trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại [190], và “Một mảng văn học đặc sắc” trong cuốn Văn học và
miền núi [103] của tác giả Lâm Tiến
Một số công trình nghiên cứu về toàn bộ sáng tác của Vi Hồng như bài: “Vi
Hồng” của Hoàng Thi trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (nhiều
tác giả) [146], Kỉ yếu hội thảo về nhà văn Vi Hồng của Hội văn học nghệ thuật
Thái Nguyên, đề tài nghiên cứu cấp Bộ của Phạm Mạnh Hùng đã đi sâu Tìm hiểu

sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vi Hồng
Một số bài viết về các tác phẩm cụ thể như: “Người trong ống của Vi
Hồng” (Nguyễn Long) [14, 58], “Tiểu thuyết Gã ngược đời của Vi
Hồng”(Tú Anh) [14,63], “Lòng dạ đàn bà - Tiểu thuyết của Vi Hồng”
(Thuý Anh) [14, 66]
Một số công trình đã đi vào nghiên cứu một số phương diện cụ thể trong
tiểu thuyết của Vi Hồng như: “Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết của
Vi Hồng” (Trần Thị Đoàn – Nguyễn Thị Thu Hà) [14, 19], “Giọng điệu trần
thuật trong một số tiểu thuyết của Vi Hồng” (Ngô Thu Thuỷ) [14, 41], “Bản sắc
dân tộc qua ngôn ngữ trong Đất bằng của Vi Hồng” (Nguyễn Thị Thu Hằng)
[14, 53], “Bản sắc dân gian trong tiểu thuyết của Vi Hồng” (luận văn tốt nghiệp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
của Đỗ Thuỳ Liên 2007), “Tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng” (Luận
văn thạc sĩ của Hoàng văn Huyên 2003), “Tính dân tộc trong tiểu thuyết Tháng
năm biết nói, Chồng thật vợ giả, Núi cỏ yêu thương của Vi Hồng” (Luận văn tốt
nghiệp Đại học của Nông Thị Quỳnh Trâm 2004), “Đặc điểm ngôn ngữ trong
tiểu thuyết của Vi Hồng” (Luận văn tốt nghiệp Đại học của Nguyễn Thị Thu
Hương 2008), “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng” (Luận văn
thạc sĩ của Ma Thị Ngọc Bích 2004), “Chất thơ trong tiểu thuyết của Vi Hồng”
(Vũ Minh Tú - Đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên 2009)
Nhìn chung ở những công trình trên, các nhà nghiên cứu đã có những đánh
giá về những thành công và hạn chế trong sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng. Tác
giả Hoàng Thi trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam khẳng định
thành tựu sáng tác của Vi Hồng chủ yếu tập trung ở thể loại tiểu thuyết: “Nói
chung mặc dù ông rất tâm huyết với thơ và cả kịch nữa, nhưng ông vẫn chưa đạt
được kết quả như ý muốn. Chỉ khi đến với truyện ngắn đặc biệt là thể loại tiểu
thuyết thì nhà văn mới phát huy được hết những tiềm năng của mình, ông mới
thực sự được chú ý và chiếm được tình cảm nơi trái tim người đọc” [115,148].
Dương Thuấn trong bài “Nhìn lại văn học dân tộc Tày” (Tạp chí nghiên
cứu Văn học số 5 – 2006) đánh giá: Vi Hồng là “Tác giả đáng chú ý nhất trong

nền văn học thiểu số Việt Nam hiện đại”
Nhà phê bình Lâm Tiến trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại (Nxb Văn hoá dân tộc – 1995) và cuốn Văn học và miền núi - phê
bình và tiểu luận (Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc – 2002) đã có cái nhìn khái quát
về toàn bộ tiến trình phát triển của nền văn học thiểu số Việt Nam hiện đại và có
những nghiên cứu khá sâu về các tác giả tiêu biểu, trong đó có nhà văn Vi Hồng.
Lâm Tiến khẳng định những trang viết của Vi Hồng đã góp phần làm nên những
hạt mầm cho nền văn học vẫn còn hết sức non trẻ.
Năm 2006, Hội Văn học nghệ thuật Thái Nguyên đã tổ chức Hội thảo về
nhà văn Vi Hồng và cuốn Kỉ yếu hội thảo về nhà văn Vi Hồng đã ra đời. Cuốn
sách này, có rất nhiều tác giả là những người bạn, là đồng nghiệp, là học trò, là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
con của nhà văn… mỗi người góp thêm một tiếng nói để lưu giữ cuộc đời cũng
như tài năng của một nhà giáo, một nhà văn đầy tâm huyết và giầu lòng yêu
thương con người.
Đọc bản thảo Đất bằng của Vi Hồng, nhà văn Nguyên Ngọc có nhận xét
về nghệ thuật viết tiểu thuyết của Vi Hồng - nghệ thuật mang mầu sắc dân tộc rất
riêng: “Cách viết của anh rất khác cách viết tiểu thuyết của ta - ít ra là của tôi
Riêng tôi, tôi hết sức chú ý và muốn suy nghĩ nhiều về cách viết của Vi Hồng, của
YĐiêng Cách viết bao gồm từ cách hình dung về nhân vật, xây dựng nhân vật,
cách kể chuyện, dẫn dắt cốt truyện, lựa chọn cốt truyện, lựa chọn tình tiết ”(Báo
nhân dân ngày 19/4/1980).
Về cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi
Hồng, nhà phê bình Lâm Tiến khẳng định: “Thành công lớn nhất trong tiểu
thuyết của Vi Hồng là viết về những kỉ niệm, những mảng cuộc sống mà ông
đã từng trải… Đó là những mối tình đẹp đẽ của người lao động. Vi Hồng đã
biết kết hợp trong tác phẩm của mình giữa cuộc sống và chiến đấu, lao động
sản xuất và tình yêu. Nhà văn làm cho chúng ta yêu mến thiết tha những nhân
vật đó.” [14, 17].
Nhận xét về nhân vật trong sáng tác của Vi Hồng, Hoàng Thi viết: “phải

tha thiết yêu quê hương làng bản, yêu những con người cụ thể của dân tộc, Vi
Hồng mới thành công như vậy khi xây dựng nhân vật của mình. Đó chính là
những con người quê hương anh Họ đều là những người nói tiếng nói của quê
hương, tiếng nói giầu hình ảnh, nhạc điệu của người Tày, người Dao. Có độc giả
người dân tộc thiểu số nào ở Việt Bắc khi đọc Vi Hồng lại không cảm thấy mình
đang sống lại, đang trở về với cội nguồn của mình” [15, 149]. Hoàng Thi đã đánh
giá cao sự thành công của Vi Hồng khi xây dựng nhân vật. Dường như toàn bộ
đối tượng sáng tác của ông đều là những con người miền núi. Họ mang những nét
tiêu biểu nhất của những con người nơi họ sinh ra và lớn lên. Chính vì vậy mỗi
người, nhất là những người dân tộc, khi đọc tiểu thuyết của Vi Hồng đều có thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tìm thấy mình và cuộc sống của mình. Điều đó làm nên nét riêng khó lẫn trong
sáng tác của Vi Hồng.
Nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng đa dạng, phong phú, và thường
được khám phá ở hai bình diện đối lập, đó là nhận định của nhà giáo Cao Xuân
Thử:“ Vi Hồng đã bước đầu nhận ra, nhìn thấy khá rõ hai phương diện khác
nhau, trái nhau, đối lập nhau ở một con người”. Và khi nhận thấy điều đó thì:
“Nhà văn thừa nhận sự tồn tại của cái xấu, cái ác, cái chưa hoàn thiện trong con
người, nhà văn trình bày nó để nó tồn tại như là sự tất yếu cùng với cái tốt và cái
thiện” [14, 88].
Đọc tiểu thuyết của Vi Hồng, Hồ Thuỷ Giang phát hiện ra rằng: “Vi Hồng
ít đề cập đến sự phức tạp về tâm lí. Anh nghiêng về khắc hoạ những nét đẹp
hoang sơ và thuần khiết của tâm hồn” [14, 81]. Lâm Tiến cũng nhận định: “Nhân
vật của ông thường có sự thống nhất giữa ngoại hình và tính cách… đã đẹp nết
thì đẹp người và ngược lại. Đó là kiểu mô típ quen thuộc trong văn học dân gian”
[8, 103].
Khi tìm hiểu “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng”, tác giả
Ma Thị Ngọc Bích đã phân loại nhân vật từ góc độ loại hình nghề nghiệp xã hội:
đó là nhân vật trí thức và nhân vật người lao động. Từ cách phân loại đó, tác giả
của luận văn đã khái quát toàn bộ thế giới nhân vật, từ tầng lớp trí thức đến những

người lao động bình thường, từ những con người đẹp đẽ đến những con người
xấu xa, tầm thường tạo thành một thế giới nhân vật hết sức phong phú, đa dạng.
Về không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng, nhìn chung các
nhà nghiên cứu chú ý đến không gian bối cảnh thiên nhiên. Lâm Tiến nhận ra
mầu sắc miền núi đậm nét trong không gian bối cảnh thiên nhiên: “Thiên nhiên
trong tác phẩm của ông rực rỡ sắc mầu, rộn rã âm thanh, ngạt ngào hương vị
như mang cả hơi thở cuộc sống, tâm hồn của người miền núi” [14, 17]. Cũng
chung cảm nhận ấy nhà văn Hồ Thuỷ Giang phát hiện thêm một không gian
huyền thoại: “Trong tiểu thuyết của Vi Hồng mọi cảnh sắc thiên nhiên từ mỏm đồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đến con suối, từ nẻo đường rừng đến bờ vực sâu, từ ánh trăng đến tảng đá núi
đều hiện lên lung linh như huyền thoại” [14, 81].
Vũ Minh Tú trong Chất thơ trong tiểu thuyết của Vi Hồng (Đề tài nghiên
cứu khoa học của sinh viên năm 2009) lại phát hiện ra một không gian thơ mộng,
tràn ngập chất thơ. Chất thơ ấy được toát ra từ thiên nhiên, con người và cuộc
sống miền núi. Qua việc khảo sát chất thơ trong tiểu thuyết của Vi Hồng, tác giả
khẳng định: “Trong tiểu thuyết của ông, chất thơ của hồn núi rừng, làng bản cứ
tuôn chảy lấp lánh, dạt dào từ ngòi bút có nghề” [41].
Khác với các nhà nghiên cứu trên, Hoàng Thi lại thấy: “Vi Hồng đã dẫn
dắt người đọc trở về quê hương miền núi, về với bản làng mình sau những ngày
đi xa, những cảnh vật quen thuộc (một cánh đồng, một dòng suối, một cây mận
đang ra hoa…) một tiếng “úp lều” trâu húc nhau cùng với những con người xiết
bao gần gũi mến yêu với những kỉ niệm êm đẹp từ thủa ấu thơ đến những ngày
khôn lớn… Tất cả như đồng hiện kéo ta trở về cội nguồn” [15, 148]. Như vậy,
theo Hoàng Thi không gian trong tiểu thuyết của Vi Hồng lại vô cùng quen thuộc,
mộc mạc mà gần gũi thân thương đối với mỗi con người. Đó chính là cội nguồn
nơi ta sinh ra và lớn lên.
Về bối cảnh xã hội trong sáng tác của Vi Hồng, cũng có một số nhận xét
thật xác đáng. Nhà giáo Cao Xuân Thử đã nhận thấy: “Vi Hồng là người am hiểu
văn hoá Tày, anh say đắm Si lượn. Anh hiểu cặn kẽ phong tục, tập quán, lề thói,

tập tục đến lễ hội, đến cái ăn, cái uống, sự mặc, việc dựng nhà cửa nghĩa là tất
cả nề nếp sinh hoạt của đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc anh. Đặc biệt
anh cảm nhận thấu đáo, cảm nhận được cái tinh tuý, minh triết trong sự lựa chọn
và ứng xử của mỗi con người trong đời sống cá nhân, đời sống xã hội, đời sống
cộng đồng Tày”. [14, 85].
Trong bài Cách viết tiểu thuyết của nhà văn Vi Hồng, Lâm Tiến khẳng
định: “Vi Hồng cũng thành công trong việc viết về những phong tục, tập quán của
dân tộc Tày. Những ngày hội mùa thật náo nhiệt trong Núi cỏ yêu thương, đám
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ma của Ké Xanh trong Đất bằng, đêm khẩu tảo, đêm mở đầu của đám ma thật
bận rộn cùng với lời nguyền mang độc địa của già Xanh ” [14, 18].
Hoàng văn Huyên trong đề tài Tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng
– luận văn Thạc sĩ khoa học năm 2003 cũng đã khái quát được bối cảnh thiên
nhiên, bối cảnh xã hội. Tác giả khẳng định: “cả không gian, thời gian, sắc mầu
của tự nhiên, con người và cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm luôn đậm đà
bản sắc các dân tộc miền núi Việt Bắc” [78].
Về thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng, Lâm tiến có nhận
xét thật sâu sắc: “Truyện thường phát triển theo mạch đi lên của thời gian. Nếu
đảo lộn thì cũng chỉ là những đảo lộn đơn giản” .
Trong bài Cốt truyện trong văn xuôi các dân tộc miền núi, tác giả phạm
Duy Nghĩa nhận định: “Xét theo tiêu chí thời gian, loại cốt truyện phổ biến nhất ở
mảng văn xuôi dân tộc thiểu số là cốt truyện tuyến tính (tự sự theo mạch thẳng
thời gian, duy trì theo quan hệ nhân quả)” [21, 54]. Theo ông thì việc trần thuật
theo thời gian tuyến tính có tác dụng là để cho độc giả miền núi dễ nắm bắt nội
dung ý nghĩa của truyện, song sự so le giữa diễn biến cốt truyện với sự trần thuật
đã bị bỏ phí. Từ những điểm chung đó người viết nhận ra điểm khác biệt trong
cách viết của Vi Hồng: “Vi Hồng có ý thức sớm về điều này nên ở tiểu thuyết Vãi
Đàng đã đảo lộn ở một số thời gian nhất định” [21, 54]. Phạm duy Nghĩa khẳng
định sự đổi mới trong cách xử lí thời gian: “Sự xử lí thời gian như một phương
tiện nghệ thuật mới trở nên linh hoạt và thường xuyên hơn, quan hệ của các tuyến

nhân vật cũng chồng chéo, phức tạp hơn” [21, 55].
Có thể nói vẫn còn rất ít những nhận xét về thời gian nghệ thuật trong sáng
tác của Vi Hồng. Nghiên cứu về không gian và thời gian nghệ thuật thì hầu như
chưa có một công trình nào chuyên biệt.
Như vậy có thể thấy các yếu tố làm nên thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết
của Vi Hồng đã được quan tâm ở một mức độ nhất định. Nhưng các ý kiến mới
chỉ là những nhận định có tính khái quát, chung chung, chưa có một cái nhìn tổng
thể, có tính hệ thống về toàn bộ thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Thực tế đó đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài: Thế giới nghệ thuật trong tiểu
thuyết của Vi Hồng.
3. Giới thuyết về thế giới nghệ thuật.
Nhà văn Seđrin đã nói: “Tác phẩm văn học là một vũ trụ thu nhỏ, mỗi sản
phẩm nghệ thuật là một thế giới khép kín trong bản thân nó”. Như vậy, một tác
phẩm toàn vẹn phải xuất hiện như một thế giới nghệ thuật. Bêlinxki cũng đã từng
nhận xét: “Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế giới riêng mà khi đi vào đó
thì ta buộc phải sống theo các quy luật của nó, hít thở không khí của nó”.
Từ những nhận xét trên ta có thể hiểu thế giới nghệ thuật là sản phẩm sáng
tạo của người nghệ sĩ. Nó là kiểu tồn tại đặc thù vừa trong chất liệu, vừa trong
cảm nhận của người thưởng thức, vừa là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức
trong chỉnh thể thẩm mỹ của tác phẩm.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì thế giới nghệ thuật là: “khái niệm chỉ
tính chỉnh thể của sáng tạo nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm,
sáng tác của một tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng
sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được tạo ra theo các nguyên tắc tư
tưởng và nghệ thuật (…). Khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính
độc đáo về tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ ” [16, 251].
Thế giới nghệ thuật có tính độc lập tương đối so với thế giới tự nhiên hay
thực tại xã hội. Đó chính là sự thừa nhận quyền sáng tạo của người nghệ sĩ.
Người nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm văn học không phải là sự sao chép, lệ thuộc

máy móc vào thực tại bên ngoài, mà: “ là một thế giới riêng được sáng tạo theo
các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của
con người, mặc dù nó phản ánh thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật có không gian,
thời gian riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo
đức, thang bậc giá trị riêng chỉ xuất hiện một cách ước lệ trong sáng tạo nghệ
thuật” [16, 251].
Như vậy thế giới nghệ thuật phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, vũ trụ
quan và cách cắt nghĩa đời sống rất riêng của chủ thể sáng tạo. Mỗi tác phẩm lớn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tác giả lớn đều có thế giới nghệ thuật riêng của mình thể hiện tính độc đáo trong
tư duy và phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Cách hiểu trên đây về thế giới nghệ thuật là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu và
nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong toàn bộ tiểu thuyết của Vi Hồng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là toàn bộ tiểu thuyết của Vi Hồng gồm 15
cuốn: "Đất bằng"(1980), "Núi cỏ yêu thương", (1984), “Thung lũng đá rơi”
(1985), “Vào hang” (1990), "Người trong ống”, “Gã ngược đời"(1990), “Ái tình
và kẻ hành khất” (1990), "Lòng dạ đàn bà" (1992), "Dòng sông nước mắt"
(1993), “Tháng năm biết nói “(1993), “Phụ tình” (1994), "Chồng thật vợ
giả"(1994), “Đi tìm giầu sang” (1995), “Đoạ đầy” (1997), “Mùa hoa Bioóc
loỏng” (1997).
Tuy nhiên, khi nghiên cứu chúng tôi tập trung chú ý vào những tác phẩm
tiêu biểu nhất của Vi Hồng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Luận văn không đi sâu vào nghiên cứu tất cả những vấn đề thi pháp mà chỉ
tập trung vào một số phương diện cơ bản trong thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết
Vi Hồng. Đó là: Cảm hứng nghệ thuật gắn với thế giới nhân vật, thời gian nghệ
thuật và không gian nghệ thuật.
5. Mục đích nghiên cứu.

Nghiên cứu một số vấn đề thi pháp trong tiểu thuyết của Vi Hồng, chúng
tôi nhằm mục đích làm rõ hơn những nét riêng trong thế giới nghệ thuật của tiểu
thuyết Vi Hồng. Từ đó, có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về những đóng góp
của Vi Hồng trong nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi sử dụng những phương pháp
cơ bản sau:
- Phương pháp thống kê, khảo sát.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp khái quát, tổng hợp.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh.
- Phương pháp nghiên cứu tác giả văn học.
- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
7. Cấu trúc luận văn.
Luận văn gồm 3 phần: phần Mở đầu, phần Nội dung và phần Kết luận.
Trong phần nội dung gồm có 3 chương:
Chương 1: Cảm hứng nghệ thuật gắn với thế giới nhân vật trong tiểu thuyết
của Vi Hồng.
Chương 2: Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng.
Chương 3: Thời gian nghệ thuật nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng.


















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
NỘI DUNG
Chương 1
CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT GẮN VỚI THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG

1.1. Khái niệm cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật
Nghệ thuật là một phương tiện nhận thức thực tại. Đối tượng nhận thức của
sáng tạo nghệ thuật không phải là những điều đã được nhìn thấy một cách thờ ơ
mà là những xúc cảm được khắc sâu trong trái tim. Muốn thế, người nghệ sĩ phải
có những tình cảm thật tha thiết, mãnh liệt với cuộc đời. Từ những xúc cảm ấy sẽ
tạo thành những ấn tượng trực tiếp. Những tình cảm như: căm giận, buồn vui
sẽ chiếm lĩnh toàn bộ con người anh ta và thế là tư tưởng của nhà văn xuất
hiện. Những biểu hiện tình cảm, tâm hồn của người nghệ sĩ được gợi lên từ
những hiện tượng xã hội, được nhà văn phản ánh trong tác phẩm tạo thành nội
dung cảm hứng của tác phẩm. Trong sáng tác nghệ thuật, cảm hứng được biểu
hiện ở mọi biến thể, nhưng tất cả đều là sự ý thức về mặt tư tưởng và sự đánh
giá về mặt cảm xúc.
Có thể nói: "Cảm hứng nghệ thuật là một tình cảm mạnh mẽ, mang tư
tưởng và là một ham muốn tích cực đưa đến hành động, là niềm say mê khẳng
định chân lí, lí tưởng, phủ định sự giả dối và mọi hình tượng xấu xa tiêu cực, là
thái độ ngợi ca đồng tình với nhân vật chính diện, là sự phê phán tố cáo thế lực

đen tối, các hiện tượng tầm thường" [25, 43].
Như vậy cảm hứng nghệ thuật là một phương diện đặc thù của tác phẩm
văn học, bao gồm trong nó cả hai mặt chủ quan và khách quan. Nó xuất phát từ
nhu cầu nội tại bên trong của người nghệ sĩ trước hiện thực khách quan. Cảm
hứng phải là một trạng thái tình cảm sâu sắc mãnh liệt thể hiện tư tưởng của nhà
văn trong sự chiếm lĩnh và khám phá bản chất cuộc sống.
Các nhà nghiên cứu cho rằng : Cảm hứng nghệ thuật có thể có những biến
thể khác nhau như cảm hứng cảm thương, cảm hứng ngợi ca, cảm hứng hài hước,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
châm biếm Các biến thể ấy vừa mang những đặc trưng riêng, đồng thời cũng có
những mối quan hệ bổ sung và tương hỗ lẫn nhau. Trong từng tác phẩm, cảm
hứng này có thể trở thành một phương diện của cảm hứng kia.
Cảm hứng nghệ thuật là một tình cảm xã hội được ý thức, nó đem đến cho
tác phẩm một không khí cảm xúc nhất định, tác động mạnh mẽ đến người đọc.
Cảm hứng nghệ thuật thống nhất tất cả các cấp độ và yếu tố nội dung cũng như
hình thức của tác phẩm như: cốt truyện, kết cấu, xung đột, nhân vật, giọng điệu,
ngôn ngữ trong đó nhân vật là nơi biểu hiện rõ nhất và trọn vẹn nhất cảm hứng
nghệ thuật của nhà văn.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Nhân vật văn học là con người cụ thể
được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng như
(Tấm Cám, chị Dậu, anh Pha) cũng có thể không có tên riêng như “thằng bán
tơ”, “một mụ nào” trong Truyện Kiều” [202]
Trong tất cả các thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, thậm chí cả thơ
đều có nhân vật, đặc biệt với thể loại tiểu thuyết thì càng không thể thiếu nhân
vật. “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực ở tất
cả mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của
nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện
sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [16, 277].
Giữa cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong sáng tác của một nhà
văn thường có mối quan hệ gắn kết mang tính hô ứng, tương giao. Cảm hứng nào

thì nhân vật ấy, và ngược lại. Mỗi nhân vật luôn gắn với một cảm hứng và một
phương diện nào đó của cảm hứng nghệ thuật. Tìm hiểu sự thể hiện con người
trong văn học thông qua thế giới nhân vật, trong mối quan hệ phù hợp và hô ứng
với cảm hứng nghệ thuật của nhà văn là tìm hiểu một phương diện cơ bản trong
thế giới nghệ thuật của nhà văn, góp phần quan trọng vào việc xác định phong
cách nghệ thuật của nhà văn.
Khảo sát toàn bộ tiểu thuyết của Vi Hồng chúng tôi nhận thấy có một số
cảm hứng cơ bản gắn với một số kiểu loại nhân vật phù hợp. Đó là cảm hứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ngợi ca gắn với những con người đẹp đẽ, cảm hứng cảm thương gắn với những
con người bất hạnh, cảm hứng châm biếm, phê phán những con người vô học tối
tăm và những kẻ xảo trá, tàn bạo.
1.2. Cảm hứng nghệ thuật gắn với thế giới nhân vật trong tiểu thuyết
của Vi Hồng.
Nhà văn Vi Hồng sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo dân tộc Tày ở
bản Phai Thin xã Đức Long huyện Hoà An tỉnh Cao Bằng. Từ nhỏ, ông đã gắn bó
với quê hương, được tiếp xúc với rất nhiều con người và những cảnh đời khác
nhau. Có lẽ vì thế mà Vi Hồng có điều kiện thể hiện hình ảnh những đồng bào
của mình trên trang viết một cách sâu sắc.
Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng rất đa dạng, phong phú.
Trong thế giới ấy có nhân vật phụ nữ, trẻ em, thanh niên, người già, bác sĩ, kỹ sư,
giáo viên, thày mo, chẩu mường, quan Tây Mỗi nhân vật có một tính cách
riêng, hoàn cảnh riêng, nhưng họ đều là những người con của núi rừng Việt Bắc.
Có thể nói, nguồn suối văn học dân gian cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tư
duy sáng tạo nghệ thuật của Vi Hồng. Ngay từ nhỏ ông đã được tắm mình trong
môi trường văn hoá dân gian, được nghe những bài dân ca trữ tình Tày, Nùng và
những điệu hát then của gia đình, quê hương. Trưởng thành, ông lại được làm cán
bộ giảng dạy văn học dân gian ở trường đại học hơn 30 năm. Trong văn học dân
gian trắng - đen, thiện - ác được phân biệt một cách rõ ràng. Nhân vật trong tiểu
thuyết của Vi Hồng cũng được phân chia thành hai nhóm rõ rệt: chính diện và

phản diện, cao đẹp và tầm thường, thánh thiện và gian ác.
Tuyến nhân vật chính diện thường là những con người đại diện cho cái
đẹp, cái thiện. Họ có những suy nghĩ, hành động cao cả mang đầy tính nhân văn.
Tuyến nhân vật phản diện thường là những nhân vật xấu xa, đại diện cho cái ác
trong xã hội. Hai tuyến nhân vật này được đặt cạnh nhau, đấu tranh với nhau. Và
cuối cùng phần thắng sẽ thuộc về cái tốt, cái thiện. Tuy nhiên để có được chiến
thắng, nhân vật chính diện phải trải qua rất nhiều khó khăn, đau khổ thậm chí cả
sự hi sinh nữa. Sáng tạo hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện trong tiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thuyết của mình, nhà văn Vi Hồng muốn gửi tới bạn đọc một thông điệp đậm chất
nhân văn: “Hãy yêu thương và biết yêu thương những cái đẹp, nhất là những con
người đẹp đẽ, cao cả,đồng thời đem hết sức mình ra trừ diệt cái ác, kẻ ác. Trừ
khử những kẻ phản bội trắng trợn, nguyền rủa những kẻ “béc kha cải” (đại nịnh
hót), khinh bỉ lũ yếu hèn” [43, 61]. Quan niệm trên đã chi phối toàn bộ sáng tác
của Vi Hồng cũng như việc xây dựng nhân vật của ông.
1.2.1. Cảm hứng ngợi ca gắn với những con người đẹp đẽ.
Nghệ thuật thời nào cũng vậy, luôn luôn có xu hướng khuyếch đại cái tốt
để nó trở nên đẹp đẽ, lộng lẫy, từ đó lôi cuốn, hấp dẫn mọi người, làm cho mọi
người tin rằng trên đời bao giờ cũng còn có công lí, lương tri, bao giờ cũng có
người tốt. Từ đó khơi dậy ở mỗi người khát vọng vươn tới lí tưởng, muốn noi
gương, bắt trước, làm theo điều thiện, điều hay. Vì vậy, trong nghệ thuật không
bao giờ thiếu được cái đẹp, thiếu chất lí tưởng, thiếu chất anh hùng lãng mạn,
thiếu nhân vật tích cực. Có thể nói, cảm hứng ngợi ca cái đẹp, cái thiện đã trở
thành cảm hứng chủ đạo trong văn học Việt Nam mọi thời.
Hướng tới giá trị nhân bản truyền thống ca ngợi cái đẹp, cái thiện, lên án
cái xấu, cái ác đã trở thành nhu cầu bức thiết của tất cả các nhà văn nói chung và
của Vi Hồng nói riêng. Ông say sưa sáng tác và đã dành nhiều trang viết để ngợi
ca cái đẹp, nhất là những con người đẹp đẽ, cao cả.
1.2.1.1. Ca ngợi những con người có vẻ đẹp lí tưởng về hình thể.
Vẻ đẹp hình thể là vẻ đẹp bên ngoài mà con người có thể nhìn ngắm được.

Nó hiện lên qua vóc dáng, khuôn mặt, nước da Đọc tác phẩm của Vi Hồng,
người đọc thường có ấn tượng khá đậm về những con người có vẻ đẹp ngoại hình
hoàn hảo mang đặc trưng của con người miền núi.
Đó là những chàng trai khoẻ mạnh với những bắp thịt nở nang, đường gân
cuồn cuộn, giỏi nghề săn bắt, đối mặt với hổ, gấu, chó sói mà không hề khiếp sợ.
Mi Tráng trong Mùa hoa Bioóc Loỏng “ khoẻ như một con gấu ngựa Những
bắp chân, bắp tay với những thớ thịt đỏ au nổi lên cuồn cuộn. Tấm ngực rộng
thênh như như võ sĩ trên màn ảnh”. Vẻ đẹp đó là kết tinh của những gì là tinh tuý,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
sự hoà quyện của núi rừng. Hình ảnh: “bộ ngực rất khoẻ của anh cũng nổi lên
cuồn cuộn trong lần áo” khiến người đọc có thể cảm nhận được sức khoẻ dẻo dai,
bền bỉ của người lao động. Anh xuất hiện trong trò chơi bắt vịt ở lễ hội Lồng tồng
của mường Khoang Đông trước sự thán phục của mọi người. Trong khi mọi
người “lặn đến đứt hơi” mà không bắt nổi một con thì anh chỉ cần một hơi đã bắt
được tới ba con vịt. Không những thế Mi Tráng còn là người giật giải nhất trong
các cuộc đua ngựa. “Cũng như mọi người khác, anh quắp lấy bụng con Mạ Lài,
rạp người xuống nắm lấy bờm con Mạ Lài. Mạ Lài chạy rất êm và tốc độ không
thay đổi”. Hình ảnh đó khiến Mi Tráng hiện lên như một kị binh thời trung cổ với
sức mạnh bạt núi băng rừng, chiến thắng tất cả.
Với một thân hình cao lớn, khoẻ mạnh, Tập Tạng trong Vào hang đã “đi
săn gấu khắp núi rừng Cao – Bắc – Lạng, Thái – Tuyên – Hà. Ông đi khắp sáu
tỉnh ngày ấy” bắt gấu, bắt hổ bằng tay không mà chưa hề thất bại.
Nhân vật Cốc trong Núi cỏ yêu thương hiện lên với một thân hình khoẻ
đẹp như một tượng đồng: “Cốc đen như mầu đồng đúc tượng, đậm chắc, những
thớ thịt ở bắp chân, bắp tay xoắn cuộn với nhau như những thớ lõi gỗ nghiến, gỗ
lim”. Được phân công thuần hoá hai con trâu khoẻ nhất, dữ nhất của trại chăn
nuôi, nhiều lúc chúng húc nhau chí tử. Khi ấy anh phải dùng sức của “hai bắp tay
gân nổi cuồn cuộn ” để can không cho hai con trâu khỏi húc nhau. Với sức khoẻ
như thế, Cốc không những đã thuần phục được con trâu tưởng như bất kham ấy
mà anh còn cùng mọi người tham gia làm cầu. Anh là người khoẻ nhất: “Cốc

khiêng những hòn đá to. Mỗi ngày, họ phải thay mấy lần quang làm bằng dây
rừng chắc, to, nếu với người khác họ phải dùng suốt tháng mới hỏng”. Cùng với
vẻ đẹp về hình thể là một sức khoẻ dẻo dai, họ góp phần làm cho bản mường giầu
đẹp hơn.
Đọc tiểu thuyết của Vi Hồng, ta còn bắt gặp rất nhiều những con người như
thế. Đó là Ki Nọi trong tiểu thuyết Đoạ Đầy, Đán trong Núi cỏ yêu thương Họ
đều là những người trai khoẻ mạnh, luôn phải đối mặt với thú dữ và cả những khó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
khăn nguy hiểm mà chưa một lần bó tay. Họ chính là kết tinh sức mạnh của núi
rừng Việt Bắc.
Vẻ đẹp của những người phụ nữ trong sáng tác của Vi Hồng thường được
so sánh với các nàng tiên trong cổ tích. Thu Lạ trong Mùa hoa Bioóc Loỏng đã
được miêu tả theo bút pháp phóng đại: “Hàn Thu Lạ, cô gái tuổi hai mươi đẹp
như một nàng tiên vừa từ trên trời xuống dự hội”. Đường nét trên khuôn mặt nàng
được tác giả miêu tả tỉ mỉ, ấn tượng: “Cặp lông mày sắc như nước, vầng trán thon
thả thanh tú Cặp mắt đen láy long lanh, cặp môi nàng đều đặn, đỏ chót lúc nào
cũng tủm tỉm cười. Nàng nói líu lo như tiếng chim hoạ mi”. Đúng là người thanh
cái tiếng cũng thanh, “cái tiếng của nàng cũng khẽ khàng, mơ màng như chính
sinh ra từ những làn gió núi, hay là cái tiếng đi về của những làn mây trắng như
bông trên các mái đại ngàn”. Thu Lạ quả là một bông hoa rừng ngào ngạt
hương sắc.
Không gian miền núi thường là nơi sinh ra những con người kết tinh vẻ
đẹp diệu kì. Hạ Chi cũng là một cô gái mang vẻ đẹp thần tiên như thế: “Hạ chi từ
trong nhà tắm bước ra, mặt mũi tươi rói mới mẻ như một nàng tiên vừa qua lò
luyện mĩ nhân trong một truyện cổ” khiến Mi Tráng ngắm nhìn Hạ Chi mà tưởng
như đang ngắm nhìn “một pho tượng tuyệt sắc của trời đất Choáng cả rừng
xanh, lấp cả mọi thung lũng. Một kì công vĩ đại”. Tạo hoá không chỉ ban tặng cho
miền núi một không gian đẹp đẽ trong lành mà như để hài hoà với cảnh, tạo hoá
lại gửi đến đó những con người đẹp như nàng tiên lạc lối xuống trần gian và
những chàng trai khoẻ mạnh tràn đầy sức sống.

Cũng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm
chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người, nhân vật Ngọc trong Tháng năm biết nói
của Vi Hồng mang vẻ đẹp riêng có của người phụ nữ Việt Bắc: “Xinh đẹp mà lại
khoẻ mạnh. Thân hình tròn chắc , nước da trắng như cây chuối bóc, mịn và
thơm như bột nếp nhuyễn, má hồng như cánh hoa mạ vách núi, eo như lưng con
ong mật, lông mày đen, sắc như con chim hoạ mi, cặp mắt cũng cặp mắt hoạ mi,
cặp môi là quả nhót chín mọng”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nhiều nhân vật phụ nữ khác trong tiểu thuyết của Vi Hồng, cũng mang vẻ
đẹp giầu tính lí tưởng và ước lệ như thế: Xinh Xông trong Mùa hoa Bioóc
Loỏng, Lả trong Lòng dạ đàn bà, Thu Lú trong Chồng thật vợ giả, La Bội Hoan
trong tiểu thuyết Đoạ đầy, Băng trong Tháng năm biết nói Họ gần nhau ở nét
chung mà ít phân biệt ở nét riêng, khiến ta cứ có cảm giác quen quen như đã gặp
họ ở đâu đó. Điều này làm giảm đi phần nào khả năng tạo hình nhân vật trong
tiểu thuyết của Vi Hồng.
1.2.1.2. Ca ngợi những con người bình thường có tấm lòng nhân hậu, vị tha.
Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng vô cùng phong phú. Nhân
vật trung tâm trong sáng tác của ông là những người lao động miền núi. Họ là
những người bình thường nhưng đầy tình nghĩa, giầu lòng yêu thương con người.
Những phẩm chất ấy thật đáng quý, đáng trân trọng. Phải bắt nguồn từ lòng nhân
đạo cao cả, lòng yêu thương con người sâu sắc, Vi Hồng mới có thể xây dựng
được những nhân vật mà trong mọi hoàn cảnh, ngay cả đối với kẻ thù của mình
vẫn có thể cưu mang, đùm bọc, giúp họ thoát chết và hy vọng họ hoàn lương.
Xét về phương diện này, ta nhận thấy các nhân vật trong tiểu thuyết của vi
Hồng có nét gần gũi với nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Nhìn
chung họ đều có số phận éo le trắc trở. Bằng nghị lực và lòng nhân hậu, họ cố
gắng vươn lên tự khẳng định mình trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đầy thử
thách và qua những tình huống đời sống ấy nhân vật bộc lộ hết tính cách và
những phẩm chất tốt đẹp của mình.
Trong tiểu thuyết Lòng dạ đàn bà, người đọc không thể quên một cô Lả

thông minh, xinh đẹp nổi tiếng nhất vùng và mang một khát vọng cao đẹp: “Sống
cùng với văn minh một năm còn hơn sống trăm năm ở nơi tối tăm, lạc hậu”. Ước
mơ đến với văn minh cứ luôn vẫy gọi, thôi thúc khiến Lả quyết định bỏ Tu để yêu
Nghít dù “Lả yêu Tu hơn yêu Nghít, Tu đẹp trai hơn, khoẻ mạnh hơn”.
Bất chấp sự ngăn cản của gia đình, Lả theo Nghít về mường Nước Hang
Rơi đông người, văn minh, lịch sự để làm dâu. Chị cùng chồng vun vén xây đắp
ngôi nhà hạnh phúc. Chị không chỉ giúp chồng trong công việc làm ăn mà còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
dành chồng từ trong nanh vuốt của chúa sơn lâm. Một người đàn bà dám hy sinh
cả tính mạng của mình để bảo vệ chồng, đáng lẽ phải được hưởng tình yêu, hạnh
phúc từ người chồng ấy, nhưng chị đã bị Nghít đối xử tàn tệ. Vì say mê sắc đẹp
của Mã Thả An, Nghít đã quên đi tình nghĩa vợ chồng. Anh vô tình với người vợ
thuỷ chung, nhân hậu, quan hệ với Mã Thả An ngay trong nhà mình. Lả hết lời
khuyên can nhưng không có kết quả. Đau đớn và thất vọng, chị đã tìm đến dòng
nước Sông Trong gửi mình cho hà bá, thuồng luồng để quên đi tất cả. May mắn
thay chị không chết mà đã được Tu và Ban cứu giúp.
Sống trong rừng sâu nhưng chị vẫn luôn hướng về gia đình, chồng con.
Nhờ vậy, Lả đã cứu được Nghít thoát khỏi bàn tay độc ác của kẻ lòng lang dạ thú
định hãm hại anh bằng thuốc độc. Hơn một tháng trời Lả hết lòng chạy chữa,
chăm sóc tận tình, Nghít mới hồi phục, nhưng lại bị mù cả hai mắt. Anh chàng
Nghít trẻ trung, đẹp trai tràn đầy sức sống, giờ đây phải sống trong cảnh đêm tối,
đó phải chăng là đòn trừng phạt của ông trời vì những việc làm tội lỗi mà Nghít
đã gây ra cho Lả. Nhưng Lả lại không coi là thế. Chị tận tình cứu chữa cho Nghít
và chăm lo cuộc sống cho ba bà cháu trong cái vỏ của người đàn bà khác. Sự ân
hận, hối cải của Nghít đã khiến Lả xúc động. Nhiều lần Lả muốn nói thật nhưng
rồi chị lại kìm nén được. Chị quyết định dành dụm tiền để đưa Nghít xuống bệnh
viện tỉnh chữa mắt. Chị không ngần ngại dành con mắt phải của mình để hiến
tặng cho Nghít, cứu Nghít ra khỏi cảnh mù loà, tăm tối. Nếu không có một tình
yêu sâu sắc, một trái tim nhân hậu lớn lao thì Lả không thể có được hành động
cao cả như vậy. Cuối cùng sự hy sinh ấy đã được đền bù xứng đáng. Nghít đã

nhìn thấy “bá tiên đen” lại trở thành cô Lả xinh đẹp ngày xưa. Họ cùng trở về
ngôi nhà hạnh phúc của mình.
Nếu tình yêu thương của Lả làm xúc động bao trái tim người đọc thì tình
bạn trong sáng và sự giúp đỡ tận tình xuất phát từ tình yêu thương của Tu và Ban
cũng thật cảm động. Bị khước từ tình yêu, Tu vô cùng đau đớn, nhưng không vì
thế mà anh căm thù hay xa lánh Lả. Ngược lại, anh đã cùng Ban dõi theo Lả để
rồi giúp Lả thoát chết khi nàng quyết định gửi mình cho Hà Bá, rồi lại cưu mang,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
động viên, an ủi và giúp đỡ Lả trong hoàn cảnh khó khăn, chung tay giúp đỡ
những người thân của Lả thoát khỏi hoạn nạn, đem đến cho họ một cuộc sống no
đủ, vun vén tình yêu và hạnh phúc cho Lả và Nghít. Tu và Ban chính là những
bông hoa đẹp về lòng nhân ái mà tác giả đã dụng công xây dựng.
Thu Khoan trong Dòng sông nước mắt cũng sinh ra ở một vùng núi cao
nghèo nàn, lạc hậu. Ngay từ nhỏ cô đã có cảm tình với Kim Công. Một người
dưới nước, một người trên bờ nhưng họ gắn bó với nhau như hình với bóng. Tình
yêu nẩy nở, thế rồi họ yêu nhau say đắm. Khi biết Thu Khoan yêu Kim Công, bố
mẹ đã ngăn cấm cô bằng những trận đòn roi đau đớn. Nhưng họ vẫn hẹn hò với
nhau vào những đêm trăng trên đồi Pò Mần và ngay cả trong căn phòng của Thu
Khoan mà không ai biết. Tình yêu của họ càng ngày càng gắn bó, nhưng rồi Thu
Khoan bị ép gả cho Kin Xa giầu có nhiều hơn cô mười tuổi – một kẻ kiêu ngạo và
độc ác. Ngày cưới của cô cũng là ngày khép lại quãng đời tươi đẹp của tuổi thơ
và tình yêu trong sáng với Kim Công, đồng thời nó cũng mở ra một quãng đời
đầy bất hạnh của Thu Khoan. Kin Xa nghiện thuốc phiện nặng, của cải trong nhà
nhanh chóng “đội nón ra đi” và cuối cùng, hắn nhẫn tâm đem vợ đi bán. Thật may
thay, người mua nàng lại chính là Kim Công – người mà cô đã từng yêu dấu.
Không chỉ có Thu Khoan mới ngạc nhiên và cảm động mà người đọc cũng phải
rơi nước mắt xúc động trước tình yêu chung thuỷ, một trái tim nhân hậu giầu lòng
thương người của Kim Công. Bao nhiêu năm Thu Khoan đi lấy chồng, anh lặng
lẽ tích cóp những đồng tiền bằng mồ hôi nước mắt của cái nghề sông nước vốn đã
khó khăn, và hy vọng một ngày nào đó sẽ đem đến cho Thu Khoan. Anh cố ý

không để Thu Khoan biết để mong cứu cô thoát khỏi cơn hoạn nạn. Và hôm nay
số tiền ấy đã thực sự cứu giúp được Thu Khoan. Nhờ có tình thương ấy mà Thu
Khoan đã thoát khỏi cuộc sống nhục nhã. Cô tràn ngập trong hạnh phúc, để rồi
kết quả của tình yêu và hạnh phúc ấy là một đứa con xinh đẹp đã ra đời. Nhưng
hạnh phúc của những con người nhân hậu ấy không được trọn vẹn, vì Kin Xa
ngày càng nghiện nặng, trở thành kẻ ăn mày rách rưới với nước da bủng beo chỉ
còn nằm chờ chết. Kim Công giục vợ đi thăm kẻ thù và sắm sanh quà cáp chu đáo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
để Thu Khoan mang cho Kin Xa. Hành động cao cả của Kim Công mà anh gọi là
“tấm lòng làm người của chúng ta” ấy thật là cảm động. Cảm động hơn nữa khi
cặp vợ chồng Thu Khoan và Kim Công còn chấp nhận thêm một nỗi đau khi nàng
phải đánh đổi cả nhân phẩm của mình cho quan phủ Trần Hồi (mặc dù nàng rất
ghê tởm) đổi lấy những viên thuốc kí ninh chữa bệnh sốt rét cho Kin Xa. Hai trái
tim nhân hậu đã gặp nhau để rồi bùng lên ngọn lửa sưởi ấm những tâm hồn cô
đơn bất hạnh giúp Kin Xa thoát khỏi cái chết vì những cơn sốt rét hoành hành,
đang dần lấy đi tính mạng của hắn, đưa hắn trở về với cuộc đời. Có được những
tấm lòng như thế thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao.
Cứu giúp người trong hoạn nạn là phẩm chất thường thấy ở nhân vật trong
tiểu thuyết của Vi Hồng. La hay chính là The trong Vãi Đàng là một cô gái thông
minh, xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình nghèo, bố nghiện ngập phải bán hết cả
ruộng nương cho Tổng Nhự, thậm chí bán cả cô cho hắn. Khi đã trở thành bà
quan, cô chỉ chuyên tâm giúp người nghèo khổ. Cách mạng đến, được giác ngộ,
La lập tức từ bỏ cuộc sống giầu sang đi theo cách mạng. Cô không chỉ hoạt động
rất dũng cảm mà còn luôn giúp đỡ mọi người mỗi khi họ gặp hoàn cảnh éo le.
Người được cô hai lần giúp đỡ thoát khỏi cảnh đoạ đầy là Đàng. Cả hai lần, Đàng
đã may mắn được The cứu giúp bằng tình yêu thương và sự sẻ chia chân thành,
không một chút tính toán thiệt hơn. Những hủ tục lạc hậu đã phải lùi bước trước
lẽ phải và lòng tốt của con người. Đoàn tụ và hạnh phúc, tất cả đến thật bất ngờ.
Nếu không có những con người giầu lòng nhân ái, có tình yêu thương sâu sắc,
vượt qua mọi rào cản của hủ tục lạc hậu như The thì đời Đàng đâu có được những

giây phút hạnh phúc như thế.
Những con người như Thu Khoan, Kim Công, Tu, Ban và cả The nữa giúp
con người ta vững tin hơn trong cuộc sống, bởi cho dù xã hội nào đi nữa, ở đâu đi
chăng nữa thì vẫn có những con người tốt, giầu lòng yêu thương, sẵn sàng sẻ chia,
đồng cảm, yêu thương giúp đỡ đồng loại thoát khỏi những bế tắc để tìm đến với
chân trời hạnh phúc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.2.1.3. Ca ngợi những người trí thức có trí tuệ toả sáng, có ý chí nghị
lực, giầu lòng yêu thương con người.
Nhân vật trí thức là hình ảnh quen thuộc của văn học Việt Nam trước Cách
mạng. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những nhân vật đó trong các sáng tác của
Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan nhưng tiêu biểu nhất là Nam Cao. Nhân
vật Hộ trong Đời thừa, Điền trong Trăng sáng, Thứ trong Sống mòn đều là
những nhà văn, nhà báo có tình yêu nghề nghiệp sâu sắc, có khát vọng sáng tạo
mãnh liệt nhưng chỉ vì gánh nặng cơm áo tầm thường mà khát vọng của họ không
sao thực hiện được, lương tâm nghề nghiệp bị vẩn đục, tài năng bị xói mòn. Họ
cảm nhận rõ thân phận mình cứ “mốc lên, rỉ ra, mòn đi” không lối thoát mà
không thể làm gì.
Ba mươi năm chiến tranh cách mạng, do ưu tiên viết về quần chúng công –
nông – binh nên nhân vật trí thức chưa được chú ý nhiều. Sau chiến tranh, nhất là
từ những năm 1986 trở đi, khi đất nước bước sang thời kì đổi mới, khi nhân vật trí
thức trở thành nơi gửi gắm thích hợp sự tự ý thức của nhà văn thì nhân vật người
trí thức lại xuất hiện nhiều trong tác phẩm. Điều này dễ nhận thấy trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu, Ma văn Kháng, Nguyễn Khải Vi Hồng là một trong số
ít nhà văn người dân tộc thiểu số viết về người trí thức. Nhân vật trí thức trong
tiểu thuyết của Vi Hồng phần lớn là những nhà giáo, kỹ sư, bác sĩ mẫu mực, có
tài, tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức trách nhiệm về bản thân, về cuộc sống.
Họ vượt lên mọi hoàn cảnh và những cám dỗ tầm thường, để đến với khoa học
bằng chính trí tuệ và lòng nhiệt tình của mình.
Đọc tiểu thuyết Gã ngược đời chúng ta không thể quên người thày giáo

giỏi, người kỹ sư nông nghiệp tài năng và đầy nhiệt huyết – Hà Thế Quản.
Quản sinh ra đã không được hưởng tình yêu thương của người cha, chỉ có
hai mẹ con anh côi cút sống trong rừng, vất vả, khổ cực nuôi nhau. Rồi mẹ anh lại
bỏ anh mà đi, Quản sống được là nhờ vào tình thương của những người tốt bụng
trong mường. Vất vả thiếu thốn là thế nhưng Quản vẫn học giỏi. Anh thi đỗ vào

×