Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Chỉnh lý di vật di chỉ gò cát (gò quéo), quận 2, tp hồ chí minh do trung tâm khoa học xã hội và nhân văn thành phố khảo sát, thám sát năm 1992

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.25 MB, 75 trang )

ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
BAN CHẤP HÀNH TP. HỒ CHÍ MINH
--------------------

CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “KHOA HỌC SINH VIÊN – EURÉKA”
LẦN 9 NĂM 2007.

Tên cơng trình:

CHỈNH LÝ DI VẬT DI CHỈ GÒ CÁT (GÒ
QUÉO), QUẬN 2, TP. HỒ CHÍ MINH DO
TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN THÀNH PHỐ KHẢO SÁT,
THÁM SÁT NĂM 1992
Thuộc nhóm ngành: Khoa học xã hội

Mã số cơng trình: ………………


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “KHOA HỌC SINH VIÊN – EURÉKA”
LẦN 9 NĂM 2007.

TÊN CƠNG TRÌNH:

CHỈNH LÝ DI VẬT DI CHỈ GỊ CÁT (GỊ QUÉO),
QUẬN 2, TP. HỒ CHÍ MINH DO TRUNG TÂM


KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THÀNH
PHỐ KHẢO SÁT, THÁM SÁT NĂM 1992
THUỘC NHĨM NGÀNH: KHOA HỌC XÃ HỘI

Nhóm tác giả:
Lê Ngun Anh

Nữ

Nguyễn Thị Thu Hằng

Nữ

Trần Đồn Minh Hồng

Nam

Trưởng nhóm:

Trần Đồn Minh Hoàng

Lớp:

Khảo cổ học

Khoa:

Lịch sử

Người hướng dẫn:


Năm thứ/Số năm đào tạo: 4/4

TS. Nguyễn Thị Hậu


MỤC LỤC
TÓM TẮT ĐỀ TÀI ................................................................................................... 1
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 2
CHƯƠNG 1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ - ĐIỀU KIỆN TỰ NHIN
CỦA DI CHỈ GÒ CÁT.................................................................................... 5
1.1.

Vài nét về điều kiện tự nhiên............................................................................. 5

1.2.

Vị trí của di tích Gị Cát .................................................................................... 9

CHƯƠNG 2. DI TÍCH VÀ DI VẬT......................................................................... 11
2.1. Di tích............................................................................................................... 11
2.2. Di vật ................................................................................................................ 13
2.2.1. Đồ đá .............................................................................................................. 13
2.2.2. Đồ gốm ........................................................................................................... 17
2.2.3. Đồ đồng .......................................................................................................... 38
2.2.4. Đồ trang sức.................................................................................................... 38
CHƯƠNG 3. DI CHỈ GÒ CÁT TRONG NỀN CẢNH VĂN HỐ
Ở LƯU VỰC SƠNG ĐỒNG NAI. ................................................................ 43
KẾT LUẬN. ............................................................................................................. 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 48

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 50


1

TĨM TẮT ĐỀ TÀI
Nhóm tác giả đã chọn nghiên cứu và chỉnh lí hiện vật của di tích khảo cổ do
Trung tâm Khoa học Xã hội vả Nhân văn thành phố khảo sát và thám sát năm
1992.Trong quá trình nghiên cứu chúng tơi đặt Gị Cát trong khơng gian thành phố Hồ
Chí Minh để tìm hiểu vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của di tích Gị Cát. Nhóm tác
giả đưa ra nhận xét sau khi đã chỉnh lí xong hiện vật đồ đá, đồ đồng, đồ gốm của di
tích hiện đang được lưu giữ tại trung tâm. Dựa vào những đặc điểm hiện vật là đặc
trưng của di tích nhóm tác giả đã so sánh với những di tích khác trong khu vực sơng
Đồng Nai. Nhờ đó, nhóm tác giả đã thu thập nhiều nguồn thơng tin đã đưa ra nhận xét
một cách toàn diện về di vật và cả di tích Gị Cát. Qua đó, phục dựng niên đại và một
phần cuộc sống sinh hoạt của cư dân nơi đây.
Q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước đang tiến nhanh với một
nhịp độ rất nhanh và thành phố Hồ Chí Minh là một trọng điểm phát triển. Vấn đề
không thể tránh khỏi là mặt bằng để xây dựng. Bởi thế mà đã có rất nhiều di tích bị
giải tỏa để phát triển cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp. Và di tích này khơng nằm
ngồi quy luật thực tế này.
Đặc biệt, khu di tích này hiện nay gần như bị xóa sổ, hiện vật phân tán ở nhiều
nơi. Vì Vì vậy, qua đề tài này chúng tơi hi vọng góp một phần cơng sức của mình vào
việc đánh giá giá trị những di vật cịn lại của di tích này, đồng thời, cung cấp cho
chúng ta một lí lịch khoa học rõ ràng, nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu và trưng
bày bảo tàng.


2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đề tài nghiên cứu về một di tích thuộc giai đoạn kim khí ở Quận 2 - Tp Hồ Chí
Minh, nơi mà q trình đơ thị hố đang phát triển mạnh. Nhu cầu xây dựng cơ sở hạ
tầng phục vụ cho nhu cầu các nhà máy công nghiệp, khu dân cư ngày càng tăng, diện
tích đất tự nhiên ngày càng thu hẹp dần, vì vậy nhiều di tích bị mất đi. Trong một
tương lai rất gần các di tích tiền sơ sử ở Tp Hồ Chí Minh sẽ khơng cịn nữa. Điều này
sẽ khiến cho các nhà khảo cổ thế hệ sau khơng có những tài liệu, thơng tin cần thiết
phục vụ cho cơng tác nghiên cứu các di tích này nói riêng và lịch sử thành phố nói
chung.
Trước vấn đề cấp bách đặt ra như thế, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Chỉnh lý
di vật di chỉ Gò Cát (Gò Quéo), Q2, Tp Hồ Chí Minh do Trung tâm Khoa học Xã hội
và Nhân văn thành phố khảo sát, thám sát năm 1992”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Đề tài nghiên cứu thuộc về một di tích đã được phát hiện từ năm 1985 và đã
được khảo sát, đào thám sát trong nhiều đợt 1990 và 1992. Kết quả các đợt khảo sát
chưa công bố những báo cáo cụ thể cũng như bất cứ cơng trình nghiên cứu nào về di
tích này. Trong tác phẩm “ Khảo cổ học Tiền sơ sử thành phố Hồ Chí Minh” cũng đã
đề cập đến di tích Gị Cát nhưng chỉ ở mức độ khái quát. Đến năm 2006, do nhu cầu
giải phóng bề mặt để xây dựng trụ sở mới Viện nghiên cứu xã hội thành phố Hồ Chí
Minh, cán bộ của viện đã phối hợp với sinh viên và giảng viên bộ môn khảo cổ học
của trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành
thống kê bước đầu những hiện vật khảo cổ học được thu thập trong đợt khảo sát năm
1992, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có di chỉ Gò Cát. Sau đợt thống
kê này, những di vật của Gò Cát đã được viện nghiên cứu xã hội thành phố tặng cho
Bảo tàng Văn hoá Nam Bộ trực thuộc trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
thành phố Hồ Chí Minh. Một số hiện vật được lưu giữ ở Viện nghiên cứu xã hội thành
phố Hồ Chí Minh. Như vậy, từ khi phát hiện cho đến nay, di tích Gị Cát gần như là
một khoảng trắng trong sự hiểu biết về lịch sử xa xưa của thành phố Hồ Chí Minh.

Chính vì vậy, chúng tơi đã tiến hành chỉnh lý những hiện vật đã được thu thập trong


3
năm 1992 để có thể góp phần sáng dần thêm những hiểu biết về di tích Gị Cát - một di
tích thuộc thời đại kim khí ở thành phố Hồ Chí Minh đang có nguy cơ bị xố sổ hồn
tồn.

3. Mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu:
Các hiện vật thu nhặt và đào thám sát tại di chỉ Gò Cát (Gị Qo), Q2, Tp Hồ
Chí Minh đã được chỉnh lý kỹ nhằm thu thập những thông tin cần thiết giúp cho quá
trình nghiên cứu, nhận xét một cách sâu rộng, tồn diện về di vật cũng như di tích. Qua
đó phục dựng lại một phần cuộc sống và sinh hoạt của cư dân ở nơi đây. Đặc biệt, khu
di tích này hiện nay gần như bị xoá sổ, hiện vật hầu như phân tán ở nhiều nơi. Vì vậy,
hi vọng qua đề tài này chúng tơi sẽ góp một phần nhỏ cơng sức của mình vào việc
đánh giá giá trị và lưu giữ những di vật còn lại của di chỉ quan trọng này.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp truyền thống của khảo cổ học là tiến hành phân loại, thống kê, so
sánh, chụp hình, dập hoa văn di vật theo các tiêu chí về loại hình, chất liệu, kiểu dáng
.v.v. Thơng qua đó lập ra những bảng thống kê chi tiết cho từng loại hình riêng. Ngồi
ra, việc sử dụng các phương pháp liên ngành như Mỹ thuật, Dân tộc, Văn hoá …đã
giúp cho quá trình thực hiện đề tài đạt được yêu cầu trong phạm vi cho phép.

5. Giới hạn nghiên cứu:
Đề tài chỉ nghiên cứu các hiện vật đang lưu giữ tại Bảo tàng văn hoá Nam Bộ
thuộc Trường ĐH KHXH & NV Tp Hồ Chí Minh gồm các chất liệu gốm, đá … và
giới thiệu một số hiện vật ở Viện Nghiên Cứu Xã hội Tp Hồ Chí Minh (cơng cụ đá,
đồng, đồ trang sức, vũ khí) đã thu nhặt và thám sát tại Gị Cát.


6. Đóng góp của đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu, chỉnh lý, đề tài cố gắng thu thập và cung cấp thơng tin
tồn diện, kỹ lưỡng về di vật ở Gò Cát. Đồng thời giúp người đọc có cái nhìn tổng
quan về vị trí của di chỉ trong nền cảnh chung văn hố khu vực Đơng Nam Bộ, trước
hết là trong hệ thống các di tích tiền sơ sử thành phố Hồ Chí Minh.


4
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài của chúng tôi gồm ba chương.
Chương 1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ - ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA DI CHỈ GÒ CÁT
Giới thiệu sơ nét về địa lý tự nhiên, quá trình hình thành địa chất của khu vực
thành phố Hồ Chí Minh nói chung và di tích Gị Cát nói riêng. Qua đó thấy được vị trí
cư trú của cư dân cổ ở đây.

Chương 2: DI TÍCH VÀ DI VẬT
Giới thiệu q trình khảo sát, thám sát di tích, kết cấu tầng văn hố. Thống kê,
phân loại và nhận xét về hiện vật.

Chương 3: DI CHỈ GỊ CÁT TRONG NỀN CẢNH VĂN HỐ KHẢO CỔ Ở LƯU
VỰC SƠNG ĐỒNG NAI
Mối quan hệ giữa Gị Cát với các di tích thuộc thành phố Hồ Chí Minh cũng
như những khu vực khác trong văn hố Đồng Nai. Thơng qua đó phản ảnh một phần
đời sống sinh hoạt, sự giao lưu, trao đổi, buôn bán giữa các cư dân thuộc nhiều khu
vực khác nhau trên vùng đất Nam Bộ này.


5

CHƯƠNG 1

VỊ TRÍ ĐỊA LÝ - ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA GÒ CÁT

1.1. Vài nét điều kiện tự nhiên:
Tự nhiên là yếu tố có trước và bao trùm, đề ra những yêu cầu và thách đố, buộc
con người sáng tạo ra kỹ thuật để thích nghi và ứng phó. Chính vì vậy, trước khi tìm
hiểu về mặt khảo cổ ở Gị Cát cần sơ lược về q trình thành tạo và điều kiện tự nhiên
của nó. Và bởi vì, Gị Cát là một bộ phận của thành phố Hồ Chí Minh nên để hiểu về
nó cần phải đặt Gị Cát trong bối cảnh chung của vùng đất thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh, phía Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông Nam ăn thông ra
biển, Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Đơng giáp tỉnh Đồng Nai, Tây và Tây
Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Đây là vùng đất đặc biệt mang tính chuyển
tiếp, tính bản lề giữa vùng đất nâng cao phía Bắc, Đơng Bắc (vùng phù sa cũ) và vùng
sụp, vùng trũng Tây Nam Bộ (vùng phù sa mới).
Về mặt địa chất, thành phố Hồ Chí Minh đã trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài và
phức tạp cách nay 165 – 70 triệu năm. Trong giai đoạn tân kiến tạo từ Mioxen đệ tứ
cách đây 25 triệu năm – giai đoạn lấp đầy các vùng sụp lún, có tác dụng quyết định
đến việc hình thành mơi trường cảnh quang hiện tại của thành phố Hồ Chí Minh cũng
diễn ra khá phức tạp. Trong 6 chu kỳ vận động tạo sơn Hymalaya, bốn chu kỳ đầu diễn
ra mạnh mẽ ở miền Bắc, càng về sau, vào cuối đệ tam sang đầu đệ tứ vận động phát
triển mạnh ở miền Nam. Riêng ở thành phố Hồ Chí Minh, chu kỳ tác động mạnh nhất
là chu kỳ 5 xảy ra trong thời kỳ Pleitocene thuộc đầu kỷ đệ tứ (Q1) làm cho khối núi
cực Nam Trung Bộ bị lôi cuốn trong hoạt động nâng lên cùng với sự nâng lên của sơn
khối Tây Campuchia và sự sụp võng bù trừ giữa hai sơn khối đó là đồng bằng sơng
Cửu Long, đồng thời là hiện tượng phun trào badan mạnh mẽ ở miền Đông Nam Bộ
làm thành những thảm rất dày. Vào cuối chu kỳ 5 lại diễn ra hiện tượng phun trào
badan trẻ nhất phủ lên trên, mở đầu cho chu kỳ 6, còn chính chu kì 6 chủ yếu do dao
động của mực nước biển vào giai đoạn băng hà gian băng – còn lục địa về cơ bản coi
như ổn định. Theo Fontaine và Delibrias, đợt biển tiến gần đây nhất xảy ra vào thời kì
Holocene đạt đến mức cực đại 4 – 5m cách đây gần 6000 năm. Sau đó biển rút xuống



6
3m rồi 2m và dừng ở mức này trong suốt một thời gian dài cách đây khoảng 4000
năm. Khoảng 3000 năm cách ngày nay, theo Fontaine, mực nước biển xuống tới 0,8m
rồi sau đó đạt mức nước như hiện tại. Nếu căn cứ vào những mực nước được ghi nhận
trên so với độ cao được ghi chú trên bản đồ Địa lý tự nhiên thành phố Hồ Chí Minh thì
có thể rút ra nhận xét sau: cách đây khoảng 6000 năm, với mực nước 4 -5m, vùng đất
thành phố Hồ Chí Minh bị ngập nước khá nhiều, chỉ có “3 cụm cù lao” là nhô lên khỏi
mặt nước, cụm Q9, cụm Hóc Mơn – Gị Vấp - Nội Thành và cụm Củ Chi. Trên những
vùng đất cao này đã thấy những di tích khảo cổ như Hội Sơn, Bến Đị, Long Bửu,
Rỏng Bàng, Gị Sao và một vài vết tích khảo cổ trong nội thành như ở nhà thờ Sài
Gòn, Bảo tàng Cách mạng, Thư viện Tổng hợp, khu Tân Định, Thảo Cầm Viên. Với
mực nước 2m, cách ngày nay khoảng 4000 năm, chỉ còn huyện Nhà Bè và vùng Cần
Giờ là cịn bị ngập nước. Các di tích khảo cổ tìm được ở phần đất này như di tích Gò
Cát, ND 11. Vào khoảng 3000 năm cách ngày nay, gần như tồn bộ vùng đất thành
phố Hồ Chí Minh nhô lên khỏi mặt nước.
Theo Trần Kim Thạch, vào thời gian này, ở vùng đất thành phố Hồ Chí Minh có
những con sơng mà ngày nay cịn thấy những vết tích. Đó là sơng Trảng Bàng cổ từ
Cẩm Giang chảy qua Thái Mỹ (Củ Chi) rồi trở ra Lê Minh Xn (Bình Chánh) hợp
giang với sơng Sài Gịn cổ, cũng là trục giao thông thuỷ quan trọng giữa miền Đông và
miền Tây. Sơng Đồng Nai có cửa cổ nằm ở Thủ Đức (Bưng Sáu Xã) (nay thuộc địa
phận quận 2) đã từng là nơi tạo ra cửa khẩu cho Sài Gịn.
Theo các nhà địa mạo học, thành phố Hồ Chí Minh có 7 dạng địa hình:


Địa hình bóc mịn, cấu tạo chủ yếu bởi các phun trào tuổi Jura muộn –

Kreta, được đặt trưng bởi dạng bát úp đỉnh tròn, sườn thoải, độ cao từ 20 – 25m, phân
bố ở khu vực Long Bửu (Q9).



Địa hình đồng bằng thềm bậc III, cấu tạo bởi trầm tích pleistocene gồm cuội

sỏi, cát sét và tầng trên cùng là tầng “đất xám” có độ cao mỗi nơi một khác, nội thành
– Hóc Mơn 5 -10m, Củ Chi 10 – 15m, An Nhơn, Quận 9 tới 25m.


Địa hình đồng bằng thềm bậc II, cấu tạo từ các trầm tích sét bột, có nguồn

gốc hỗn hợp sông - biển, tuổi Holocene sớm, phổ biến ở phía Tây nội thành là chủ yếu,
cao từ 3 – 5m, dọc theo thung lũng ở Củ Chi cao 6 – 8m, ở Thủ Đức cao 6m.


7


Địa hình thềm bậc I, cấu tạo cũng từ các trầm tích hỗn hợp sơng biển, tuổi

Holocene giữa - muộn, phân bố rộng rãi ở Bình Chánh, đơng Hóc Mơn, nam Củ Chi,
nam Thủ Đức, Q2, toàn bộ huyện Nhà Bè có độ cao trung bình 1m.


Địa hình đồng bằng, đồng lầy sông biển, được cấu tạo bởi các trầm tích hỗn

hợp, phân bố ở phía tây thành phố từ Thái Mỹ (Củ Chi) đến nơng trường Lê Minh
Xn (Bình Chánh), toàn bộ vùng này đã được nâng cao 1 – 1,5m.


Địa hình bãi bồi sú vẹt, phân bố hầu hết trong huyện Cần Giờ độ cao 0,5 –




Địa hình giồng cát, trong đó Giồng Bình Trị Đơng (Bình Chánh) cao 4m và

1m

Giồng Ông Tố (Q2) được cấu tạo từ cát, sạn, sỏi đã bị laterit hoá, phần dưới là cát
chứa nhiều vỏ sò, tuổi Holocene giữa, còn Giồng Cần Giờ có tuổi hiện đại.
Tương ứng với các địa hình trên là các loại đất đỏ vàng, đất xám, đất phù sa, đất
phèn, đất mặn và đất cát biển. Điều đáng lưu tâm là khu đồi Long Bình (Quận 9), Rạch
Sơn (Củ Chi), Vĩnh Lộc (Bình Chánh) là những nơi có đất sét để làm gốm.
Về mặt khí hậu, sau vận động kiến tạo thành phố Hồ Chí Minh cũng như những
vùng khác, khí hậu khơng có thay đổi gì lắm, cho nên có thể ghi nhận những số liệu
hiện nay của thành phố Hồ Chí Minh để từ đó phần nào hình dung khí hậu thành phố
Hồ Chí Minh trong quá khứ. Nơi đây mang đặc trưng chung của khí hậu phía nam, chỉ
có hai mùa: mùa khơ từ tháng 12 – 4, những tháng còn lại là mùa mưa. Với cao độ 0,5
– 30m, lượng nhiệt trung bình hằng năm 370C, lượng mưa trung bình hằng năm là
1949mm, tương đối ít so với các tỉnh miền Đơng và nhiều hơn các tỉnh miền Tây.
Ngay tại thành phố Hồ Chí Minh mưa phân bố cũng khơng đều. Lượng mưa có xu
hướng tăng dần từ tây nam lên đơng bắc. Ở Cần Giờ, Nhà Bè, nam Bình Chánh mưa từ
1200 – 1500mm, trong khi khu vực nội thành, Hóc Mơn, Củ Chi, Thủ Đức, Q9 mưa từ
1800 – 1900mm. Hơn 90% lượng mưa tập trung vào các tháng mùa mưa (5 – 11)
thường dưới dạng mưa dông nhiệt đới kèm theo sấm chớp vào buổi chiều. Mưa nhiều
nhất vào 2 tháng 6 và 9. Trong mùa mưa có khi có những đợt “hạn bà chằn” kéo dài.
Về sơng ngịi, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có 2 con sơng lớn là sơng
Đồng Nai và sơng Sài Gịn đều nằm ở phía tây bắc và đơng, cùng về hướng đông nam
chảy ra biển bằng nhiều cửa, tạo hệ thống kênh rạch chằng chịt. Hệ thống sông rạch
thành phố chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều nên tuỳ theo mùa, tuỳ theo con



8
nước và tuỳ theo lượng nước ngọt ở thượng nguồn đổ xuống mà nước mặn từ biển có
thể xâm nhập vào. Ở đây khơng có tình trạng lũ lụt như sơng Hồng và sơng Cửu Long.
Nước sơng Sài Gịn và sơng Đồng Nai chỉ có thể ngập ở vùng Cần Giờ, Nhà Bè và
một số nơi ở Bình Chánh .v.v.
Trên cơ sở địa hình, khí hậu và thổ nhưỡng như vậy, động thực vật cũng đa dạng.
Về thực vật, phát triển các biểu bì nhiệt đới, từ rừng nhiệt đới ẩm ướt đến các truông
cỏ nguyên sinh, trong rừng các cây họ dầu thống trị, ngồi ra cịn các loại gỗ quý như
trắc, cẩm lai, gõ, mun .v.v. Thảm thực vật dưới rừng cũng tương đối phát triển, chủ
yếu là cỏ tranh, cây cọ, tre .v.v. Ở vùng đầm lầy sông biển bãi bồi phổ biến các loại cỏ
lác, bàng .v.v., các loại cây bần, mắm, đước, chà là. Về động vật có các loại nai, mễn,
chồn, lợn rừng, trăn, rắn cho đến cọp, beo, gấu. Dưới sơng thì có tơm, cua, sị, ốc, hến,
hào, điệp, nghêu, các lồi cá như cá bẹ, cá chim, cá nhám .v.v. đặc biệt là cá sấu.
Tóm lại, thành phố Hồ Chí Minh có nhiều dạng địa hình từ loại đất đỏ, đất xám,
đất phù sa, có cả đất phèn và đất mặn, nhưng trên đó là hệ động thực vật phong phú, đa
dạng mà con người có thể khai thác. Có đất sét là nguyên liệu cần thiết cho sản xuất
gốm; có cả hệ thống sông rạch vừa là nguồn nước quan trọng cho sinh hoạt, vừa là
đường giao thông và là nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Với 2 mùa mưa và
khơ, ít bão và khơng có lũ lụt, đất đai thuận lợi cho việc sản xuất trồng trọt. Đó là
những tiền đề đầu tiên giải thích vì sao những di tích khảo cổ có mặt ở vùng thấp đến
vùng cao ở thành phố Hồ Chí Minh (Đặng Văn Thắng và những người khác, 1998: 17
– 26).
Tuy nhiên đối với người tiền sử ngồi nhu cầu ăn uống, cịn phải có nhu cầu lao
động sản xuất để tạo ra những công cụ lao động và vật dụng cần thiết cho sinh hoạt
hằng ngày. Ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh liền kề như Bình Dương,
Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, thiên nhiên tỏ ra ưu đãi con người về mặt cung cấp
nguyên liệu làm công cụ và làm đồ gốm.
Ở Đông Nam Bộ, phù sa cổ là nguồn cung cấp sét để người xưa có thể sản xuất
gốm tại chỗ. Một số nơi có nguồn đất giàu chất sét như: khu công nghiệp Tam Hiệp, ở
Thái Hồ (gần Hố Nai), ở phía Bắc thị trấn Búng, gần Hồ Thạnh, Thuận Giao (Bình

Dương), Bến Cát, Tân Un, Cù Lao Rùa, Long Bửu (quận 9). Nếu như nghiên cứu về
đất của vùng phù sa cổ để biết được nguồn cung cấp nguyên liệu cho nghề gốm thì


9
nghiên cứu về đá sẽ cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn để bàn về công cụ sản xuất.
Ở đây, chúng ta chỉ quan tâm đến những vết lộ của đá có khả năng làm nguồn cung
cấp nguyên liệu cần thiết để làm ra các công cụ sản xuất, các đồ trang sức.
Dựa vào quan sát và thăm dò địa chất ở khu vực núi Bà Đen, phù sa cổ có vẻ ăn
sâu dần từ Bắc xuống Nam và đá gốc xuất lộ thành đồi gị ở Trại Bí - Bắc núi Bà Đen,
ở một số đồi gò kế cận và một số đồi gò khu vực Dầu Tiếng. Nhiều vết lộ đá gốc xuất
hiện ở khu vực Long Bình, sân bay Biên Hồ, Lộ Đức 2. Ở vùng quanh Thủ Đức, ở độ
sâu 16m – 50m đã gặp đá gốc, ở trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, đá gốc đã nằm
chìm sâu xuống đến 200m. Theo những dữ kiện được biết đến nay, nền đá gốc tỏ ra
không bằng phẳng và bị chôn vùi dưới những lớp phù sa. Vùng Tân Uyên, Thủ Đức,
Long Thành: chất liệu đá gốc là sa thạch, phiến thạch với thâm nhập đacít – anđêdít
(vốn là những đất đá có nguồn gốc phún xuất, chống được xâm thực) thường lại là
xuất lộ và nay được khai thác thành mỏ đá ở Bửu Long, Tây Bửu Hồ, núi Châu Thới,
Bình An, khu làng đại học; các đất đá trầm tích (sa thạch, phiến thạch) cũng có ở Bình
An, Bình Thắng, Lộ Đức 2, gần làng Thiện Tân ở dọc con sông Đồng Nai. Các nhà địa
chất Việt Nam còn phát hiện được trong vùng xuất lộ đá gốc Thủ Đức – Châu Thới Bửu Long loại đá sừng anđaludít, cocdierit, badan, anđêrit, anđêdito badan, đacít thậm
chí có cả opancanxêđoan với nhiều màu sắc có thể được sử dụng để chế tạo đồ trang
sức (Trần Văn Giàu, 1987: 34 - 35).
Trên đây là những nét chung nhất về điều kiện tự nhiên và khí hậu của thành
phố Hồ Chí Minh.

1.2. Vị trí của di tích Gị Cát (Gị Qo):
Địa điểm khảo cổ học Gị Cát còn gọi là gò Quéo hay gò cây Quéo nằm ở vị trí
10° 47 vĩ Bắc và 106° 47 kinh Đơng, thuộc phường Bình Trưng Đơng, quận 2, thành
phố Hồ Chí Minh. Nó là một phần của Giồng Ơng Tố (quận 2), cao trình 5m so với

mực nước biển (Trần Văn Giàu, 1998 : 73), nằm trong tổng thể địa hình dạng giồng
cát của thành phố Hồ Chí Minh. Vì thế Gị Cát có những đặc trưng của khí hậu và
quần động thực vật của thành phố.
Gò Cát là một doi đất cát nằm ven theo đường bờ biển cổ. Những bằng chứng
về hoá thạch và địa tầng cho thấy rằng khoảng thời gian dài 4 – 6 nghìn năm cách ngày
nay, vùng này đã bị ảnh hưởng của biển (Trần Văn Giàu, 1987: 31). Từ cuối Holocene


10
giữa thì biển thối từ từ đẩy giồng cát vào sâu trong đất liền. Giồng nằm giáp với vùng
“rừng Sác” của sơng Đồng Nai. Cảnh quang ngày nay vẫn cịn mang đậm tính chất
giao thoa giữa sơng và biển. (Nguyễn Cơng Bình, Lê Xn Diệm, Mạc Đường,
1990:70). Các nhà địa chất học đã ghi nhận xưa kia sông Đồng Nai có cửa cổ nằm ở
vùng này.
Theo lời kể của dân gian, Gò Cát xa xưa là vùng trũng hoang, “điểu thú quần
hoang, tuyệt vơ nhân tích”, nhiều cổ thụ, chim hạt, sếu về làm tổ đẻ trứng vào mùa
xuân, dưới đất nhiều kỳ đà, cá sấu (Đỗ Đình Truật, Nguyễn Hải Đường, 1998 : 494).
Lượng mưa ở đây cũng tương đối lớn, trên 1800mm/ năm. Xét về mặt điều kiện sống
thì nơi đây có khả năng cung cấp được nguồn nước và nguồn thực phẩm cho con
người. Mặc khác, Gò Cát lại nằm ở một vị trí khá thuận lợi cho việc tìm kiếm nguồn
nguyên liệu phục vụ sản xuất cũng như trao đổi hàng hoá với các vùng khác. Từ đây
có thể theo dịng Đồng Nai ngược lên Bến Đị, Hội Sơn, có thể đến Long Bửu để lấy
đất sét cho sản xuất gốm hoặc đến vùng Thủ Đức (khu làng đại học), vùng Bửu Long,
Châu Thới để lấy đá chế tạo cơng cụ, và cũng có thể theo các con rạch nhỏ đi vào sông
Vàm Cỏ để đến các khu vực ở miền Tây Nam Bộ. Có thể nói Gị Cát là cầu nối giữa
miền Đơng và miền Tây Nam Bộ.
Có lẽ vì những điều kiện đó nên sau khi biển rút, vào khoảng 3000 đến 2500
cách ngày nay, cư dân cổ ở các vùng cao của thành phố Hồ Chí Minh đã mở rộng địa
bàn cư trú của họ ở Gò Cát (Đặng Văn Thắng, 1998: 26).
Tiểu kết chương 1:

Với một vị trí khá quan trọng, có thể được xem là điểm giao hội của hai vùng
kinh tế - dân cư sông Đồng Nai, cùng với sự thuận lợi về nguồn sống cho con người cả
về lao động và sinh hoạt nên từ rất sớm, Gò Cát đã trở thành một trung tâm cư trú và
sản xuất của người cổ.


11

CHƯƠNG 2
DI TÍCH VÀ DI VẬT
2.1. Di tích
Di tích nằm trên một gò cát hay giồng cát cao hơn mặt ruộng xung quanh
khoảng 1m. Gò Cát dài khoảng 800m, theo hướng Đông – Tây, chiều rộng từ vài chục
đến vài trăm mét ở hướng Đơng. Dấu vết của di tích khảo cổ ở đầu phía Tây, rộng
khoảng 2ha. Tại đây nhân dân trong vùng thường đào cát làm lộ ra hiện vật khảo cổ
(Đặng Văn Thắng …, 1998: 54).
Di tích Gò Cát đã được đào thám sát ba lần nhưng chưa có đợt khai quật nào
chính thức. Bên cạnh đó, báo cáo về các đợt thám sát rất sơ sài và một số đợt đã không
được công bố. Dưới đây là thông tin về các đợt thám sát và thu nhặt ở Gò Cát.
* Đợt 1: tháng 3 năm 1985, di tích Gị Cát được bảo tàng lịch sử Việt Nam
thành phố Hồ Chí Minh đào thám sát hai hố, mỗi hố 1m x 1m = 1m2. Tầng văn hoá
của hai hố giống nhau:
 Lớp đất mặt dày từ 0.2 – 0.4cm là lớp cát vàng pha sạn sỏi nhỏ.
 Bên dưới là tầng văn hoá dày 0.1m, cát nhuyễn hơn có màu vàng
sậm chứa nhiều mảnh gốm.
 Sinh thổ là lớp cát vàng có kết cuội vàng.
Trong đợt này, người ta đã thu được trong hố thám sát và lượm trên mặt đất 17
hiện vật đá, 1 rìu đồng và 530 mảnh gốm, 16 bi gốm, 1 thỏi đất nung.
* Đợt 2: Đặng Văn Thắng và Phạm Quang Sơn đã khảo sát lại Gò Cát vào
tháng 6 – 1990 và thu được 8 hiện vật đá, 116 mảnh gốm, 27 bi gốm và 4 thỏi đất

nung.
* Đợt 3: cuối năm 1992, trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (nay là Viện
nghiên cứu xã hội thành phố Hồ Chí Minh) đã đến khảo sát di tích Gị Cát. Vào thời
điểm này, ở Gị Cát hằng ngày có đến hàng chục xe công – nông đến đây lấy cát bất
chấp lệnh ngăn cấm của chính quyền địa phương khiến cho tồn bộ mặt giồng lởm
chởm gốm, tầng văn hố bị phá huỷ nghiêm trọng.


12
Đoàn khảo sát đã thu thập hiện vật trong các hố đào và trên mặt đất và chọn nơi
để đào hố thám sát nhưng không đảm bảo là những hiện vật thu được vốn cịn nằm
ngun tại chỗ hay khơng. Một số nơi tầng văn hoá sâu đến 1.1m (Trần Văn Giàu,
1998: 73).
Những thông tin về đợt khảo sát này đã khơng được cơng bố chính thức. Dựa
trên vị trí của hiện vật trong địa tầng (được người khảo sát ghi lại trên hiện vật), có thể
nhận thấy chúng được phát hiện trong ba khu vực khác nhau B, C, D với độ sau tương
ứng là:
Khu B: hiện vật thu thập trong địa tầng có độ sâu từ 20 – 70 cm
Khu C: hiện vật thu thập trong địa tầng có độ sâu 1.1m
Khu D: hiện vật thu thập trong địa tầng có độ sâu từ 30 – 40 cm.
Trong đợt này, những hiện vật thu thập được trên mặt đất và trong địa tầng của
hố thám sát bao gồm:


Gần 10.000 mảnh gốm, chiếm tỉ lệ áp đảo. Trong số đó rất ít mảnh cịn

được ngun vẹn và có giá trị nghiên cứu đối với nhà khoa học. Theo những người
khảo sát thì vị trí địa tầng của những mảnh gốm đó khơng đảm bảo.



852 viên bi gốm và một thỏi đất nung .



Bốn mảnh vòng đá và một vòng đá nguyên vẹn, 8 hạt chuỗi đá.



Rìu, cuốc đá, đục, bàn mài, đá nguyên liệu, mảnh tước, phác vật rìu,

mảnh cơng cụ hư hỏng, một mảnh đá có lỗ và một số mảnh đá lạ.


Một qua đồng bị gãy vụn, bốn cái rìu đồng dính đất mà những người

khảo sát cho là cịn nằm trong khn đúc, một mảnh chng đồng.
Căn cứ trên những đồ đồng đã phát hiện được, những người khảo sát cho rằng ở
Gị Cát có hai giai đoạn rõ ràng:
* :Giai đoạn 1: có những hiện vật thể hiện mối quan hệ với Đông Nam Bộ (đặc
biệt với Dốc Chùa).
* Giai đoạn 2: có những hiện vật thể hiện mối quan hệ với người Đông Sơn
(như chng đồng, qua đồng).
Giữa hai giai đoạn này có một sự gián cách có thể đến vài thế kỷ và vì lý do gì
là điều sau này cần được làm rõ (Trần Văn Giàu, 1998: 74)


13
2.2. Di vật:
2.2.2. Đồ đá:
Theo ý kiến của Th.s Nguyễn Ngọc Hoa, chất liệu đá ở di tích Gị Cát bao gồm

những chất liệu sau: gồm đá cát bột kết, đá phiến sét bột kết, cát sạn kết, cát kết, thạch
anh, silic, đá Pheralit, đá phun trào. Nguồn gốc của các loại đá này chủ yếu ở Đồng
Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương.
Trong di tích Gị Cát có các loại hình cơng cụ sau: rìu tứ giác, rìu có vai, đục,
cuối – mai, hịn nghiều, bàn mài, phác vật, phế vật, đá nguyên liệu, mảnh tước, tiêu
bản đá khơng rõ chức năng (có 317 tiêu bản các loại, xem phần phụ lục bảng 9).
a. Rìu đá:
Rìu tứ giác: Rìu được làm từ chất liệu bột kết, có thiết diện ngang hình chữ
nhật, góc lưỡi lệch, hai mặt cong khơng đều, cịn nhiều vết ghè đẽo trên thân. Bề mặt
rìu bị phong hố tạo nên lớp patin. Kích thước trung bình rìu tứ giác là: dài thân 9 –
12cm, rộng thân 1,9 – 5,2cm dày thân 1 – 3cm. (Bản ảnh 18, H.1 – 3; Bản ảnh 19, H.1)
-

Kí hiệu (KH) GQ 92. 40cm. D: rìu tứ giác có thiết diện ngang hẹp, một mặt

cong lồi, được mài nhẵn, một mặt phẵng cịn nhiều vết ghè. Lưỡi rìu bị vỡ một phần.
Bề mặt có phủ một lớp patin màu xám,, kích thước rìu: dài 11,9cm; rộng đốc 3,9cm;
rộng lưỡi 5,2cm.
-

KH GQ 92. 70cm B (Rc 12): rìu tứ giác có thiết diện ngang hình chữ nhật được

mài tồn thân, lưỡi vát đều hai bên và bị mẻ ở lưỡi. Rìu có màu xám trắng.
-

KH GQ 92. B: rìu tứ giác nhỏ màu xám trắng, thiết diện ngang hình chữ nhật,

được mài tồn thân, hai mặt cong khơng đều, góc lưỡi lệch. Kích thước: dài 5,5cm;
dày 0,9cm; rộng lưỡi 1,9cm.
-


KH GQ 92, 25 – 30cm (33 Đ1): rìu tứ giác có màu xám trắng, thiết diện ngang

hình chữ nhật, thân được mài 2 mặt khá nhẵn, phần đốc gần nhọn, hai mặt cong đều,
góc lưỡi lệch và lưỡi bị vỡ. Kích thước: dài 6,4cm; rộng lưỡi 2,0cm; dày 1,2cm.
-

KH GQ 92. TN: rìu có màu xám, được mài nhẵn hai mặt, nhưng ở bên cạnh

sườn vẫn còn vết ghè đẽo, thiết diện ngang hình chữ nhật, một phần lưỡi rìu bị mẻ. Bề
mặt có lớp patin màu xám. Kích thước: dài 11,8cm; rộng đốc 3cm; rộng lưỡi 4,3cm;
dày 2,8cm.


14
-

KH GQ92.TN: rìu có màu xám nhạt, thiết diện ngang hình chữ nhật, góc lưỡi

lệch, một mặt được mài nhẵn còn một mặt vẫn còn các vết ghè đẽo, lưỡi rìu được sử
dụng mịn. Kích thước: dài 9cm, rộng đốc 3,1cm; rộng lưỡi 3,8cm; dày 1,8cm.
-

KH GQ92.TN: rìu có màu xám nhạt, hai mặt cong đều nhưng vẫn còn nhiều vết

ghè đẽo. Góc lưỡi lệch, phần lưỡi và đốc bị vỡ một số mảng. Bề mặt có phủ một lớp
patin màu xám. Kích thước: dài 7,75cm; rộng đốc 3,9cm; rộng lưỡi 5.2cm; dày 2,8cm.
-

KH GQ92.TN: rìu có màu xám nhạt, thiết diện ngang hình chữ nhật, góc lưỡi


lệch, một mặt được mài nhẵn, một mặt vẫn còn vết ghè, lưỡi được sử dụng mịn. Kích
thước: dài 9cm; rộng đốc 3,1cm; rộng lưỡi 3,8cm; dày 1,7cm.
-

KH GQ 92. TN: rìu có màu xám nhạt, hai mặt cong đều nhưng vẫn còn vết ghè

đẽo, góc lưỡi lệch, phần lưỡi và phần đốc bị vỡ một số mảng. Bề mặt có phủ lớp patin
màu xám. Kích thước: dài 7,75cm; rộng đốc 3,9cm; rộng lưỡi 3,8cm; dày 2,1cm.
-

KH GQ 92. TN: rìu có màu trắng hồng, thiết diện ngang hình chữ nhật, hai mặt

cong đều, được mài nhẵn. Kích thước: dài 9,2cm; rộng đốc 2,2cm; rộng lưỡi 3,8cm;
dày 1,5cm.
Rìu có vai: chủ yếu làm từ chất liệu đá bột kết. Loại hình rìu có vai ở di tích Gị
Cát (Gị Qo) chủ yếu là rìu vai xi nhưng là vai xi lệch. Rìu có thiết diện hình
chữ nhật, vai lệch và cong lưỡi. Kích thước trung bình: dài thân 6 – 11cm, rộng thân
2,5 – 5cm; dày thân
-

1,5 – 2,5cm. (Bản ảnh 19, hình 2 – 4).

KH GQ 92. 40 (Rcv 3): rìu có thiết diện ngang hình chữ nhật được mài nhẵn.

Lưỡi xịe cong hình parabol, lưỡi sắc, góc lưỡi hơi lệch, thiết diện đốc hình chữ nhật.
Kích thước: dài 8,1cm; rộng lưỡi 5cm; rộng chuôi 5,7cm; dày 1,5cm.
-

KH GQ 92. 70. B (Rcv 1): rìu có vai màu xám. Thân được mài khá nhẵn. Thân


đốc có thiết diện ngang hình chữ nhật. Lưỡi cong parabol, góc lưỡi lệch. Bề mặt phủ
lớp patin màu xám. Kích thước: dài 11,3cm; rộng lưỡi 2,3cm; rộng vai 4,7cm; rộng
chuôi 5,3cm; dày 2,1cm.
-

KH GQ 92. 20. D (Rcv 7): rìu bị vỡ chỉ cịn một bên vai. Hai mặt thân được mài

nhẵn, lưỡi cong parabol, thiết diện ngang hình chữ nhật. Kích thước: dài 6,1cm; rộng
lưỡi 1,3cm; rộng vai 2,5cm; rộng chuôi 3,4cm; dày 1,5cm.


15
Ngồi ra, cịn có ba chiếc rìu có vai thu nhặt được. Cả ba chiếc rìu này đều
được mài tịan thân nhưng đơi chỗ vẫn cịn vết ghè, thiết diện ngang hình chữ nhật,
góc lưỡi lệch, lưỡi cong parabol. Bề mặt phủ một lớp patin màu xám trắng.
b. Đục: (Bản ảnh 20, hình 3)
-

KH khơng rõ: đục có màu xám, thiết diện ngang hình vng, thân được mài

nhẵn nhưng vẫn còn vết ghè. Đốc thu hẹp lại so với phần lưỡi, lưỡi gần nhọn. Bề mặt
phủ lớp patin màu xám. Kích thước: dài 5,1cm; rộng nhất 1,4cm; dày 1,3cm; phần lưỡi
rộng nhất 1,05cm.
-

KH GQ 92. TN (35. Đ5): đục nhỏ màu xám. Thân được mài nhẵn nhưng đơi

chỗ cịn vết lõm. Đốc hẹp so với lưỡi. Rìa lưỡi cong, thiết diện ngang hình oval.
c. Cuốc đá / Mai đá:

-

KH GQ 92. D. 30cm. 5Cb 2: là loại cuốc có vai xi lệch, thân có vết ghè, bề

mặt bị rỗ, lưỡi hơi xịe cong hình parabol, thiết diện ngang. Thân có một mặt phẳng,
một mặt cong lồi, lưỡi vát không đều, khá sắc.
-

KH GQ 92. 2D. 40cm. 5Cb 3: là loại cuốc có vai lệch, thiết diện ngang thân

hẹp, đốc nhỏ hẹp dần lưỡi cong đều hình parabol. Bề mặt thân bị rỗ, thân có một mặt
phẳng, một mặt cong lồi, lưỡi vát, khá sắc.
d. Phác vật - Phế vật: có hai dạng chính:
-

Phác vật rìu tứ giác: có 8 cái. Trong đó có 4 phác vật đã gần hồn chỉnh và 4

phác vật chỉ mang tính định hình thành rìu tứ giác. Các phác vật này được ghè đẽo
bằng những nhát khá tinh vi khơng có những vết lõm sâu. Bề mặt thân cong đều nhưng
góc lưỡi lệch.
-

Phác vật rìu có vai: 6 cái. Các phác vật này chỉ ở dạng sơ sài, mới định hình

được ở phần vai và một phần thân.
Ngịai ra cịn có 3 phác vật là những hình khối được tách thành những khối vng
khơng rõ dùng để chế tác rìu có vai hay rìu tứ giác.
-

Phác vật đục: 1 cái. Phác vật đã định hình thành một cái đục.

Trong các công cụ đá của di tích Gị Cát, nhiều người nghĩ rằng những lưỡi rìu

đã được sử dụng như là một cơng cụ - có thể là một dạng nạo nhỏ. Những lưỡi rìu
trong di tích Gị Cát được mài rất nhẵn, lưỡi cong hình parabol, lưỡi rìu sắc, dạng gần
giống hình bán nguyệt. Các lưỡi rìu trên bề mặt có phủ một lớp patin màu xám trắng.


16
Hiện tượng dùng những công cụ đã bị hư (tận dùng phần lưỡi, hay chế tạo lại từ
công cụ bị hư) để tái sử dụng là một hiện tượng rất phổ biến trong các di tích thuộc
văn hóa Đồng Nai. Đây là một xu hướng tiết kiệm nguyên liệu của cư dân cổ Đồng
Nai.
Nhưng theo ý kiến của GS Lê Xuân Diệm, việc tái sử dụng công cụ là một hình
thức tiết kiệm sức của cư dân cổ chứ khơng phải là tiết kiệm nguyên liệu.
e. Bàn mài:
Trong di tích Gị Cát có tổng cộng 36 bàn mài lớn nhỏ khác nhau. Bàn mài ở di
tích Gị Cát chủ yếu làm từ sa thạch mịn và có ba dạng chín:
Trong di tích Gị Cát có tổng cộng 36 bàn mài lớn nhỏ khác nhau. Bàn mài ở di
tích Gị Cát chủ yếu làm từ đá sa thạch mịn và có ba dạng chính:
-

Bàn mài rãnh: 4 cái.

-

Bàn mài lõm: 29 cái.

-

Bàn mài lòng máng: 3 cái.

Các bàn mài ở đây chủ yếu là bàn mài một mặt và được mài lõm xuống sâu,

ngồi ra cịn một số bàn mài được cư dân cổ Gò Cát tận dụng mài hai hoặc ba mặt.
Đặc biệt có những chiếc bàn mài được mài hai mặt nhìn giống như là khúc xương.

f. Chày nghiền:
-

KH GQ 92. 40cm. b (D2): thân hình trụ, được mài nhẵn, một đầu to 3,75cm,

một đầu nhỏ 2,8cm. Hai đầu có dấu vết sử dụng. Đá có màu đỏ sậm, lốm đốm chấm
vàng.
-

KH GQ 92. TN: đá có màu xám đen, lốm đốm vàng, được mài nhẵn toàn thân,

một mặt có vết vỡ, thiết diện ngang thân hẹp. Chày nghiền có một đầu to, một đầu
nhỏ. Cả hai đầu chày bằng, hai mặt thẳng có hình thang.
g. Hiện vật đá khơng rõ chức năng:
Ở di tích Gị Cát có một số hiện vật đá lạ hình thang, có màu đỏ và được mài
nhẵn. Đầu to được mài vát và thường bị vỡ ở mặt vát làm lộ ra màu sắc của đá, nhạt
hơn so với màu đá bên ngoài. một số tiêu bản có dấu vết sử dụng ở phần đầu nhỏ. Kích
thước trung bình của các tiêu bản này dài khoảng 8 – 12 cm, rộng từ 4 – 6 cm, dày từ 4
– 5cm. Chất liệu đá là silic.


17
Loại di vật này đã được tìm thấy trong di tích Gị Cao Su ở Long An và được bảo
tàng Long An trưng bày với chức năng là đá thờ. Tuy nhiên, hiện vật đá này có chức
năng như thế nào hiện nay chưa rõ và cần phải nghiên cứu thêm.

h. Đá cuội:
Ở Gò Cát đã thu nhặt được 3 hịn đá cuội, các hịn cuội này có màu xám, kích
thước phổ biến : dài từ 7 – 8 c, rộng từ 4 – 5,5cm, dầy từ 2 – 3 cm và rất vừa tay cầm
để sử dụng. Các hòn cuội ở đây đều có dấu vết sử dụng ở một đầu.
Các đá cuội ở di tích Gị Cát rất giống với các đá cuội được chơn trong di tích
Giồng Cá Vồ.
k. Mảnh tước và đá nguyên liêu
Ở Gò Cát đã tìm được 92 mảnh tước và 110 mảnh đá nguyên liệu. Những mảnh
tước này có cùng chất liệu với đá nguyên liệu. Đó là loại đá bột kết, cát kết mịn. Ngồi
ra ở đây cịn có một số lượng lớn mảnh đá cát kết thô (22 mảnh).
Theo thạc sĩ địa chất Nguyễn Ngọc Hoa, chất liệu của các công cụ đá ở Gò Cát
giống với chất liệu của đá ngun liệu và mảnh tước.
Ở di tích Gị Cát đã tìm thấy cơng cụ, bàn mài, phác vật cơng cụ, mảnh tước, đá
nguyên liệu cho thấy rất có thể di tich Gị Cát là một cơng xưởng chế tác đá.

2.2.2. Đồ gốm
Sau thời gian tiến hành chỉnh lý trở lại những đồ gốm của Gị Cát, chúng tơi
nhận thấy một số đặc trưng của đồ gốm Gò Cát cũng như những nét tương đồng của
nó với các di tích xung quanh.
* Chất liệu:
Gốm Gò Cát phổ biến hai loại chất liệu: gốm mịn và gốm thơ (có 1907 mảnh
miệng trong địa tầng và 1460 mảnh miệng thu nhặt).


Gốm mịn: có thể thấy rằng gốm Gò Cát được làm từ hai loại chất liệu

mịn:
Đồ gốm được làm bằng đất sét, pha rất nhiều cát, đôi khi một số đồ gốm
pha hạt cát khá thô và cho thêm chất phụ gia là vỏ nhuyễn thể nghiền nát. Xương gốm
thường có màu nâu đỏ, cam hoặc vàng cam, độ dày từ 0.35 – 1.5cm tuỳ từng loại đồ

đựng. Gốm loại này được miết láng nhưng lớp áo dễ bong tróc, thường có màu như


18
màu của xương gốm. Một số đồ gốm có chất liệu này cịn được tơ màu nâu đỏ hoặc
màu đen sôcôla. Tuy nhiên số lượng gốm tô màu thường rất ít.
Đồ gốm được làm bằng đất sét pha với cát mịn và lọc kỹ. Xương gốm rất
mịn có màu xám đen, độ dày khoảng 0.35cm. Gốm được miết láng, áo gốm có màu
xám trắng. Loại này cũng chiếm số lượng khá ít, được tìm thấy chủ yếu ở khu B trong
địa tầng có độ sâu 50 – 70 cm.


Gốm thơ: gốm làm bằng đất sét pha với bã thực vật, mùn, vỏ trấu (trên

bề mặt một số mảnh gốm còn để lại dấu vết của hạt trấu), đơi khi có pha thêm một ít
vỏ nhuyễn thể nghiền nát. Xương gốm thường có màu đen hoặc nâu đỏ, độ dày của
xương gốm từ 0.35 – 1.3cm. Gốm loại này cũng được miết láng. Một số ít kết hợp với
tơ màu nâu đỏ hoặc trang trí hoa văn. Lớp áo thường bong tróc nặng có màu vàng hoặc
vàng cam, đối với loại đồ gốm có xương đỏ xốp thì áo gốm cũng có màu đỏ như
xương gốm. Loại gốm có chất liệu này cứng chắc gần như gốm mịn.
* Loại hình:
- Đồ đựng: đa số là những mảnh gốm vỡ và khó có thể phục ngun được hình
dáng ban đầu nhưng dựa vào những mảnh miệng và thân đồ gốm có thể nhận biết một
số dạng đồ đựng phổ biến ở Gò Cát là bình miệng loe cổ thắt thân hình cầu, đáy trịn
có chân đế loe cao hay thấp; dạng nồi nhỏ có miệng khum thân hình cầu với đáy bằng;
dạng đĩa nơng lịng; bát bồng; các dạng chậu có đường kính lớn với kiểu miệng giống
kiểu miệng của các loại chậu ở Long Bửu, Dốc Chùa. Ngồi ra cịn xuất hiện một loại
bình có đáy lõm gần đáy thn khá đặc biệt, với kiểu dáng gần giống với loại âu có đế
ở An Sơn.
a. Miệng:

Trong di tích Gị Cát, hầu hết các mảnh miệng đều khơng có khả năng phục hồi,
xương gốm có màu đen, màu đỏ nhạt, xám đen hoặc xám nhạt. (Xem phần phụ lục
băng 1 - 8).
Kiểu 1: miệng loe, mép miệng dày 2-4cm và cuốn tròn ra phía ngồi. Miệng và
thân tạo thành một đường xiên, thân phình rộng; loại miệng này có đường kính rất lớn
từ 40-50cm. Rất có thể đây là miệng của một loại chum lớn (Bản vẽ I, hình 1,2).
Đối với loại gốm mịn thì xương gốm có màu xám trắng, sét có pha nhiều
nhuyễn thể và cát, gốm rất cứng. Xương gốm dày 1cm. Ở phần mép miệng cuộn tròn


19
được tạo ra bằng cách tạo một phần của mép miệng ở bên ngồi, sau đó gắn kết vào
phần miệng của chum và tiến hành xoa nhẵn. Khi đắp một phần mép miệng vào hiện
vật làm sẵn nên khi đắp vào đã để lại một khoảng trống ở giữa rộng khoảng 0.4cm. Do
kĩ thuật làm gốm chưa cao nên phần đắp ơ bên ngoài mép miệng đã bị tách ra.
Đối với loại gốm thơ: xương gốm có màu xám đen, gốm có pha nhiều bã thực
vật nên gốm rất bở. So với loại gốm thơ có mép miệng cuốn ra ngồi nhỏ hơn, mép
miệng dày 2cm và khơng thấy có dấu vết mép miệng được đắp thêm để tạo độ dày.
Kiểu 2: miệng loe xiên
Kiểu 2a: miệng loe xiên, bản miệng rộng 5,5 – 6,5cm; mép miệng dày khoảng
1,5cm tạo gờ trong và gờ ngồi. Ở phía trong bản miệng có một gờ nổi lên song song
với gờ trong của mép miệng; ở giữa gờ nổi và gờ trong bị lõm xuống giống như dạng
lòng máng. Miệng gốm và thân gốm tạo thành một đường gấp khúc, thân phình rộng
(Bản vẽ I, hình 3).
Ở bên ngồi của bản miệng có những đường gợn sóng nổi lên; đây là một dấu
vết kỹ thuật của làm gốm dải cuộn, do xoa chưa nhẵn nên dấu vết đó cịn lưu lại.
Kiểu miệng này hầu hết là loại gốm mịn, xương gốm có màu xám đỏ, sét có pha
nhiều vỏ nhuyễn thể, xương gốm dày 0,5cm; xương gốm ở phần thân mỏng hơn 0,25 –
0,3cm. Áo gốm có màu đỏ nhạt, bên trong bản miệng áo gốm bị bong tróc rất nhiều.
Rất có thể đây là kiểu miệng của loại hình nồi.

Kiểu 2b: cũng tương tự như kiểu 2a. Miệng loe xiên, bản miệng rộng 5cm (hẹp
hơn so với bản miệng kiểu 2a), mép miệng dày 1cm tạo gờ trong và gờ ngoài; nhưng
trong kiểu miệng 2b khơng có gờ nổi phía trong bản miệng như kiểu 2a. Miệng gốm
và thân gốm tạo thành đường gấp khúc, thân phình rộng. Các dấu vết kỹ thuật để lại
bên ngoài bản miệng cũng giống như kiểu 2a, nhưng phần tiếp giáp ở mặt ngoài giữa
phần miệng và phần thân có một gờ nhỏ nổi lên (Bản vẽ I, hình 4).
Xương gốm có màu đỏ nhạt, sét có pha nhiều vỏ nhuyễn thể và cát, gốm rất
cứng, xương gốm dày 1cm. Áo gốm có màu xám nhạt, nhưng bị bong tróc nhiều.
Kiểu 2c: miệng loe, bản miệng rộng, mép miệng mỏng 0.3cm. bản miệng thì
gần đứng nhưng lên phần mép miệng lại được vuốt nhẹ ra ngoài tạo thành gờ ngoài.
Phần miệng và thân tạo thành đường gấp nhẹ, phần thân hơi xi xuống và phình rộng.
Mặt trong của bản miệng khơng nhẵn mà lại có những đường gợn.


20
Xương gốm có màu xám trắng, sét có pha nhiều cát và nhuyễn thể, xương gốm
dày 1cm. Áo gốm có màu đỏ nhạt và bị bong tróc nhiều ở phần mép miệng.
Kiểu 3: miệng loe, bản miệng rộng.
Kiểu 3a: miệng loe, bản miệng rộng từ 3 - 4cm và được gấp khúc như chữ V
với phần thân; mặt trong của bản miệng khơng được nhẵn (Bản vẽ I, hình 5).
Đối với loại gốm mịn: xương gốm có màu đỏ nhạt, sét có pha nhiều cát và vỏ
nhuyễn thể, xương gốm dày 0,9 – 1cm, gốm rất cứng chắc. Áo gốm có màu đỏ nhạt
hoặc xám bạc. Trong loại gốm mịn này có 4 mảnh gốm có miệng loe, bản miệng rộng
3,5cm; mép miệng dày 1,2cm; tạo gờ trong và gờ ngoài. Miệng và thân tạo thành
đường gấp khúc, xương gốm rất dày 1,2cm, xương gốm có màu xám, sét có pha nhiều
cát. Áo gốm có màu đỏ nhạt.
Đối với loại gốm thơ, xương có màu xám đen, sét có pha nhiều bã thực vật,
gốm rất bở xương gốm dày 0,5cm. Áo có màu xám đen và bị bong tróc nhiều.
Kiểu 3b: giống kiểu 3a, nhưng bản miệng hẹp hơn 2-3cm (Bản vẽ II, hình 1).
Kiểu 3c: miệng loe, bản miệng rông 6 – 7cm, mép miệng mỏng 0,2cm được

vuốt nhẹ ra ngồi. Thân phình rộng. Xương gốm có màu xám bạc, sét có pha nhiều bã
thực vật. Xương gốm dày 0,2cm – 0,3cm. Áo gốm màu xám (Bản vẽ II, hình 2).
Kiểu 4: miệng khum, mép miệng dày.
Kiểu 4a: miệng khum, mép miệng hơi trịn hoặc gần vng và dày 1cm. Phần
thân hơi phình ra và hơi xiên vào ở phần đáy. Đường kính miệng từ 20 – 30cm (Bản
vẽ II, hình 3).
Bên ngịai từ miệng xuống phần thân có hoa văn chải. Hoa văn chải trên các
mảnh miệng này không theo một dạng nhất định và phần lớn chải từ miệng xuống
thân; một số mảnh miệng thì hoa văn chải chồng chéo lên nhau. Loại miệng này có cả
ở chất liệu mịn và thô. Với chất liệu thô xương gốm có màu xám đen, sét có nhiều bã
thực vật, gốm bở, xương gốm dày 0,2cm. Áo gốm có màu xám và bị bong tróc nhiều,
hoa văn trên mảnh gốm khơng cịn rõ ràng.
Với chất liệu gốm mịn, xương gốm có màu xám, màu đỏ nhạt, sét có pha nhiều
cát; xương gốm dày 0,2cm. Áo gốm có màu đỏ nhạt, hoa văn trên các mảnh gốm này
còn khá rõ.


21
Kiểu 4b: miệng khum, mép miệng mỏng 0,15cm. Đường kính miệng rộng từ 10
– 15cm, mép miệng trịn khơng đều. Phần miệng hơi gấp vào so với phần thân. Thân
hơi phình và có xu hướng đi xiên vào trong ở phần đáy. Đây là một loại nồi nhỏ có đáy
bằng (Bản vẽ II, hình 4).
Xương gốm có màu xám đen, sét có pha nhiều cát, xương gốm cứng chắc.
Xương gốm ở phần miệng dày 0,25cm, xương gốm ở phần thân có phần mỏng hơn
0,15cm. Đặc biệt, xương gốm ở phần gần đáy rất dày 0,8 – 1cm.
Áo gốm có màu đỏ nhạt và bị bong tróc rất nhiều. Bề mặt bên trong của mảnh
gốm rất lồi lõm và có dấu vết của hai con kê.
Kiểu 5: miệng loe, đứng, bản miệng rộng 2,3 – 6cm. Đây là dạng miệng của bát
bồng.
Kiểu 5a: miệng loe đứng, bản miệng rộng 3 – 6cm, bản miệng đứng, mép

miệng được bẻ ra ngoài tạo gờ. Ở phần ngồi miệng có những đường gờ nổi, tùy loại
miệng lớn nhỏ mà có từ 1 – 2 đường. Phần miệng và phần thân tạo thành một đường
gấp khúc, phần thân đi xiên vào trong. Đây là một dạng miệng của bát bồng (Bản vẽ
II, hình 5).
Đối với loại miệng có bản miệng lớn 5 – 6cm thì xương gốm dày 1cm, có màu
xám; sét có pha nhiều cát và bã thực vật nên tương đối cứng. Phần mép miệng được bẻ
ra ngồi rộng 1,8cm, phần ngịai bản miệng ln có 3 gờ nổi.
Đối với loại miệng có bản miệng nhỏ với kích thước 3 – 4cm, xương gốm mỏng
hơn 0,4 – 0,5cm; có màu xám, sét pha nhiều bã thực vật nên gốm bở. Phần mép miệng
được bẻ nhẹ ra bên ngồi, rộng 0,5cm và chỉ có hai gờ nổi ở phần ngoài bản miệng.
Kiểu 5b: miệng đứng, mép miệng mỏng 0,15cm. Phần miệng và phần thân tạo
thành một đường gấp khúc. Thân gốm xiên vào trong. Đây là loại miệng bát bồng có
lịng nơng (Bản vẽ II, hình 6).
Đối với loại gốm mịn, xương gốm có màu đỏ nhạt, sét pha nhiều vỏ nhuyễn thể
và cát; gốm cứng chắc. Xương gốm dày 0,2cm. Áo gốm có màu đỏ.
Đối với loại gốm thơ, xương gốm có màu xám đen, sét có pha nhiều bã thực
vật, gốm bở. Xương gốm dày 0,2cm. Áo gốm có màu xám trắng.
Kiểu 5c: miệng loe, bản miệng bẻ ngang, rộg 2 – 3cm, miệng và thân tạo thành
một đường gấp, đây là một loại dĩa nơng lịng có chân đế, xương gốm mịn, sét có pha


22
nhiều cát, xương gốm dày 0,3cm. Áo gốm có màu xám đỏ. Phần gần đáy có hoa văn
chải ( Bản vẽ III, hình 1,2).
Kiểu 6: miệng loe, bản miệng dày 1 – 1,5cm, được bẻ ngang tạo thành một mặt
phẳng rộng 3 – 4cm. Đường kính miệng từ 30 – 50cm. Miệng và thân tạo thành một
đường vng góc (Bản vẽ III, hình 3).
Đây có thể là miệng của một loại chậu.
Hầu hết các mảnh miệng đều là gốm thô. Xương gốm đen, sét có pha nhiều bã
thực vật và cát, tương đối cứng. Xương gốm dày 0,7cm. Áo gốm có màu xám nhưng

bị bong tróc rất nhiều. Ngịai ra có hai mảnh gốm ở phần bên ngịai của thân có gờ nổi
cao. Phần bản miệng dạng cũng có hiện tượng tương tự.
Kiểu 7: miệng loe, bản miệng rộng 4 – 6cm, mép miệng dày 1cm, tạo gờ trong
nổi cao. Bản miệng dạng lòng máng. Miệng và thân tạo thành đường cong, thân phình
rộng (Bản vẽ III, hình 4).
Đường kính miệng 30 – 50cm. Đây có thể là miệng của một loại nồi lớn.
Xương gốm có màu xám đen, sét có pha nhiều bã thực vật và cát, gốm dày 0,5
– 0,7cm. Áo gốm thường có màu xám và trắng mốc. Đặc biệt có một mảnh miệng
trong kiểu 7 có điểm khác biệt là bên trong bản miệng có một gờ nổi ở giữa chia bản
miệng ra làm hai phần.
Nhìn chung các mảnh miệng ở di tích Gị Cát chủ yếu là miệng loe, trong đó tập
trung là kiểu miệng của loại hình nồi. Các kiểu miệng ở di tích Gò Cát gần giống với
các kiểu miệng ở Dốc Chùa, Long Bửu, Hội Sơn.
Gốm màu
Trong quá trình chỉnh lý gốm của di tích Gị Cát, chúng tơi nhận thấy rằng,
trong di tích này có gốm màu (28 mảnh) (Bản ảnh 12).
“Gốm màu được hiểu theo nghĩa rộng là người ta cố ý bôi lên đồ gốm một thứ
nước màu nào đó khác với chất liệu và màu sắc tạo nên chính đồ gốm” (Phạm Lý
Hương, 1993: 10). Các mảnh gốm màu ở đây chủ yếu có màu đỏ sẫm và chỉ có chất
liệu gốm thơ xốp. Màu đỏ được phủ bên ngoài và cả bên trong của mảnh miệng và kéo
dài xuống cả phần thân. Đặc biệt có hai mảnh gốm màu đỏ được phủ cả bên trong của
thân bình hoặc nồi. Màu đỏ được phủ lên trên gốm là một lớp áo mỏng và màu được
phủ lên vùng không có hoa văn của mảnh gốm. Màu đỏ sẫm của gốm màu có lẽ được


×