Tải bản đầy đủ (.doc) (174 trang)

TỔNG ôn văn 9 Học Kỳ I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.58 KB, 174 trang )

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM
Văn học viết Việt Nam (còn gọi là văn chương bác học):
Dựa vào các cứ liệu còn lưu giữ, các tác phẩm văn học viết có sớm nhất vào thế kỉ X
(tiêu biểu là bài thơ Quốc tộ của nhà sư Đỗ Pháp Thuận, bài Nam quốc sơn hà tương truyền
là của Lí Thường Kiệt, bài Thiên đơ chiếu của Lí Thái Tổ).
Văn học viết Việt Nam sử dụng ba loại chữ viết:
+ Chữ Hán (từ thế kỉ X và tồn tại mãi đến ngày nay)
+ Chữ Nôm (từ thế kỉ XV, đỉnh cao là là thế kỉ XVIII- nửa đầu XIX)
+ Chữ quốc ngữ (từ đầu thế kỉ XX, dần thay thế cho chữ Hán và chữ Nơm, góp phần
đắc lực vào cơng cuộc hiện đại hóa nền văn học nước ta)
1. Các thời kì chính trong lịch sử văn học viết VN
a . Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX (còn gọi là Văn học phong kiến, Văn học trung
đại):
Lưu ý: Dưới đây chỉ là một số gợi ý cơ bản, có tính chất định hướng nhằm giúp học
sinh có cái nhìn sơ lược nhất, tổng qt nhất đối với dịng văn học trung đại Việt Nam. Từ
đó, các em có thể vận dụng giải quyết kiểu bài chứng minh các vấn đề liên quan đến dịng
văn học này (Ví dụ: Cảm hứng yêu nước; tinh thần tự hào dân tộc; tình yêu thiên nhiên; giá
trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo; số phận và phẩm chất của người phụ nữ trong văn học
trung đại…).
Văn học trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn THCS có thể phân thành ba
giai đoạn chính:

Giai đoạn 1 (từ thế kỉ X đến XV):
1


Kháng chiến chống giặc ngoại xâm phương Bắc (giặc Tống, Ngun Mơng, Minh)
Nội
dung chủ
Các ý cơ bản cần nhớ
yếu


- có chủ quyền và truyền thống văn
1. Sông núi nước - Hình
ảnh đất
hiến…
Nam
nước
(tương truyền
của Lý Thường
- Cuộc
- chiến đấu chống xâm lược oanh liệt, hào
Kiệt)
sống
hùng…
2. Chiếu dời đô
- yêu nước (căm thù giặc sâu sắc, trằn
(Lí Cơng
- Con
trọc thao thức trước vận mệnh của dân
Uẩn)
người
tộc; có ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc;
dũng cảm, sẵn sàng xả thân …);
3. Hịch tướng sĩ
- tinh thần tự hào dân tộc (về chủ quyền,
(Trần Quốc
về truyền thống đồn kết, nhân nghĩa; về
Tuấn)
lập trường chính nghĩa; về sức mạnh và
chiến thắng vẻ vang của dân tộc…);
4. Bình Ngơ đại

cáo
(Nguyễn
Trãi)
Tác giả - tác
phẩm tiêu biểu

Ghi chú
Mỗi tác phẩm
có thể biểu
hiện nhiều nội
dung
(hoặc nhiều ý,
nhiều khía
cạnh của cùng
một nội
dung… )

* Nét nghệ thuật nổi bật trong các tác phẩm văn học từ thế kỉ X đến XV:
Sử dụng các thể văn cổ (hịch, cáo, chiếu, tấu…), ngôn ngữ trang trọng, nhiều tác phẩm
sử dụng các câu văn biền ngẫu….

Giai đoạn 2 (từ thế kỉ XVI đến XVII):
2


Chế độ phong kiến bắt đầu suy đồi (chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến)…
Tác giả Nội dung chủ
tác phẩm
Các ý cơ bản cần nhớ
yếu

tiêu biểu
Chuyện
- Hình ảnh đất - chiến tranh, loạn lạc
người con nước
- bất ổn, khổ nhục (gia đình chia li)
gái Nam
- Cuộc sống
- đau khổ, bất hạnh,chịu nhiều nỗi oan khiên;
Xương
- đức hạnh, hiếu thảo, thủy chung;
- Con người
(Nguyễn
- khát khao hạnh phúc…
Dữ)
* Nét nghệ thuật nổi bật trong “Chuyện người con gái Nam Xương”- tác phẩm thuộc giai
đoạn văn học thế kỉ XVI - XVII:
Cốt truyện đơn giản nhưng giàu kịch tính, có yếu tố thần kì (mang màu sắc truyện dân
gian), nhiều đoạn được viết theo thể văn biền ngẫu (lời tự bạch của Vũ Nương)…
Giai đoạn 3 (từ thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX):
Chế độ phong kiến mục nát đến tận gốc rễ. Xuất hiện phong trào khởi nghĩa nông dân.
Nội
Tác giả-tác phẩm dung
Các ý cơ bản cần nhớ
tiêu biểu
chủ
yếu
- Hình
- chiến tranh, loạn lạc
1. Sau phút chia li
ảnh đất

nước
2. Bánh trôi nước
3. Qua đèo
Ngang
- bất ổn, đau thương (do các tập đoàn phong kiến tranh
4. Bạn đến chơi nhà
- Cuộc
giành quyền lực; do chế độ xã hội bất công, tàn bạo; do
5. Chuyện cũ
sống
vua chúa ăn chơi hưởng lạc và bọn quan lại nhũng
trong phủ chúa
nhiễu, lộng hành…)
Trịnh
(Phạm Đình Hổ)
- đau khổ, bất hạnh
6. Hồng Lê nhất
thống chí

- Con

- có những tình cảm, phẩm chất, đức tính cao đẹp (hiếu
thảo, thủy chung; tình bạn bè; sẵn sàng hành động vì
3


7. Truyện Kiều

người


nhân nghĩa; có ý thức về nhân cách…);
- khát khao hạnh phúc, tự do, cơng lí…

8. Lục Vân Tiên
* Nét nghệ thuật nổi bật trong các tác phẩm văn học từ thế kỉ XVIII đến cuối XIX:
Nhiều tác phẩm đã đạt đến đỉnh cao nghệ thuật với ngôn ngữ giản dị, trong sáng, gợi
hình, gợi cảm; nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tinh tế; nghệ thuật tả người độc đáo…
b. Từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945 (Văn học cận đại Việt Nam):
- Văn thơ yêu nước của các sĩ phu yêu nước (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…)
- Phong trào thơ mới những năm đầu thế kỉ XX (Vũ Đình Liên, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy
cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính…)
- Dịng văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945 (Ngô Tất Tố, Nam Cao…)
- Văn thơ của các chiến sĩ cộng sản tiên phong (Hồ Chí Minh, Tố Hữu …)
c. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay (Văn học hiện đại Việt Nam):
(Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay)
Lưu ý: Dưới đây chỉ là một số gợi ý cơ bản, có tính chất định hướng nhằm giúp học
sinh có cái nhìn sơ lược nhất, tổng quát nhất về dòng văn học Việt Nam hiện đại. Từ đó, các
em có thể vận dụng giải quyết kiểu bài chứng minh các vấn đề liên quan đến dịng văn học
này (Ví dụ: Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo; hình ảnh cuộc sống mới, con người mới…).
* Nét nổi bật trong các tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam:
- Thể loại đa dạng
- Đề tài phong phú: Những vấn đề thực tế của cuộc sống chung muôn màu muôn vẻ
(đời thường), những tâm tư- tình cảm- băn khoăn- trăn trở của cái “tơi” cá nhân… đã được
phản ánh chân thực và phân tích thấu đáo trong tác phẩm.
- Nội dung tư tưởng, cảm xúc mới mẻ.
- Ngôn ngữ trong sáng, tinh tế, điêu luyện… thể hiện rõ dấu ấn phong cách cá nhân
của nhà văn/nhà thơ trong tác phẩm. Phương thức biểu đạt sáng tạo, mới lạ, độc đáo.

Văn học Việt Nam hiện đại có thể phân thành ba giai đoạn chính:
Giai đoạn 1 (từ 1945 đến 1954): KCCP

4


Tác phẩm
Nội dung chủ
tác giả
Các ý cơ bản cần nhớ
yếu
tiêu biểu
- Hình ảnh đất - Những vùng quê nghèo (nước mặn đồng chua, đất cày lên
1. Đồng
nước
sỏi đá…)
chí
(Chính
Hữu)
2. Làng

- Cuộc sống
- Giữa rừng hoang sương muối và trong vùng kháng chiến
chiến đấu khó
khăn, gian khổ
- u nước+ u đồng chí+ yêu quê hương, làng xóm;
- Con người
- gan dạ, dũng cảm, lạc quan trong đấu tranh cách mạng…

(Kim
Lân)
Giai đoạn 2 (từ 1954 đến 1975): Hồ bình lập lại ở miền Bắc và cơng cuộc đấu tranh giải
phóng miền Nam (Kháng chiến chống Mĩ)

Tác phẩm Nội dung
tác giả
chủ yếu
1. Bài thơ về -Hình ảnh
tiểu TĐXKK đất nước
- Cuộc
sống:
2. Đồn
+ lao
thuyền
động
đánh cá
3. Bếp lửa
4. Khúc hát
ru
những em
bé lớn trên
lưng mẹ
5. Con cò
6. Những
ngôi sao

+ chiến
đấu
- Con
người

Các ý cơ bản cần nhớ
- Giàu, đẹp.
- sôi nổi, hào hùng;

- âm thầm, lặng lẽ.
- gay go, ác liệt.
- làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống;
- có những tình cảm trong sáng (u nước + tình đồng chí,
đồng đội; tình gia đình + tình u cách mạng …);
- có những phẩm chất, đức tính cao đẹp
(hăng say lao động; anh hùng, dũng cảm; sẵn sàng hi sinh
vì sự nghiệp chung; lạc quan; khiêm tốn; nhân hậu; nghĩa
tình …trong cuộc sống chiến đấu và lao động);
- có lí tưởng cao đẹp, sáng ngời: Tất cả vì hạnh phúc nhân
dân, vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất nước nhà”
5


xa xôi
7. Lặng lẽ Sa
Pa
8. Chiếc
lược ngà

Giai đoạn 3 (từ 1975 đến nay): Đất nước thống nhất và những vấn đề thời hậu chiến
Tác phẩm Nội
tác giả tiêu biểu dung
1. Mùa xn nho Hình
nhỏ
ảnh
2. Viếng lăng
đất
Bác

nước
3. Sang thu
Con
4. Nói với con
người
5. Con cò

6. Ánh trăng

Các ý cơ bản cần nhớ
- thơ mộng, tươi đẹp; đầy sức sống; đang tiến lên phía
trước, đang thay da đổi thịt từng ngày …
- có lẽ sống cao đẹp: âm thầm, khiêm tốn, lặng lẽ cống
hiến cho cuộc đời…;
-yêu nước, yêu thiên nhiên, yêu quê hương, u kính lãnh
tụ;
- tình cảm gia đình;
- con người trong mối quan hệ đa chiều: con người với
công cuộc xây dựng lại đất nước; con người với thiên
nhiên; con người trong mối quan hệ gia đình; con người
hiện tại trong mối quan hệ với quá khứ…
- tình nghĩa thủy chung với quá khứ;
- cô đơn, trống trải trong cuộc sống thực tại với nỗi buồn
thầm kín, với nỗi ân hận day dứt về những lỗi lầm của bản
thân…

7. Bến quê
4. Các chủ đề lớn trong văn học trung đại Việt Nam:
a. Tình u thiên nhiên:
* Bài ca Cơn Sơn (Nguyễn Trãi)

* Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan)
6


* Các đoạn thơ tả cảnh trong Truyện Kiều
+ Nội dung biểu hiện: Ca
ngợi cảnh đẹp thiên nhiên (mỗi bài thơ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp).Thể hiện sự
hòa nhập của con người vào cảnh vật. Tả cảnh ngụ tình (mượn cảnh vật để bộc lộ tâm trạng,
nỗi niềm, cảm xúc của con người…).
b. Cảm hứng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc:
* Sông núi nước Nam (tương truyền của Lí Thường Kiệt)
* Chiếu dời đơ (Lí Cơng Uẩn)
* Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)
* Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
+ Nội dung biểu hiện: Tự hào về độc lập chủ quyền của đất nước; về truyền thống văn
hiến và phong tục tập quán tốt đẹp; về truyền thống nhân nghĩa của dân tộc ta. Tự hào về
lập trường chính nghĩa và tinh thần đồn kết của dân tộc ta. Lòng yêu nước nồng nàn/ căm
thù giặc sâu sắc; tâm trạng thao thức trước vận mệnh của nước nhà; nung nấu ý chí quyết
tâm tiêu diệt giặc.
c. Tư tưởng nhân đạo:
* Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ)
* Truyện Kiều (Nguyễn Du)
* Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu)
+ Nội dung biểu hiện: Lên án, tố cáo chế độ phong kiến bất công, tàn bạo; chà đạp lên
quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Cảm thông trước nỗi thống khổ và số
phận đau thương, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Ca ngợi những đức tính
và phẩm chất tốt đẹp của con người. Thể hiện ước mơ tự do, cơng lí; ước mơ về một xã hội
tốt đẹp.
5. Hình ảnh cuộc sống mới, con người mới trong văn học hiện đại Việt Nam (từ sau
Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay):

Dòng văn học hiện đại Việt Nam (từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay) chủ
yếu tập trung vào đề tài cuộc sống mới và con người mới.
a. Hình ảnh cuộc sống mới trong văn học hiện đại Việt Nam:
- Cuộc sống chiến đấu:
+ KCCP (giành độc lập chủ quyền dân tộc)
+ KCCM (đấu tranh giải phóng MN, thống nhất
- Cuộc sống lao động: + Xây dựng đất nước sau khi hịa bình lập lại ở miền B. + Xây
dựng đất nước sau ngày toàn thắng 30/4/1975
b. Hình ảnh con người mới trong văn học hiện đại VN:
- Lẽ sống cao quý:
+ Trong chiến đấu, sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do, vì sự nghiệp giải phóng miền
Nam thống nhất nước nhà
+ Trong lao động, nhiệt tình hăng say làm đẹp cuộc đời, tự nguyện cống hiến lặng lẽ
âm thầm vì hạnh phúc nhân dân
+ Ân nghĩa thủy chung
7


- Tình cảm trong sáng: + Yêu quê hương đất nước.+ Tình đồng bào/ đồng chí/ lịng kính
u lãnh tụ
+ Tình cảm gia đình
+ Lịng nhân ái, bao dung
+ Lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống
- Đức tính tốt đẹp: + Cần cù, say mê lao động (có tinh thần trách nhiệm đối với công việc)
+ Gan dạ, dũng cảm (anh hùng) + Khiêm tốn + Trung thực

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG – NGUYỄN DỮ
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
– Nguyễn Dữ người huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

– Ơng là học trị giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
8


– Sống trong cảnh chế độ phong kiến mục nát, “dông bão nổ trăm miền”, xã hội là cái “vực
thẳm đời nhân loại” chỉ thấy “bóng tối đùn ra trận gió đen”, nên sau khi đỗ hương cống,
Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn. Đó là hình thức bày tỏ thái độ chán nản
trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra khơng gặp thời.
2. Tác phẩm:
a. “Truyền kì mạn lục”:
– Là ghi chép tản mạn về những điều kì lạ vẫn được lưu truyền.
– Viết bằng chữ Hán, được xem là “Thiên cổ kì bút” ( áng văn hay ngàn đời ).
– Gồm 20 truyện, đề tài phong phú.
– Nhân vật:
+ Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát sống cuộc sống yên
bình , hạnh phúc, nhưng lại bị những thế lực tàn bạo và lễ giáo phong kiến nghiệt ngã đẩy
họ vào những cảnh ngộ éo le, bi thương, bất hạnh vì oan khuất.
+ Hoặc một kiểu nhân vật khác, những trí thức tâm huyết với cuộc đời nhưng bất mãn với
thời cuộc, không chịu trói mình trong vịng danh lợi,sống ẩn dật để giữ được cốt cách thanh
cao.
b. Văn bản:
– “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyền thứ 16, có nguồn gốc từ một truyện cổ tích
Việt Nam có tên là “Vợ chàng Trương”.
– So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, “Chuyện người con gái Nam Xương” phức tạp
hơn về tình tiết và sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn.
3. Tóm tắt văn bản:
“Chuyện người con gái Nam Xương” viết về một cuộc đời, một số phận đầy oan khuất của
một thiếu phụ tên là Vũ Thị Thiết. Đó là người con gái thùy mị, nết na, đức hạnh và xinh
đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng
dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ.Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ bóng mình trên tường mà

bảo đó là cha nó.Khi Trương Sinh về, lúc đó mẹ già đã mất, đứa con bấy giờ đang tập nói,
ngây thơ kể với chàng về người đêm đêm vẫn đến nhà chàng. Sẵn có tính hay ghen, nay
thêm hiểu lầm, Trương Sinh mắng nhiếc đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng
Giang tự vẫn. Khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn,chàng lập đàn giải oan
cho nàng.
4. Bố cục: 3 phần:
– Phần 1: Từ đầu đến…”lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”:Cuộc hơn nhân giữa Trương
Sinh và Vũ Nương, những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương.
9


– Phần 2: Tiếp đến …”nhưng việc trót đã qua rồi!” : Nỗi oan của Vũ Nương.
– Phần 3: Còn lại : Vũ Nương được giải oan.
II. Đọc – hiểu văn bản:
1. Nhân vật Vũ Nương:
a. Vẻ đẹp phẩm chất:
– Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết
na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hồn hảo.
– Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ
khác nhau, trong các tình huống khác nhau.
* Trước hết Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắc trong tình nghĩa vợ chồng:
– Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng ln “giữ gìn
khn phép, khơng từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hịa”. Nàng ln giữ cho tình
cảm gia đình đầm ấm, yên vui.Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng
mực!
– Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải
đầu quân ra trận ở biên ải xa xơi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn
dị chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng
dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo đượchai
chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ

nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi cơng danh phù phiếm. Nàng
cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phảichịu đựng: “Chỉ e việc qn
khó liệu, thế giặc khơn lường.Giặc cuồng cịn lẩn lút, qn triều cịn gian lao, rồi thế chẻ tre
chưa có, mà mùa dưa chín q kì, khiến thiếp ơm nỗi quan hồi, mẹ già triền miên lo
lắng.”.Qua lời nói dịu dàng,nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn
trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức
tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ khơng có cánh hồng bay
bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy
giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa,
thật đáng trân trọng biết bao!
– Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trơng đến thổn thức “Giữ trọn tấm
lịng thủychung, son sắt”, “tơ son điểm phấn từng đã ngi lịng, ngõ liêu tường hoa chưahề
bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che
kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời khơng thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng,
vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cơ đơn vị
võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những
người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
10


“… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằngtrời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nàoxong…”
(Chinh phụ ngâm)
=> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương,
vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
– Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người
chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã
viện đến cả thân phận và tấm lịng của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó
được nương tựa nhà giàu…..cách biệt ba năm giữ gìn một tiết…..” Những lời nói nhún

nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm
tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của VũNương.
– Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không
nguôi nỗi thương nhớ chồng con. Vừa gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình
cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với
Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm
lịng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không gợn chút thù hận, chỉ có sự u
thương và lịng vị tha.
* Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, một người mẹ hiền đầy
tình yêu thương con.
– Trong ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm
mẹ để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, ni dạy con thơ.
– Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo.Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng
phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời
khôn khéođể khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớthương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời
thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể
cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu
thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống
dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ
mẹ”.
– Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh
bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng
việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ
tấm lòng của người mẹ : để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người
cha.
11


=> Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện,
từ đó khắc họa thành cơng hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.

b. Số phận oan nghiệt, bất hạnh:
* Là nạn nhân của chế độ nam quyền, một xã hội mà hơn nhân khơng có tình u và tự do.
– Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương là thua thiệt về vị thế. Cuộc hơn
nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần khơng bình đẳng. Vũ Nương “vốn con kẻ
khó” cịn Trương Sinh lại là “nhà giàu” đến độ khi muốn Sinh có thể xin mẹ trăm lạng vàng
để cưới Vũ Nương về. Sự cách bức giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và cũng
là cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thơ bạo, gia trưởng với nàng.
* Là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:
– Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân củachế độ phụ quyền phong
kiến mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến , củacuộc nội chiến huynh đệ tương
tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúc,cuộc sống vợ chồng kéo dài chưa được
bao lâu thì chàng phải đi lính để lại mình Vũ Nương với mẹ già và đứa con còn chưa ra đời.
Suốt ba năm, nàng phải gánh vác trọng trách gia đình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già,
chăm sóc con thơ, phải sống trong nỗi nhớ chồng triền miên theo năm tháng.
– Chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất
hạnh. Đó cũng là ngịi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển,
dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương.
* Đỉnh điểm của bi kịch là khi gia đình tan vỡ, bản thân phải tìm đến cái chết.
– Là người vợ thuỷ chung nhưng nàng lại bị chồng nghi oan và đối xử bất công, tàn nhẫn.
– Nghe lời ngây thơ của con trẻ Trương Sinh đã nghi oan cho vợ, mắng nhiếc, đánh đuổi
nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng xóm.
– Vũ Nương đau đớn vơ cùng vì tiết giá của mình bị nghi kị, bơi bẩn bởi chính người chồng
mà mình u thương.
– Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau
khổ, oan nghiệt.
* Cái kết thúc tưởng là có hậu hố ra cũng chỉ đậm tơ thêm tính chất bi kịch trong
thân phậnVũ Nương.
– Lược thuật lại kết thúc tác phẩm.
– Phân tích:
+ Có thể coi đây là một kết thúc có hậu, thể hiện niềm mơước của tác giả về một kết thúc

tốt lành cho người lương thiện, niềm khát khaomột cuộc sống công bằng nới cái thiện cái
đẹp sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác.
12


+ Nhưng sâu xa, cái kết thúc ấy không hề làm giảm đi tính chất bi kịch của tác phẩm. Vũ
Nương hiện về uy nghi, rực rỡ nhưng đó chỉ là sự hiển linh trong thoáng chốc, là ảo ảnh
ngắn ngủi và xa xơi. Sau giây phút đó nàng vẫn phải về chốn làng mây cung nước, vợ
chồng con cái vẫn âm dương đôi ngả. Hạnh phúc lớn nhất đời người đàn bà ấy là được sum
họp bên chồng bên con cuối cùng vẫn không đạt được. Sự trở về trong thoáng chốc và lời từ
biệt của nàng đã hé ra cái sự thực cay đắng là cái nhân gian đầy oan nghiệt, khổ đau này
khơng có chốn dung thân cho người phụ nữ vì thế mà “Thiếp chẳng thể trở lại chốn nhân
gian được nữa”.
=> Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải chịu một số phận
cay đắng, oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất cơng
phi lí đương thời chà đạp lên hạnh phúc của con người.
=> Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn
đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thơng thương xót cho số phận
bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất cơng, phi lí chà đạp, rẻ
rúng con người đặc biệt là người phụ nữ. Có lẽ chưa cần nhiều, chỉ cần khai thác chân dung
Vũ Nương đã đủ thấy chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Dữ.
? Câu hỏi: Theo em, những lí do nào đã dẫn đến bi kịch oan khuất mà VũNương phải
chịu?
=> Gợi ý:
– Gây nên nỗi oan nghiệt trong cuộc đời Vũ Nương trước hết là lời nói ngây thơ của con trẻ
nhưng sau đó là là tính ghen tng của người chồng đa nghi vũ phu. Lời con trẻ thì ngây thơ
vơ tội nhưng lịng ghen tng của người lớn thì cố vin theo để hắt hủi, ruồng rẫy cho hả dạ.
(Trực tiếp)
– Nhưng nói cho cùng Trương Sinh phũ phàng với vợ là do bản tính anh ta vốn vậy và cịn
vì đằng sau anh ta có sự hậu thuẫn của cả một chế độ nắm quyền trọng nam khinh nữ. Lễ

giáo phong kiến hà khắc cho người đàn ông quyền hành vô độ với gia đình mình đặc biệt là
với người phụ nữ cho nên không phảingẫu nhiên Hồ Xuân Hương đã so sánh phụ nữ với
chiếc bánh trôi nước “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” bởi lẽ trong xã hội nam quyền ấy thì đàn
ơng quả thực làthượng đế có thể “nặn” ra hình dáng cuộc đời của người phụ nữ. Trương
Sinh đã là một tội nhân bức tử Vũ Nương nhưng cuối cùng y vẫn vô can ngay cả khi nỗi oan
khiên cuả Vũ Nương đã được làm sáng tỏ. (Gián tiếp)
– Ngồi ra cũng cịn phải tính đến nhân tố khác cấu thành bi kịch Vũ Nương đó là chiến
tranh phong kiến, chính chiến tranh phong kiến đã gây nên cảnh sinh li và sau đó góp phần
tạo nên cảnh tử biệt. Nếu khơng có cảnh chiến tranh loạn li thì sẽ khơng xảy ra tình huống
chia cách để rồi dẫn đến bi kịch oan khuất trên.(Gián tiếp)

13


– Liên hệ với thời điểm ra đời của tác phẩm là thế kỉ XVI khi chiến tranh phi nghĩa giữa các
tập đoàn phong kiến Trịnh – Mạc, Lê – Trịnh kéo dài liên miên gây nên bao thảm cảnh sẽ
thấy ý nghĩa hiện thực và hàm ý tốcáo của tác phẩm rất sâu sắc.
2. Các chi tiết kì ảo:
a. Những chi tiết kì ảo:
– Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
– Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi yến vàgặp, trò chuyện với Vũ Nương;
được trở về dương thế.
– Vũ Nương hiện về sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang.
b. Ý nghĩa:
– Tăng sức hấp dẫn bằng sự li kì và trí tượng tượng phongphú.
– Hồn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của Vũ Nương, một người dù đã ở thế giới khác,
vẫn quan tâm đến chồng con, nhà cửa, phần mộ Tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.
– Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự
cơng bằng: người tốt dù có phải trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được minh oan.
– Khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với sự bi thảm của người phụ nữ trong xã

hội phong kiến.
3. Ý nghĩa chi tiết cái bóng:
a. Cách kể chuyện:
– Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo làm cho câu chuyện
hấp dẫn hơn so với truyện cổ tích.
– Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút là nó, mà mở nút cũng là nó.
b. Góp phần thể hiện tính cách nhân vật:
– Bé Đản ngây thơ
– Trương Sinh hồ đồ, đa nghi.
– Vũ Nương yêu thương chồng con.
c. Cái bóng góp phần tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên hạnh phúc của
người phụ nữ vốn đã hết sức mong manh.
Tham khảo đoạn văn sau:
Trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, chi tiết cái bóng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong cách kể chuyện(1). “Cái bóng” có ý nghĩa thắt nút và mở
nút câu chuyện (2). Trong những ngày chồng đi xa, vì thương nhớ chồng, vì khơng muốn
14


con nhỏ thiếu vắng tình cảm của người cha, nên hàng đêm Vũ Nương chỉ bóng mình trên
tường, nói dối con đó là cha nó(3). “Cái bóng” đã nói lên tình yêu sâu nặng mà nàng dành
chồng, bởi nàng coi mình là hình cịn chồng là bóng, gắn bó khơng rời dù xa vời cách trở!
(4). “Cái bóng” cịn là tấm lòng của người mẹ, nhắc nhở con về người cha nó chưa từng gặp
mặt(5). Ngờ đâu, lịng thủy chung và sự hi sinh âm thầm của nàng lại phải trả giá bằng cái
chết bi thảm(6). Bé Đản mới ba tuổi, còn ngây thơ, chưa hiểu hết những điều phức tạp nên
đã tin là có một người cha đêm nào cũng đến, mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng nín
thít và khơng bao giờ bế nó nên khi Trương Sinh hỏi đã trả lời: “Thế ông cũng là cha tơi
ư?”(7). Lời nói của bé Đản về người cha khác (chính là cái bóng) đã làm nảy sinh sự nghi
ngờ vợ không chung thủy, nảy sinh thái độ ghen tng của Trương Sinh và chàng lấy đó
làm bằng chứng để về nhà mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ Nương đi, đẩy nàng đến cái chết đầy

oan ức(8). Ngòi bút nhà văn xót xa đau đớn, thể hiện sâu sắc trái tim nhân đạo của ơng(9).
Chung với tấm lịng dân gian, Nguyễn Dữ đau cùng nàng Vũ Nương tội nghiệp, bất hạnh:
“Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”….”(10).
Bao nhiêu là đau đớn trong lời kêu than của Vũ Nương!(11).“Cái bóng” cũng là chi tiết mở
nút câu chuyện(12). Chàng Trương sau này hiểu ra nỗi oan của vợ cũng chính là nhờ cái
bóng của mình trên tường(13). Bao nhiêu nhiêu nghi ngờ, oan ức của Vũ Nương đều được
hóa giải nhờ “cái bóng”(14). Chính cách thắt, mở nút câu chuyện bằng chi tiết “cái bóng”
đã làm cho cái chết của Vũ Nương thêm oan ức; giá trị tố cáo xã hội bất cơng đương thời,
cái xã hội mà ở đó người phụ nữ khơng thể có hạnh phúc, càng thêm sâu sắc hơn(15).
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người
con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ
nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.
2. Nghệ thuật:
Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật xây dựng truyện, miêu tả
nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.

GIÁ TRỊ CỦA CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI N. XƯƠNG
1.Giá trị nội dung:
Giá trị hiện thực: “Chuyện người con gái Nam Xương”phản ánh cuộc sống xã hội Việt
nam cuối thế kỉ XVI. Có thể nói đây là bức tranh thu hẹp của một xã hội đầy biến động...Xã
hội loạn li, gia đình li tán. Xã hội bất cơng, quyền sống của con người bị chà đạp.
Giá trị nhân đạo: Thái độ của nhà văn Nguyễn Dữ trước hiện thực xã hội, trước số phận
đau thương bất hạnh của con người:
15


Cảm thơng vớo nỗi đau khổ, xót thương cho nỗi bất hạnh của con người, đặc biệt là người
phụ nữ :  lên án xã hội bất công, lên án chiến tranh... yêu thương, trân trọng, đề cao đức

tính, phẩm chất tốt đẹp của con người(tình cảm gia đình và lịng thủy chung). Ước mơ về
một xã hội cơng bằng , tốt đẹp: người lương thiện sẽ được hạnh phúc, con người đối xử với
nhau tình nghĩa...
2.Giá trị nghệ thuật:
-Nghệ thuật kể chuyện (ngơn ngữ kể chuyện sinh động, bình dị, có nhiều chi tiết độc đáo,
bất ngờ...):
-Nghệ thật xây dựng nhân vật (Vũ Nương) Thông qua miêu tả cử chỉ, lời nói, hành động và
tâm trạng của nhân vật, nhà văn đã làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp của nhân vật: + Hiếu thảo
+ Thương con + yêu chồng, thủy chung + Trọng danh dự, giữ gìn phẩm giá
- Yếu tố kịch tính trong câu chuyện: Nghệ thuật thắt nút và kết thúc truyện độc đáo( Lời nói
ngây thơ, hồn nhiên của bé Đản là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết opan nghiệt của
Vũ Nương và đó cũng chính là lời minh oan cho nàng).
-Yếu tố thần kì, hoang đường tronmg truyện: Đoạn kết của truyện (Vũ Nương gặp Phan
Lang dưới thủy cung) làm cho câu chuyện hấp dẫn, thể hiện ước mơ của nhân dân về một
xã hội tốt đẹp, ấm áp tình người. Nơi đó, người hiền đứx được sống hạnh phúc.

BÀI VIẾT THAM KHẢO
Không phải đến Truyện Kiều của Nguyễn Du số phận người phụ nữ mới được quan
tâm, mà ngay từ thế kỷ XVI với Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Du đã cảm
thơng, xót thương sâu sắc cho cuộc đời bất hạnh của những kiếp hồng nhan trong xã hội
phong kiến phụ quyền.
Gần năm thế kỷ đã qua đi nhưng Chuyện người con gái Nam Xương và số phận bất
hạnh của vũ Thị Thiết vẫn ám ảnh người đọc. Bao thế hệ độc giả đã xót thương thơng cảm
cho cuộc đời người phụ nữ đức hạnh, hiếu nghĩa, thủy chung mà cuối cùng phải nhận cái
chết oan uổng. Chuyện người con gái nam Xương chia làm ba phần đều tập chung kể về
cuộc đời bất hạnh của Vũ Thị Thiết – người con gái quê ở Nam Xương.
16


Phần thứ nhất kể về cuộc đời Vũ nương từ khi lập gia đình đến trước khi chồng

nàng trở về từ chiến trường. Phần này chủ yếu miêu tả làm nổi bật đức hạnh, phẩm chất
tốt đẹp của Vũ Thị Thiết. Phần tiếp theo tập trung kể về bi kịch và nỗi oan khuất của Vũ
Nương từ khi Trương Sinh trở về đến khi nàng trẫm mình xuống bến hồng Giang. Phần
cuối cùng có thể coi là vĩ thanh của tác phẩm, kể về cuộc sống của Vũ Thị Thiết dưới thủy
cung.
Vũ Thị Thiết là người phụ nữ hoàn hảo, nàng có đầy đủ những phẩm chất đáng quý
của một người phụ nữ, theo tiêu chuẩn của lễ giáo, đó là cơng, dung, ngơn, hạnh. Trong
từng hồn cảnh, những phẩm chất, đức tính ấy được bộc lộ theo những cấp độ khác
nhau. Ngay từ đầu tác phẩm, nàng được giới thiệu là một người con gái “thùy mị, nết na,
lại thêm tư dung tốt đẹp”,Cũng vì cảm mến dung nhan của nàng mà Trương Sinh – một
chàng trai vốn rất đa nghi đã xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Sống bên người chồng
ln phịng ngừa thái q, nàng lại là người vợ đoan trang, khéo léo chừng mực và khn
phép, nhờ đó mà vợ chồng chưa từng xảy ra bất hòa. Sự khéo léo, chuẩn mực của nàng
dường như đã hóa giải được tích cách của trương Sinh nếu như chàng khơng phải ra trận.
Thế nhưng tính đa nghi ấy đã mầm mống, mầm mống ấy lại được không gian xa cách và
thời gian cách trở đằng đẵng ba năm vun thêm khiến nó trở thành nguyên nhân trực tiếp gây
nên bất hạnh của cuộc đời Vũ Thị Thiết.
Giặc Chiêm sang xâm lược, Trương Sinh phải ra trận, buổi chia li, rót chén rượu tiễn
đưa, nàng dặn dị chồng bằng những lời đằm thắm, thiết tha: “…thiếp chẳng dám mong đeo
được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ
bình an… ”Những lời tình nghĩa ấy thể hiện tình yêu thương, sự lo lắng của nàng đối với
chồng. Tình yêu ấy vượt lên trên ước mong vinh hoa phú quý, ước mong lập tước phong
hầu vốn rất quen thuộc trong tâm tư những người vợ có chồng ra trận xưa kia.
Chồng ra trận, nàng một mình ni mẹ già con thơ. Đằng đẵng tháng đợi ngày chờ,
sự xa cách càng tơ đậm tấm lịng thủy chung, son sắt đối với chồng và đức tính hiếu
nghĩa ,ân tình đối với mẹ chồng của nàng.
Thời gian cứ trôi đi , “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn
góc bể chân trời khơng thể nào ngăn được”. “bướm lượn đầy vườn ”là khi xuân sang, “mây
che kín núi ” chỉ lúc đơng về. Thời gian cứ chảy trôi, trôi chảy không ngừng nhưng bất cứ
lúc nào lịng Vũ Thị Thiết cũng hướng tới chồng, đó là biểu hiện của tấm lòng thủy chung,

son sắt và nỗi nhớ thương khôn cùng của người vợ trẻ.
17


Trương Sinh ra trận, mẹ già vì quá nhớ mong con mà sinh ốm, Vũ Nương hết lịng
chăm sóc, thuốc men lại lựa lời ngọt ngào, khôn khéo mà khuyên lơn. Tấm lòng hiếu nghĩa
của nàng đã khiến mẹ chồng vô cùng cảm động, bà tin rằng ông trời kia
rồi sẽ đền đáp cho tấm lòng của nàng, “xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ
mẹ”. Mẹ chồng qua đời, nàng vơ cùng thương xót, “ việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với
cha mẹ đẻ ”. Vũ Nương không chỉ là người con dâu hiếu thảo, nàng cịn là một người ân
tình, có trước có sau, vẹn nghĩa chọn tình. Nhưng bà mẹ đã khơng thể chứng nhận cho tấm
lịng của con dâu, niềm tin mộc mạc của bà vào triết lý ở hiền gặp lành không trở thành hiện
thực. Những phẩm chất của Vũ Nương được miêu tả trong phần một này càng khiến cho nỗi
oan khuất của nàng thêm phần chua xót. =>Cả phần một tác giả tập trung làm nổi bật
những phẩm chất quý báu của Vũ Nương, nàng không chỉ thùy mị, nết na và cịn vơ cùng
đoan trang, khéo léo, đối với chồng nàng vừa khuôn phép, lễ độ lại vừa đằm thắm thiết tha,
thủy chung son sắt ; đối với mẹ chồng nàng là người dâu hiếu thảo, hiếu nghĩa vẹn toàn.
Với bấy nhiêu điều tốt đẹp ấy nàng xứng đáng được hưởng một hạnh phúc trọn vẹn, nhưng
ông trời thật oan nghiệt. Bao nhiêu chờ đợi, bao nhiêu mong nhớ và bấy nhiêu tiết nghĩa
thủy chung để rồi nàng chỉ nhận lại những cay đắng, oan trá. Đắng cay ấy càng chua xót
hơn khi chúng lại do chính người thân yêu nhất của nàng – Những người mà nàng hi sinh
hết mực, tôn thờ hết mực- mang lại trong ngày đoàn tụ- ngày mà nàng đằng đẵng đợi chờ
suốt ba năm.
Giặc tan, Trương Sinh trở về bình an đúng như ước nguyện của nàng ba năm trước
nhưng cũng từ đây giấc mộng sum họp với thú vui nghi gia nghi thất của nàng tan vỡ. cùng
với tin mẹ qua đời, trương Sinh nhận thêm một mối ngờ vực.: đứa con khơng nhận cha. Nó
ngây thơ hỏi: “Ơ hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ơng lại biết nói, chư khơng như cha tơi
trước kia chỉ nín thin thít.” Như vậy là nó đã có một người cha khác trước khi trương sinh
trở về. Câu chuyện mỗi lúc lại thêm kịch tính, Trương Sinh gặng hỏi, Đản cung cấp thên
thơng tin: ‘có một người đàn ông đêm nào cũng đến,mẹ Đản đi cũng đi, mẹ đản ngồi cũng

ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế đản cả ’. Một đứa trẻ đang học nói thì khơng biết nói dối,
Trương Sinh quá tin vào câu “ra đường hỏi già về nhà hỏi trẻ ”lại thêm vốn tính đa nghi
chàng không đủ tỉnh táo để suy xét, chàng đinh ninh rằng vợ hư hỏng. Bỏ ngoài tai những
lời van xin, thanh minh rướm máu của vợ, bỏ ngoài tai lời bênh vực, biện bạch của hàng
xóm, chàng khơng cho vợ cơ hội được giãi bày và kiên quyết không cho vợ biết ai đã nói ra
thơng tin đó. Là kẻ thất học lại đa nghi, chàng không đủ cao thượng để nói ra cơn ghen
tng khiến chàng u mê, lú lẫn, chàng kiên quyết không cho vợ cơ hội “chạy tội”. vì thế
18


chàng chỉ biết “la um cho hả giận”rồ “lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng và
đánh đuổi đi.”
Chuyện oan uổng ấy với vũ Nương hoàn toàn bất ngờ, nàng vơ cùng trong trắng, thủy
chung, một lịng một dạ với chồng, nàng không thể biết được nỗi oan ấy do đâu và vì thế
nàng khơng thể giãi bày, thanh minh được. Nàng có biết đâu rằng chính những người thân
yêu nhất của nàng đã đẩy nàng vào hoàn cảnh thương tâm ấy. bây giờ Vũ Nương đã mất tất
cả “chồng con rẫy bỏ tiếng chịu nhuốc nhơ”, niềm vui nghi gia nghi thất nhỏ nhoi bình dị đã
tan vỡ. Nguyên nhân trực tiếp của nỗi oan thấu trời ấy là từ sự ngây thơ của con nàng, từ sự
đa nghi thái quá của chồng nàng. Nhưng sâu xa hơn, gây lên bi kịch cho nàng có sự tiếp tay
vơ hình nhưng cực kì quyền uy của cả một chế độ xã hội. Chế độ phong kiến phụ quyền từ
chối mọi thứ quyền làm chủ của người phụ nữ. Vũ Thị Thiết và biết bao người con gái khác
không được quyền bảo vệ mình, khơng được quyền quyết định hạnh phúc cho chính mình.
Chế độ phong kiến trọng nam khinh nữ dung túng cho sự tàn nhẫn, hồ đồ, vũ phu của người
đàn ông. Những người phụ nữ mảnh dẻ yếu ớt chỉ có một cách duy nhất để chứng minh tấm
lịng trinh bạch của mình đó là tìm đến cái chết. Vũ Nhương trẫm mình xuống dịng sơng
q hương để bảo vệ danh tiết của mình những mong thần tiên linh thiêng chứng giám cho
một tấm lòng trong sáng, oan khuất. Thế nhưng khi nỗi oan được giải, khi Trương Sinh tỉnh
ngộ thì tất cả đã muộn, hạnh phúc thực của Vũ nương nơi trần thế đã chấm dứt, nàng đã mất
tất cả .
Nếu đặt tác phẩm trong hoàn cảnh xã hội thời nguyễn Dữ, khi chế độ phong kiến

đang trong cơn khủng hoảng, thì cái chết của Vũ Nương là điều khơng tránh khỏi – một
mình nàng chống sao nổi cả một chế độ xã hội . Nhưng dường như khơng đang tâm với kết
thúc đau xót ấy, Nguyễn Dữ đưa thêm vào tác phẩm phần ba với những yếu tố kì ảo. Truyện
cổ tích Vợ chàng Trương dừng ở chi tiết bé Đản chỉ bóng Trương sinh trên tường và bảo
cha đã về, khi ấy chàng tỉnh ngộ nhưng mọi việc đã rồi. Chuyện người con gái Nam Xương
của Nguyễn Dữ thêm vào đoạn sau : Sau khi đi tự vẫn, Vũ Nương được tiên cung cứu sống ,
nàng ở lại thủy cung rồi gặp Phan Lang là người cùng làng, Phan Lang trước nhờ thả con
rùa mai xanh chính là vợ vua biển Nam Hải nên khi chạy loạn chết đuối cũng được Linh Phi
cứu sống. Qua Phan Lang, Vũ Thị Thiết nhắn chàng Trương Sinh nếu cịn chút tình xưa thị
lập đàn giải oan cho nàng trên bến Hoàng Giang, nàng sẽ trở về.
Khác với 19 truyện cịn lại của truyền kì mạn lục, trong chuyện người con gái nam
Xương, yếu tố kì ảo không tham gia vào diễn biến cốt chuyện mà tách hẳn thành một phần
riêng . Phần này làm giảm đi tích chất bi kịch của câu chuyện đồng thời cũng phản ánh
19


mong muốn của độc giả về một kết thúc có hậu hơn cho Vũ Thị Thiết, mong muốn nàng
được đền đáp ở một thế giới khác, thế giới thần tiên lộng lẫy, sang trọng và hẳn là khơng
cịn khổ đau. Nhưng với Vũ nương liệu đó có phải là hạnh phúc không khi nàng vẫn canh
cánh nỗi nhớ nhà, nhớ chồng con, cha mẹ và cả niềm khao khát được rửa tiếng oan?
Chi tiết kì ảo nhưng nó lại mang đậm nhất giá trị hiện thực. Yếu tố kì ảo không làm
thay đổi được hiện thực tàn nhẫn đang diễn ra trong tác phẩm. Chàng Trương Sinh dẫu có
lập đàn giải oan ba ngày ba đêm cũng không chuộc được lỗi lầm của mình. Cịn Vũ Thị
Thiết, nàng vĩnh viễn không trở về nhân gian được nữa dẫu cho tấm lịng vẫn tha thiết nhớ
thương q hương, gia đình. Bởi vì cái xã hội mà nàng vừa thốt ra ấy tuồng như không
dung chứa nổi cái đẹp, sự trong trắng và đức thủy chung, nó ghen ghét đố kị, hãm hại
những người phụ nữ trong trắng mà yếu ớt, nhỏ nhoi. Điều kì ảo vẫn khơng làm thay đổi
đượchiện thực thì hiện thực ấy càng trở nên ám ảnh, đau xót và đó phải chăng chính là
thành cơng của Nguyễn Dữ so với tác giả dân gian?
Khéo léo trong cách dẫn dắt tình tiết, diễn biến câu chuyện, Nguyễn Dữ đã xây dựng

thành công một tác phẩm không chỉ giàu kịch tính mà cịn chân thực, sống động. Lời trần
thuật khách quan của tác giả khiến câu chuyện xảy ra tự nhiên, hợp lí.
Qua câu chuyện thương tâm về cuộc đời và cái chết oan khuất của Vũ Nương người
con gái đức hạnh vẹn toàn Nguyễn Dữ đã bộc lộ niềm cảm thông, sẻ chia sâu sắc với số
phận bất hạnh của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến phụ quyền, đồng thới tác phẩm
cũng đã khảng định, tin tưởng vào vẻ đẹp tâm hồn bền vững và những đức tính truyền
thống quý báu của họ. CNCGNX của Nguyễn Dữ nói chung sẽ cịn sống mãi với thời gian
bởi giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và những thành cơng nghệ thuật của nó.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở
''Chuyện người con gái Nam Xương'' của Nguyễn Dữ
Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện hay trong Truyền kỳ mạn lục, một
tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt Nam. Truyện
phản ánh một vấn đề bức thiết của xạ hội, đó là thân phận của người nơng dân nói chung và
người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến. Thế lực bạo tàn và lễ giáo phong kiện khắt
khe đã chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ, mặc dù họ là những người phụ nữ đáng trân
trọng trong gia đình và xã hội.
Câu chuyện kể về cuộc đời và số phận của Vũ Nương – một người, con gái nết na,
thùy mị. Chồng nàng lá Trương Sinh, con nhà giàu có nhưng ít học, vốn tính đa nghi, đối
với vợ thường phòng ngừa quá mức. Trương Sinh lấy Vũ Nương khơng phải vì tình u mà
20


chỉ vì cảm mến dung hạnh, để rồi khơng có sự chan hịa, bình đẳng trong cuộc hơn nhân đó.
Mầm mống bi kịch của cuộc đời Vũ Nương bắt đầu từ đây.
Mặc dù chồng là người lạnh lùng, khô khan, ích kỉ nhưng Vũ Nương luôn đảm đang,
tháo vát, thủy chung. Nàng khát khao hạnh phúc gia đình, mong muốn êm ấm thuận hịa
nên ln giữ gìn khn phép, ăn nói chừng mực. Khi chồng đi lính, Vũ Nương đã tiễn
chồng bằng những lời mặn nồng, tha thiết: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong
đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ
bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc qn khó liệu, thế giặc khơn lường. Giặc cuồng còn lẩn

lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện
thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Thật xúc động với tình cảm cửa người vợ hiền trước lúc
chồng đi xa. Tình cảm ấy đã làm mọi người rơi lệ.
Không chỉ là người vợ hiền, Vũ Nương cịn là một nàng dâu hiếu thảo. Nàng chăm
sóc chu đáo mẹ chồng, hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng như mẹ đẻ của nàng vậy. Chồng đi
lính khi nàng có mang, biết bao khổ cực chỉ một thân một mình gánh chịu. Rồi nàng sinh
con, một mình ni dạy con và chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng mất, nàng vơ cùng
thương xót, nàng lo ma chay, tế lễ hết sức chu đáo.
Khi giặc tan, Trương Sinh về nhà chỉ vì tin lời con trẻ mà nghi vợ hư hỏng nên chửi
mắng vợ thậm tệ, mặc cho lời phân trần của Vũ Nương, mặc cho lời biện bạch của họ hàng
làng xóm, Trương Sinh vẫn hồ đồ đánh đuổi Vũ Nương. Đau đớn, tủi nhục, Vũ Nương phải
tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang.
Câu chuyện đã thể hiện nỗi oan khúc tột cùng của Vũ Nương, nỗi oan ấy đã vượt ra ngồi
phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội phong kiến vùi dập con
người, nhất là người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ bị vùi dập, bị sỉ nhục, bị đày đến
bước đường cùng của cuộc đời, họ chỉ biết tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lịng trong sạch.
Điều này chứng tỏ xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam
quyền, độc đốn, sống thiếu tình thương đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi gây ra
cái chết bi thương đầy oan trái cho Vũ Nương. Thân phận của Vũ Nương thật đáng thương
và phẩm chất của nàng cũng thật đáng khâm phục. Khi còn sống nàng là người vợ hiền dâu
thảo, sống có nghĩa tình. Khi chết, tuy được các nàng tiên cứu sống ở thủy cung nguy nga,
lộng lẫy, nhưng lúc nào nàng cũng nhớ đến quê hương bản quán của mình. Là người nặng
tình nghĩa, nàng đã ứa nước mắt khi nghe người cùng làng gợi nhắc đến quê hương, nhắc
đến chồng con của mình. Thế nhưng, Vũ Nương vẫn cịn đó nỗi đau oan khúc, nàng muốn
phục hồi danh dự: Nàng không trở về trần gian mặc dù Trương Sinh đã lập đàn giải oan và
đã ân hận với việc làm nơng nổi của mình. Nàng khơng trở về trần gian đâu chỉ vì cái nghĩa
với Linh Phi – người đã cứu nàng, mà điều chủ yếu ở đây là nàng chẳng cịn gì để về. Đàn
giải oan chỉ là việc an ủi cho người bạc mệnh chứ khơng thể làm sống lại tình xưa nghĩa cũ.
Nỗi oan khuất được giải nhưng hạnh phúc đâu thể tìm lại được. Sự dứt áo ra đi của nàng là
thái độ phủ định trần gian với cái xã hội bất công đương thời. Đây cũng là thái độ đấu tranh

21


địi cơng lý của người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy tàn. Dù cái chết là tấn bi kịch của
người phụ nữ, nhưng họ thức tỉnh được tầng lớp phụ quyền, phong kiến. Sự vĩnh viễn chọn
cái chết mà không trở lại trần thế của Vũ Nương đã làm cho Trương Sinh phải cắn rứt ân
hận vì lỗi lầm của mình. Trương Sinh biết lỗi thì đã quá muộn màng.
Qua câu chuyện về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, Nguyễn Dữ tố cáo xã
hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ, tố cáo chiến tranh
phi nghĩa đã làm vợ xa chồng, cha xa con, gia đình tan vỡ. Nỗi đau của Vũ Nương cũng là
nỗi đau của biết bao người phụ nữ dưới chế độ phong kiến như nàng Kiều trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du, người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều,
người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và nhiều phụ nữ khác nữa. Phải chăng người phụ
nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam luôn bị chà đạp dù họ có tài năng và phẩm chất cao
đẹp. Bởi thế Nguyễn Dữ đã viết:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời ràng bạc mệnh vẫn là lời chung.
"Phận đàn bà" trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể xiết.
Lễ giáo phong kiến khắt khe như sợi giây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ. Và cũng như
Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy ln tìm đến cái chết để bảo vệ nhân
phẩm của mình.
Bằng bút pháp kể chuyện, tình tiết lúc chân thật đời thường, lúc hoang đường kì ảo, Nguyễn
Dữ đã xây đựng hình tượng nhân vật điển hình cho thân phận người phụ nữ ngày xưa. Họ
thật đẹp, thật lí tưởng nhưng xã hội không cho họ hạnh phúc. Tác phẩm của ông vừa đề cao
giá trị người phụ nữ lại vừa hạ thấp giá trị của xã hội phong kiến đương thời.

Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở
''Chuyện người con gái Nam Xương'' của Nguyễn Dữ
Nhà thơ Huy Cận từng viết:
"Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử

Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ"
Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tơn vinh. Hình ảnh người phụ
nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc
trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu
một số phận đầy bị kịch và đáng thương: Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời
của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương "Chuyện người con
gái Nam Xương"
22


Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ đẹp.
Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách, nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp khác nhau,
mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng biệt.
Tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" là tiếng nói đồng cảm, trân trọng,
ngợi ca của tác giả đối với con người đặc biệt là người phụ nữ. Toàn bộ câu chuyện xoay
quanh cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết
quê ở Nam Xương. Phải nói rằng Nguyễn Dữ khơng có ý định cho Vũ Nương mang đức
tính của một phụ nữ yêu nước hay một mỹ nhân nơi gác tía lầu son. Vũ Nương là người phụ
nữ bình dân vốn con kẻ khó có một khát khao bao trùm cả cuộc đời ‐ Đó là thú vui nghi gia
nghi thất. Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng "tính đã thuỳ mỵ nết na
lại thêm có tư dung tốt đẹp".
Càng đi sâu vào câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung thể
hiện rõ nét. Trong những ngày đồn viên ít ỏi, dù Trương Sinh con nhà hào phú tính vốn đa
nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng nàng khéo léo cư xử, giữ gìn khuân
phép nên gia đình khơng khi nào phải thất hồ. Khi tiễn chồng đi lính, mong ước lớn nhất
của nàng khơng phải là cơng danh phú quí mà là khao khát ngày chồng về "mang theo hai
chữ bình yên thế là đủ rồi".
Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền, dâu thảo, chăm sóc
thuốc thang tận tình khi mẹ chồng đau yếu, ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời.
Nguyễn Dữ đã đặt những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào miệng của chính mẹ

chồng nàng khiến nó trở nên vơ cùng ý nghĩa "sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức,
giống dịng tươi tốt con cháu đơng đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã
chẳng phụ mẹ".
Người thiếu phụ tận tụy, hiếu nghĩa ấy còn là một người vợ thuỷ chung đối với
chồng. Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến, người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp đó một
lịng một dạ chờ chồng, ni con: "Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tơ son điểm phấn từng
đã ngi lịng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót". Dưới ngịi bút của Nguyễn Dữ, Vũ
Nương được mọi người u mến bằng tính tình, phẩm hạnh của nàng. Trong cái nhìn nâng
niu trân trọng của ơng, Vũ Nương là con người của gia đình, đức hạnh của nàng là đức hạnh
của một người vợ hiền, dâu thảo, một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để
giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc. Tục ngữ có câu
"Hoa thơm ai chẳng nâng niu
Người ngoan ai chẳng thương u mọi bề"
Hay
"Gái có cơng thì chồng chẳng phụ"
23


Thế nhưng công lao của Vũ Nương chẳng những không được biết đến mà chính nàng
cịn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm
ni già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết.
Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì khơng ngờ giơng bão đã ập
đến, bóng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa
trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những
không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh
minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp
người. Có lẽ bi kịch của Vũ Nương khơng phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay
là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong
kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bac mệnh ấy Nguyễn
Dữ đã góp phần khái quát nên thành lời kiếp đau khổ của người phụ nữ, mà từ xa xưa số

phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao
"Thân em như hạt mưa xa
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ngoài đồng"
Trong tác phẩm này có được sự sáng tạo tài tình chi tiết về chiếc bóng oan nghiệt để
phê phán xã hội phong kiến và nói lên số phận của người phụ nữ trong xã hội đó thật mong
manh. Cái bóng là một chi tiết nghệ thuật sáng tạo, độc đáo, giàu ý nghĩa. Chi tiết này xuất
hiện tác dụng thắt nút câu chuyện (đẩy các mâu thuẫn đến đỉnh điểm). Cái bóng xuất hiện
trong lời nói đùa của Vũ Nương khi nói với con. Những ngày xa cách, bé Đản luôn hỏi về
bố. Thương con: Thương đứa con ra đời chưa biết mặt cha, muốn tạo cho con ý niệm đầu
tiên về người cha để nó khơng cảm thấy thiếu vắng, ln cảm thấy hình ảnh cha gần gũi bên
mình. Vũ Nương chỉ cái bóng mình trên vách và nói với con đó là cha Đản. Trong những
ngày tháng xa chồng, nàng luôn nghĩ về người chồng yêu dấu, trong suy nghĩ của nàng,
chồng luôn ở bên cạnh, vợ chồng như hình với bóng. Vũ Nương Chỉ vì muốn con vui, muốn
bớt buồn, và giải khuây khi sống cô đơn vị võ ni con. Chắc hẳn người thiếu phụ chỉ
muốn ngi đi cảm giác con mình đang sống vắng cha. Nhưng nàng đâu thể ngờ từ trò chơi
này làm tan nát đời nàng, khơng ngờ một lời nói đùa trong thương nhớ lại trở thành sợi dây
vơ tình, oan nghiệt thắt chặt cuộc đời nàng..Chính điều này đã gây ra cho nàng bao nỗi bất
hạnh, tủi nhục. Chính vì cái bóng mà nàng đã mất chồng, Đản đã mất mẹ
Nếu truyện được kể thật đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải được
kể trước khi Trương Sinh trở về. Nhưng không ngờ Nguyễn Dữ lại tài hoa đến như vậy. Đã
ém nhẹm lại cái chi tiết giật gân ấy. Rồi bùng nén ra ở một vị trí thích hợp đã gây ra bão
giơng, khuấy lên sóng gió. Khơng cịn gì để ngăn được cơn tức tối của kẻ có tính hay ghen
Trương Sinh nổ bùng. "Thú vui nghi gia nghi thất, hạnh phúc duy nhất, niềm mong ước duy
nhất của một đời Vũ Nương trong phút chốc trở nên hồn tồn tan vỡ. Cái bóng khơng là
một nhân vật nhưng nó lại tham gia đắc lực vào câu chuyện, nó trở thành một chi tiết nghệ
thuật đắt giá khiến câu chuyện hấp dẫn người đọc. Chính cách thắt nút và mở nút câu
24


chuyện bằng chi tiết cái bóng đã làm cho cái chết của Vũ Nương thêm oan ức và giá trị tố

cáo xã hội nam quyên đầy bất công với phụ nữ càng thêm sâu sắc.
Bình đã rơi, trâm đã gãy, liễu đã tàn trước gió, sen đã rũ trong ao, người thiếu phụ chung
tình mà bạc mệnh chỉ cịn có thể tìm đến cái chết để giãi bày tấm lịng trong trắng của mình
Người phụ nữ đẹp là thế, vậy mà đáng tiếc thay họ lại sống trong một xả hội phong
kiến thối nát với bộ máy quan lại mục rỗng, chế độ trọng nam khinh nữ vùi dập số phận họ.
Càng xinh đẹp ngoan hiền thì họ lại càng đau khổ, lại càng phải chịu nhiều sự chèn ép, bất
công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy giờ "hồng nhan bạc phận". Đớn đau thay
số phận của nàng. Nàng đã gieo mình xuống sơng Hồng Giang tự vẫn. Và người đời sẽ lưu
truyền thêm một tấm bi kịch về số phận người phụ nữ. Tấm bi kịch về cái đẹp bị chà nát
phũ phàng
Tấm bi kịch này là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tng ích
kỉ, sự hồ đồ vũ phu của gã đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác
hủ bại ... Đó cịn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư tưởng nam quyền độc đoán đã biến
Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình... Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải
niềm thương và nỗi ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung, xinh đẹp, hiếu nghĩa,
chung tình mà bạc mệnh!
Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào
hình tượng Vũ Nương, khi thì cách xử thế, khi thơng qua lời nói, khi hành động, khi thái độ,
hình ảnh Vũ Nương hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu
thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một
cách có văn hố. Đó là lời nhắn nhủ. Hãy quan tâm đến thân phận người phụ nữ, đến số
phận con người. Hãy tôn vinh hạnh phúc và đừng làm bất cứ điều gì có thể làm huỷ hoại tổn
thương đến hạnh phúc đơi lứa và gia đình. Và điều quan trọng hơn hết để có được hạnh
phúc là phải thực sự hiểu được nhau, tôn trọng lẫn nhau và tránh xa những ngộ nhận đáng
tiếc. Có được hạnh phúc đã là một điều khó khăn, nhưng giữ hạnh phúc cho được lâu bền
lại càng là một điều khó khăn hơn. Đó là tất cả ý nghĩa mà chúng ta có thể nhận ra được từ:
Chuyện người con gái Nam Xương.
Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng dư âm về sự bất bình, căm ghét xã hội
phong kiến bất lương, vơ nhân đạo thì cịn mãi. Thời đại phong kiến trọng nam khinh nữ,
đầy rẫy những sự bất công oan trái. Bị ảnh hưởng và phải chịu đựng nhiều nhất chính là

người phụ nữ. Thế nhưng, những người phụ nữ ấy vẫn ln xinh đẹp, nết na, giàu lịng
thương u và hết mực quan tâm đến mọi người xung quanh. Ta có thể bắt gặp lại hình ảnh
của họ qua các tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam. Trong một xã hội
phong kiến suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong
lận đận. Có lẽ vì thế mà em càng yêu mến, trân trọng xã hội tốt đẹp mà em đang sống hôm
nay.
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×