Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Quan điểm chủ trương của đảng về xây dựng con người việt nam trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.69 KB, 67 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

LÊ THỊ HUYỀN

Quan điểm chủ trương của Đảng về xây dựng con
người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề bài.
Từ ngày thành lập đến nay, trong việc xác định đường lối chiến lược
cách mạng Đảng đã thường xuyên quan tâm đến xây dựng con người. Con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Trong thời kỳ đấu
tranh giành chính quyền, mục tiêu số một là giành độc lập cho dân tộc phải
tiến hành với mục tiêu là đem lại quyền tự do, dân chủ cho nhân dân. Để
thực hiện được mục tiêu đó phải dựa vào con người, con người là động lực
của cách mạng. Xây dựng con người và phát huy vai trị của người ln
được Đảng ta quan tâm. Đảng cũng đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách
đúng phát huy được vai trị của con người, đưa đến thắng lợi của cách mạng
Tháng Tám năm 1945, thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc
1945- 1975 và thắng lợi bước đầu của sự nghiệp đổi mới.
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ,
nhiều nước trên thế giới đang đi vào phát triển kinh tế tri thức. Trong bối
cảnh đó, Đảng chủ trương “ Đẩy mạnh CNH, HDH gắn với phát triển kinh tế


tri thức và bảo vệ tài nguyên mội trường”. Sự nghiệp CNH, HDH gắn với
phát triển nền kinh tế tri thức đòi hỏi phải xây dựng và phát huy tốt vai trò
của con người. Con người và phát huy nhân tố con người thu hút sự quan
tâm, chú ý được thảo luận rộng rãi trên các diễn đàn trong nước và quốc tế.
Nghị quyết đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “ phát triển, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao một trong những
nhân tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước” [ 10, tr.
106].
Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con
người Việt Nam là nhân tố định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.“ Con


người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”.
Con người thực sự nguồn lực của mọi nguồn lực, tài nguyên của mọi tài
nguyên, là nguồn nội lực quan trọng nhất quyết định thành công của sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Việc nghiên cứu, tổng kết lại quá trình xây dựng con người mới trong
cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo đường lối,
chủ trương của Đảng, qua đó rút ra kinh nghiệm cũng như ý nghĩa của việc
xây dựng con người mới và đưa ra những kiến nghị cho việc xây dựng con
người mới trong những năm tiếp theo là một việc làm có ý nghĩa khoa học
và thực tiễn mang tính cấp thiết đối với sự phát triển của nước ta hiện nay.
Nghiên cứu chủ trương của Đảng về xây dựng con người mới trong
quá trình đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế, chúng tơi cũng muốn góp thêm ý kiến về vấn đề xây dựng con người mới
trong những năm tháng tiếp theo. Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn
nói trên, em đã lựa chọn vấn đề Quan điểm chủ trương của Đảng về xây
dựng con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Hiện nay đã có các cơng trình nghiên cứu về con người và phát huy vai
trò của con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các cơng
trình tiêu biểu như: Một số vấn đề về tri thức Việt Nam của PGS,TS Nguyễn
Thanh Tuấn, xuất bản ở Hà Nội năm 1998, Nghiên cứu con người và nguồn
nhân lực đi vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Phạm Minh Hạc xuất bản
năm 2001, Nhân tài trong chiến lược phát triển quốc gia của Nguyễn Đắc
Hưng, Phan Xuân Dũng xuất bản ở Hà Nội năm 2004, Phát huy nhân tố con
người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay của TS.


Phạm Công xuất bản ở Hà Nội năm 2008, Vai trị của con người và văn hóa
phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
của Nguyễn Thành Trung đăng trong Tạp chí triết học số 7 ( 206) tháng 7
năm 2008. Về phát triển tồn diện con người thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ( 2001) Phạm Minh Hạc xuất bản ở Hà Nội, Nghiên cứu con người
đối tượng và những hướng chủ yếu - Niên giám nghiên cứu số 1 do Phạm
Minh Hạc và Hồ Sỹ Qúy chủ biên, in lần thứ hai năm 2002, Trần Đức Niêm
với Phát triển con người ở Việt Nam xuất bản năm 2007. Văn hóa Việt Nam
và cách tiếp cận mới của Phan Ngọc (1994), Các giá trị truyền thống và con
người Việt Nam hiện nay của nhóm tác giả Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang
chủ biên ( tập 3, 1994- 1996), Văn hóa và Đổi mớ của cố thủ tướng Phạm
Văn Đồng ( 1996), Vấn đề xây dựng con người mới của Phạm Như Cường
chủ biên, Con người và phát triển con người của Hồ Sỹ Qúy xuất bản ở Hà
Nội năm 2007.
Cho đến nay đã có các cơng trình nghiên cứu về con người nói riêng ở
cả khía cạnh lý luận và thực tiễn, lịch sử và hiện tại. Các cơng trình đó tập
chung chuyên sâu như: đặc điểm của con người Việt Nam, triết lý con người
Việt Nam, văn hóa và hệ giá trị của con người Việt Nam, đạo đức, lối sống,
nhân cách của con người Việt Nam, quan điểm về xây dựng mẫu hình con

người Việt Nam mới... qua đó, đã bước đầu định hình được những đặc điểm
cơ bản, mang tính truyền thống ( cả tích cực và hạn chế) của con người Việt
Nam trong lịch sử và hiện tại. Đó là thành cơng khơng nhỏ của các học giả
Việt Nam trong nghiên cứu về con người nói chung và con người Việt Nam
nói riêng. Một thực tế cho thấy các cơng trình đề cập đến một cách trực tiếp,
cụ thể và đầy đủ hệ thống các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng Sản
Việt Nam về xây dựng con người mới trong q trình đổi mới, cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa thì chưa nhiều.


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ quá trình hình thành và phát triển các quan điểm chủ trương của
Đảng ta về xây dựng con người trong thời kỳ đổi mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích như vậy, địi hỏi người nghiên cứu phải có các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng con người và sự vận dụng của Đảng ta.
Thứ hai: Tập trung làm rõ quan điểm, chủ trương của Đảng ta về xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về xây dựng con người.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài tác giả vận dụng các phương pháp: phương pháp
lịch sử, phương pháp logic, phân tích với tổng hợp, diễn dịch với quy nạp.
5. Điểm mới của luận văn
Làm rõ quá trình hình thành và phát triển quan điểm, chủ trương của
Đảng về xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới.

6. Ý nghĩa của luận văn
Giúp cho tác giả hoàn thành chương trình học tập và Luận văn góp thêm
nguồn tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu học tập Đường lối cách mạng của
Đảng và các môn khoa học xã hội.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm có 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận. Phần nội dung có 2 chương .


Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành quan điểm, chủ
trương của Đảng về xây dựng con người trong thời kỳ đổi mới.
Chương 2: Những quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng con
người trong thời kỳ đổi mới.


NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HÌNH THÀNH QUAN
ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG CON
NGƯỜI TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI
1.1 Cơ sở lý luận
Đại hội lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: “ Đảng ta lấy
chủ nghĩa Mác- Lênnin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hành động của mình” [ 8, tr. 329]. Quan điểm, chủ
trương của Đảng về xây dựng và phát huy vai trò của con người trong thời
kỳ đổi mới của Đảng được hình thành trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
1.1.1. Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người.
Tiếp thu có chọn lọc hạt nhân hợp lý trong quan niệm của Hêghen, Phoiơ
Bắc và các nhà triết học tiền bối về vấn đề con người và bản chất con người,

đồng thời với thế giới quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
Mác- Lênnin đã khẳng định rằng:
* Về bản chất con người.
Các nhà lý luận Mác- Lênin đã kế thừa quan niệm về con người trong
lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người là sự thống nhất giữa yếu
tố sinh học và yếu tố xã hội; con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
- Trước hết, con người là sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.
Bản chất tự nhiên (cái sinh học) của con người được hiểu là tính tất yếu
khách quan của sự hình thành và sự tồn tại những hiện tượng và quá trình


tâm sinh lý của con người. Bản chất xã hội của con người được hình thành
trong quá trình hoạt động thực tiễn. Trong đó, chính lao động là yếu tố quyết
định sự hình thành bản chất xã hội của con người.
Hai mặt tự nhiên và xã trong con người gắn bó chặt chặt chẽ với nhau,
khơng thể tách rời, khơng có cái xã hội thuần túy cũng như khơng có cái
sinh học thuần túy trong một con người. Con người ở đây khơng phải là cái
gì đó đồng nhất về chất mà là sự đồng nhất bao hàm sự khác biệt giữa hai
yếu tố đối lập nhau: con người vừa là một bộ phận, vừa là sản phẩm của giới
tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội được tách ra như một
lực lượng đối lập với tự nhiên.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối
quan hệ xã hội. Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu
lên luận điểm nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất
của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối
quan hê xã hội”. [ 12, tr. 11]. Luận đề đã khẳng định rằng, khơng có con
người trừu tượng, thốt ly mọi điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội. Con
người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện nhất định, một
thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thưc tiễn của

mình, con người tao ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát
triển cả thể lực và trí tuệ. Chỉ trong tồn bộ các mối quan hệ xã hội đó ( như
quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại, quan hệ chính trị, kinh tế, quan hệ cá
nhân, gia đình....) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Đây là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa con người và thế giới động vật,
và là điểm khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác không
thấy bản chất xã hội của con người.


- Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Khơng có thế giới tự
nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con người. Bởi vậy, con
người là sản phẩm của tự nhiên, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Song, điều quan trọng hơn cả, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã
hội. C. Mác khẳng định: “ cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con
người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục ... cái học thuyết ấy
quên rằng chính con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục
cũng cần phải được giáo dục” [ 12, tr.10]. Với tư cách là thực thể xã hội, con
người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên,
đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Trong quá trình
cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là
sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản
thân con người. Hoạt động lao động vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con
người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Khơng có hoạt động của con người thì cũng khơng tồn tại quy luật xã hội, và
do đó, khơng có sự tồn tại của tồn bộ lịch sử xã hội lồi người. Bản chất
của con người khơng phải là mơt hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở,
tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Thơng qua đó, bản chất con
người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Vì vậy, để phát triển bản chất
con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hồn cảnh ngày càng mang
tính người nhiều hơn. Đó chính là biện chứng của mối quan hệ giữa con

người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
* Quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Chủ nghĩa Mác- Lênin quan niệm rằng, cá nhân là khái niệm chỉ con
người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được phân biệt với các khái
niệm con người, vì con người là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến trong
bản chất con người của tất cả các cá nhân. Xã hội do các cá nhân tạo nên.


Các cá nhân sống và hoạt động trong các nhóm, cộng đồng và tập đồn xã
hội khác nhau, mang tính lịch sử xác định. Mỗi cá nhân có đời sống riêng,
có quan hệ xã hội riêng, có nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích riêng, nhưng
điều đó khơng loại trừ tính chung trong mỗi cá nhân là thành viên của xã hội
và mang bản chất xã hội.
Nguyên tắc cơ bản của việc xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và tâp thể
cũng như mối quan hệ giữa cá nhân và các cộng đồng xã hội nói chung
chính là mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng xã hội. Đó
cũng là mối quan hệ vừa có sự thống nhất vừa có mâu thuẫn.
Mỗi cá nhân với tư cách là một con người, không bao giờ có thể tách rời
khỏi những cộng đồng xã hội nhất định, đồng thời mối quan hệ giữa cá nhân
và xã hội là hiện tương có tính lịch sử. Theo quan điểm của triết học MácLênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân. Xã hội càng phát triển
thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những giá trị vật
chất và tinh thần. Mặt khác, mỗi cá nhân trong xã hội càng phát triển thì
càng có điều kiện để thúc đẩy xã hội phát triển thì càng có điều kiện để thúc
đẩy xã hội tiến lên. Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội do sự
quy định của mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển và năng suất lao
động xã hội. Mặt chủ quan biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng quy
luật xã hội phù hợp với mục đích của con người.
* Vai trò của quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin: Quần chúng nhân dân là bộ
phận có chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp

và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá
nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị,
xã hội của một thời đại nhất định. Quần chúng nhân dân có vai trị rất to lớn
trong sự phát triển xã hội, điều đó thể hiện:


Thứ nhất: Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản xã hội,
trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của
xã hội.
Thứ hai: Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội.
Thứ ba: Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa
tinh thần, đóng vai trị to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật,
văn học... đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn.
Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất con người,
mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, về vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử đã được Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc và vận dụng vào
hồn cảnh Việt Nam.
1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vai trò của con người trong
sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh là người đầu tiên đặt nền móng xây dựng một xã hội mới,
con người mới Việt Nam. Từ thực tế cách mạng Việt Nam, xã hội Việt Nam,
Hồ Chí Minh ln quan tâm và coi trọng việc xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa, bồi dưỡng rèn luyện năng lực và phẩm chất đạo đức cán bộ
đảng viên. Người khẳng định “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con
người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa” [ 17, tr.265].
* Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người..
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người, phát
huy vai trị của con người được hình thành trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin; những truyền thống, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân Hồ Chí Minh đã tiếp

thu và truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin về nước, xây dựng đường lối chiến
lược giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp khỏi áp bức bóc lột. Từ đó hình


thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng của Người về con
người.
Hồ Chí Minh cũng đã kế thừa truyền thống của dân tộc về xây dựng
phát huy vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng. Đúng
vậy, dân tộc Việt Nam có truyền thống giàu lòng nhân ái: “ Thương người
như thể thương thân”, “ Lá lành đùm lá rách”, “ Một con ngựa đau, cả tàu
không ăn cỏ”. Con người Việt Nam có truyền thống gắn bó chặt chẽ với
cộng đồng gia tộc, xóm làng và dân tộc:
“ Bầu ơi thương lấy bí cùng .
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Con người Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn, bất khuất
trước giặc ngoại xâm. Yêu nước là phẩm chất cao quý nhất, đứng hàng đầu
trong bảng giá trị tinh thần Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “ Dân
ta có một lịng u nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một
nàn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.... Chúng ta có quyền tự
hào vì những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo,
Lê Lợi, Quang Trung,... Chúng ta phải ghi nhớ cơng lao của các vị anh hùng
dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng” [ 16, tr.171172]. Truyền thống yêu nước đó khơng chỉ là một tình cảm, một phẩm chất
tinh thần, mà đã phát triển thành một chủ nghĩa - chủ nghĩa u nước, chủ
nghĩa dân tộc chân chính thành dịng chủ lưu của tư tưởng Việt Nam, xuyên
suốt lịch sử của dân tộc.
Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh hoa của dân tộc và nhân loại, mà nổi bật
tư tưởng nhân văn của đại cách mạng Pháp với khẩu hiệu: “ Tự do- Bình
đẳng- Bác ái”. Đặc biệt, những tư tưởng của bản Tuyên ngôn nhân quyền và



dân quyền của Cách mạng Pháp, Cách mạng Mỹ đã được Nguyễn Ái Quốc
tiếp thu.
* Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Kế thừa tinh hoa tư tưởng văn hóa dân tộc và nhân loại, tiếp thu, vận
dụng một cách sáng tạo học thuyết Mác- Lênin. Hồ Chí Minh đã nâng tư
tưởng về con người lên một tầm cao mới, hình thành lên chủ nghĩa nhân văn
Hồ Chí Minh. Tuy khơng có tác phẩm nào bàn riêng về con người, nhưng tư
tưởng về con người lại được hiểu thật đa dạng, phong phú, trở thành tưởng
xun suốt tồn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề con người luôn
luôn được nhắc đến như một mục tiêu thiêng liêng, cao cả nhất của sự
nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi. Nó trở trở thành mục tiêu, lý tưởng
được tỏa sáng trong từng suy nghĩ, cử chỉ, hành động của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Tình u thương vơ hạn của Hồ Chí Minh đối với con người. Trong lịch
sử dân tộc và thế giới, đã từng xuất hiện biết bao tấm gương, yêu nước,
thương dân, thương số phận đau khổ của con người...Tuy nhiên, ở Hồ Chí
Minh, lịng u nước, thương dân, thương nhân loại mang một nội dung
mới, sâu sắc, tồn diện.
Trước hết, đó khơng phải là lịng thương hại của “ bề trên” nhìn xuống,
cũng khơng phải là sự động lịng trắc ẩn của người “ đứng ngồi” trơng vào,
mà là sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ. Là một người dân mất
nước, Người đã nhận thức sâu sắc sự thống trị tàn bạo của đế quốc thực dân,
khát vọng cháy bỏng được giải phóng của các dân tộc bị áp bức. Trong cuộc
đời Người đã từng chứng kiến bao cảnh đau thương, bất cơng... Đó là nỗi
đau khổ đau khổ của Người khi phải bế em đi xin sữa, mẹ chết khơng được
khóc, bố bị oan khuất và bị đẩy đi xa. Đó là cảnh nghèo đói của dân quê
Nghệ -Tĩnh... Rồi đến những cảnh dân các thuộc địa khác bị đàn áp tàn bạo.



Hình ảnh người dân da đen ở Đa Ka bị đẩy xuống biển chết trong gió to
sóng lớn, trẻ em bị phơi đói ở Đahơmây, đời sống lam lũ của “ xóm thợ,
xóm nghèo, xóm người cùng khổ” Êpinét ngay giữa thủ đô Pari mà Người
đã tận mắt chứng kiến.... Những hình ảnh, những sự kiện đó đã tác động sâu
sắc đến tình cảm, tư tưởng của Người .
Điểm nổi bật của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là lòng thương yêu
những “Người cùng khổ”. “ Người cùng khổ” ở đây bao gồm những người
dân Việt Nam và nhân dân các nước thuộc địa, bị mất nước, sống cuộc đời
nơ lệ, “ khơng có tự do, cơng lý”, bị “ áp bức, bóc lột”, bị “ đầu độc”, “ đẩy
vào vòng ngu dốt, tối tăm”, “ bị bắt làm lao dịch khổ sai và đi làm lính đánh
thuê cho mẫu quốc”, “ sống nghèo đói, cực khổ...” [14, tr.21].
Lời ra mắt của báo Người cùng khổ ( Le Paria) năm 1921 đã xác định rõ
mục đích đấu tranh của “ Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức”, là “ đi từ giải
phóng những người nơ lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến
giải phóng con người”. “ Con người” ở đây bao hàm cả “ đồng bào” trong
nước và “ đồng bào” trên thế giới theo nghĩa “ Bốn bể là nhà, bốn phương
vô sản đều là anh em”. Người viết, “ Chữ người, theo nghĩa là gia đình, anh
em, họ hàng, bầu bạn... Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là
đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là loài người”. [15, tr. 247].
Với tình u thương con người vơ hạn, mong muốn lớn nhất của Hồ Chí
Minh là: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Tấm lòng nhân ái của Người là lo
đến những nhu cầu cần thiết tối thiểu nhất trong đời sống của một con
người.
Nghiên cứu tồn bộ tác phẩm của Hồ Chí Minh và cuộc đời hoạt
động của Người hiểu sâu sắc tâm lý, nguyện vọng của nhân dân. Xuất phát
từ đó Người đã thực hiện “ lấy dân làm gốc”, “ cách mạng là sự nghiệp của



quần chúng” để chăm lo cho dân bằng cách phát triển sản xuất, xây dựng
kinh tế, văn hóa, thực hành tiếp kiệm, chống tham ơ lãng phí, cửa quyền,
hách dịch người dân. Trước khi đi xa, Người còn nhắn nhủ: “ Đảng phải có
kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm nâng cao đời sống
của nhân”. Đó là cái gốc của mọi vấn đề vì rằng Hồ Chí Minh dạy: “ Có độc
lập tự do mà dân chết đói, chết rét thì độc lập, tự do đó khơng có ý nghĩa gì”
[ 13, tr. 152].
Như vậy, trong mọi hồn cảnh, lúc đấu tranh giành chính quyền cũng
như khi đã giành thắng lợi và đi vào xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh đều
quan tâm đến con người, đến mọi tầng lớp nhân dân.
Lòng khoan dung rộng lớn của Hồ Chí Minh trước tính đa dạng của
con người.
Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa dạng của
nó: đa dạng trong quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng
chí, đồng bào...), khát vọng, phẩm chất, khả năng, đa dạng trong hoàn cảnh
xuất thân, điều kiện sống, làm việc... Trên cơ sở đó, lịng khoan dung ở Hồ
Chí Minh có nội dung sâu sắc, rộng lớn:
Thứ nhất: Đồn kết rộng rãi, lâu dài các lực lượng là thể hiện lòng nhân
ái bao dung cao cả. Người trân trọng phần thiện dù nhỏ nhất, khai thác “ tình
người” trong mỗi con người. Chỉ có lịng độ lượng và chí cơng vơ tư của Hồ
Chí Minh mới quy tụ được nhiều nhân sỹ có danh vọng ở chế độ cũ.
Thứ hai: Vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tiến bộ xã hội, Hồ Chí
Minh đưa ra chủ trương có lý, có tình đối với kiều dân nước ngồi ở Việt
Nam, nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của họ. Người đánh giá cao vấn đề này
và ghép tội “ vô cớ sát hại kiều dân ngoại quốc” vào tử hình.


Thứ ba: Với lòng nhân ái bao la, phát huy truyền thống “ thương người
như thể thương thân”, “ đánh kẻ chạy đi khơng đánh kẻ chạy lại”, Hồ Chí
Minh có chính sách khoan hồng đại lượng, đối xử nhân đạo với tù binh.

Thứ tư: Khi cán bộ, đảng viên có lỗi, Người đã tìm cách động viên họ
sớm nhận ra và có biện pháp khắc phục khuyết điểm, nhắc nhở họ cố gắng tu
dưỡng, phấn đấu, hướng tới Chân - Thiện - Mỹ.
Thứ năm: Trân trọng mọi ý kiến khác nhau, kể cả những ý kiến khơng
đồng tình, trái với suy nghĩ của Người. Người đặc biệt quan tâm và tơn trọng
“tính cách riêng”, “sở trường riêng”, “đời sống riêng”, quyền lợi riêng của
mỗi người và lợi ích của cả cộng đồng. Đối với những người lầm đường lạc
lối, ngay cả với binh sĩ địch, lòng yêu thương của Người mở rộng thành lịng
khoan dung. “ Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều
họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác,
nhưng thế này thế khác đều là dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người.
Hồ Chí Minh đã đi sâu tìm hiểu, vạch rõ nguồn gốc của mọi nghèo khổ,
mọi áp bức, bóc lột, mọi bất cơng trên đời. Từ đó, gắn lòng thương yêu nhân
dân, nhân loại, người cùng khổ với lên án mọi chế độ bất công, lên án chủ
nghĩa đế quốc thực dân, lên án chủ nghĩa tư bản bóc lột, giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người. Người cũng hết sức căm ghét, lên
án những kẻ sâu mọt trong cán bộ, đảng viên xâm phạm quyền lợi của nhân
dân, tham ơ, lãng phí, ức hiếp nhân dân…
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là một nhà nhân văn khoa học, hiện
thực, cánh mạng. Người ta thường cho rằng Hồ Chí Minh là một nhà triết
học hành động, hành động nhằm giải phóng con người.


Mục đích của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng là xây dựng
một xã hội mới khơng có áp bức, bóc lột, bất cơng, một xã hội giàu mạnh,
cơng bằng, văn minh, với những con người mới có phẩm chất cao đẹp, có
trình độ phát triển tồn diện. Những con người được đào tạo, giác ngộ ấy
chính là động lực của sự phát triển: “ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,

trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” [ 18, tr.310]. Con
người xã hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện, hoàn toàn đi đến
khơng chủ nghĩa cá nhân.
Do đó, tư tưởng xây dựng con người mới, giải phóng con người về mặt
phẩm chất, nhân cách cũng như về tài năng trí tuệ là một bộ phận quan trọng
của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Người vạch rõ “ Người ta ai cũng có
tính tốt và tính xấu. Mỗi người đều có thiện và ác trong lòng”. Tuy nhiên,
“thiện” và “ ác” khơng phải tự nhiên mà có, mà “ phần lớn do giáo dục mà
ra”. Vì vậy, thái độ của người cách mạng là “ phải biết làm sao cho tốt trong
mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất đi”.
Trong giải phóng con người, Hồ Chí Minh chú ý kết hợp hài hịa giữa
cá nhân và tập thể, cộng đồng. Trong bài Đời sống mới Người viết: “Nói
chung thì đời sống mới có thể chia thành hai thứ. Một là: đời sống riêng của
từng người. Hai là: đời sống mới chung, từng nhóm người, như bộ đội, các
nhà máy, các trường học, các công sở...”. [ 15, tr.96-97]. Đồng thời người
chỉ ra sự tác động giữa riêng và chung, cá nhân và nhóm người: “ Do nhiều
làng nhóm mà lại thành làng nước. Nếu người này cũng xấu, người kia cũng
xấu, thì thành nước xấu, nước hèn. Nếu mỗi người đều tốt, thì thành làng tốt,
nước. Người là gốc của làng. Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống
mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường [ 15, tr. 98-99].
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cách mạng. Năm 1911,
giữa lúc đất nước đang bị xâm lược, nhân dân bị chịu cảnh lầm than, Người


ra đi với ý chí “ giải phóng gơng cùm nô lệ cho đồng bào”. Người xác định
rõ trách nhiệm của Người cũng là của Đảng và Chính phủ là làm sao “cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thơng cảm sâu sắc với thân phận
những người nô lệ lầm than. Nhưng không phải thơng cảm kiểu tơn giáo,

ngược lại, Người có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bản lĩnh của con người,
ở khả năng tự giải phóng của chính bản thân con người. Người làm hết sức
để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu tranh để đem lại độc lập,
tự do, hạnh phúc cho con người. Người xác định con người là mục tiêu trong
điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất nước còn nơ lệ, lầm
than thì mục tiêu tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân tộc, gắn với đem
lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Sau khi giành chính quyền về tay nhân
dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên
hơn, bởi vì, “ nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc, tự do, thì
độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay:
Làm cho dân có ăn, có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học
hành. Đến Di chúc, Người viết: “ đầu tiên là công việc đối với con người”.
Con người là mục tiêu cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người.
Với hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy, ta phải hết sức
làm. Việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy, ta phải hết sức tránh.
Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực
sáng tạo của quần chúng. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh
nhận rõ: Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân, tôn trọng
dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô
địch. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ


nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động
sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào dân thì phải chống
các bệnh: xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin nhân dân,
không yêu thương nhân dân. Không thương yêu nhân dân và tin tưởng nhân
dân là nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm - bệnh quan liêu, mệnh lệnh.
Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là “ hỏng việc”.

Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả
nước, tồn thể đồng bào, song trước hết là giai cấp công nhân và nơng dân.
Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây chủ
nghĩa xã hội. Nhà nước mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh lấy cơng - nơng - trí
làm nền tảng. Từ thắng lợi của cách mạng tháng Tám phải nhìn nhận và
đánh giá đúng giai cấp đứng ở trung tâm của thời đại mới, đó là giai cấp
cơng nhân. Chỉ có giai cấp công nhân với những đặc điểm chung và riêng
mới lãnh đạo được dân tộc đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy, giai
cấp cơng nhân chỉ có liên minh với giai cấp nơng dân và gắn bó với dân tộc
mới trở thành lực lượng hùng mạnh.
Giữa con người- mục tiêu và con người- động lực có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ
tạo thành con người - động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được
sức mạnh của con nguời - động lực sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách
mạng.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người
và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng độc này đẻ ra hàng trăm
thứ bệnh, thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ,
rụt rè khơng dám nói, khơng dám làm, khơng dám đề ra ý kiến, tóm lại
khơng dám đổi mới và sáng tạo.


Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”.
Hồ Chí Minh nêu bật ý nghĩa của chiến lược xây dựng con người
mới. Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
cách mạng, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn
luyện con người. Người nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây chủ
nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản lâu dài,
nhưng cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến nhiệm vụ “ trước hết cần phải có
con người xã hội chủ nghĩa” và “ trồng người”. Tất cả điều này phản ánh tư

tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người, tất
cả vì con người, do con người.
Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do nghĩa xã hội tạo ra.
Nhưng ở đây trên con tiến lên chủ nghĩa xã hội thì “ trước hết cần có những
con người xã hội chủ nghĩa”. Điều này cần được hiểu ngay từ đầu phải đặt ra
nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con
người mới xã hội chủ nghĩa làm gương, lôi cuốn xã hội. Cơng việc này là
một q trình lâu dài khơng ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người.
Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “ xây dựng chủ
nghĩa xã hội” và “ con người xã hội chủ nghĩa”.
Quan niệm Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai
mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là: kế thừa những giá trị tốt đẹp của con
người truyền thống (Việt Nam và Phương Đơng). Hai là: hình thành những
phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, có đạo đức xã hội, có trí
tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội ,thiên nhiên...), có tác
phong xã hội chủ nghĩa, có lịng nhân ái, vị tha, độ lượng.


Chiến lược “ trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của
chiến lược triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần
có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào tạo là pháp quan trọng bậc nhất.
Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho
thanh niên. Nội dung và phươg pháp giáo dục phải tồn diện, cả đức, trí, thể,
mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ
nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức tài thống nhất với nhau, khơng tách rời
nhau, trong đó “ đức” là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết
hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói và việc làm... Có như vậy “ mới có
thể học làm người”. “ Trồng người” là công việc “ trăm năm”, khơng thể

nóng vội “ một sớm một chiều ”, không phải một lúc làm là xong, cũng
không phải tùy tiện, đến đâu hay đến đó. Nhận thức và giải quyết vấn đề này
có ý nghĩa trực tiếp, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt
thời kì độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã mở ra con đường thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, nâng cao văn hóa và con người Việt Nam lên ngang tầm
thời đại mới - thời đại của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người đã trở
thành con người Việt Nam tiêu biểu nhất và con người mang những giá trị
vĩnh cửu của nhân loại - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa
thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vẫn đang định hướng cho việc
phát triển và xây dựng con người Việt Nam đáp ứng những yêu cầu của thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Đảng ta trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước đã vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong các đường lối, chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội nhằm mục đích vì lợi ích của con người.


1.2. Cơ sở thực tiễn hình thành quan điểm, chủ trương của Đảng
về xây dựng và phát huy vai trò con người trong thời kỳ đổi mới.
1. 2.1 Vài nét khái quát về xu hướng biến chuyển của tình hình thế giới
và những vấn đề đặt ra về xây dựng và phát triển chon người cuối thế kỷ XX,
đầu thế kỷ XXI.
Những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI tình hình thế giới có
những biến chuyển sâu sắc và có tác động to lớn đến sự phát triển của nhiều
quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam. Về cơ bản có thể hình dung sự
chuyển biến đó của tình hình thế giới ở một số đặc điểm cơ bản sau đây:
- Điểm đầu tiên mà chúng ta dễ nhận thấy nhất, đó là sự chuyển biến về
tình hình chính trị thế giới. Đó là sự chuyển từ thế giới hai cực sang thế giới
đa cực với sự sụp đổ của các nước xã hội và sự kết thúc chiến tranh lạnh đối đầu giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.

Có thể nói đây là đặc điểm quan trọng quan trọng nhất của tình hình
thế giới những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, bởi nó chi phối đến sự
phát triển các quốc gia và hầu hết các quốc gia và khu vực trên thế giới. Có
điều bởi đó vì, sự đối đầu giữa hai xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa
cùng với sự phát triển cuộc chiến tranh lạnh trên phạm vi thế giới đã không
chỉ kéo theo vào sự phụ thuộc của các nước thành viên ở một trong hai hệ
thống, mà bên cạnh đó nó cịn kéo theo vào sự phụ thuộc của các nước thành
viên ở một trong hai hệ thống, mà bên cạnh đó nó cịn kéo theo sự ảnh
hưởng, tác động và phụ thuộc của nhiều khu vực vào trong guồng máy chiến
tranh, chạy đua vũ trang trong sự đối đầu ấy. Chiến tranh lạnh và sự chạy
đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đã làm cho
tìmh hình thế giới ln ln đặt trong tình trạng bị uy hiếp của tâm lý chiến
tranh.


Mặt khác, việc chạy đua vũ trang trong chiến tranh lạnh đã tiêu hủy
một khối lượng lớn chất xám của lồi người vào việc chế tạo ra những thứ
vũ khí để tự hủy diệt chính bản thân xã hội lồi người,ở tất cả các khu vực
trên thế giới. Hàng loạt các loại vũ khí nguy hiểm, có thể giết người hàng
loạt thậm chí là hủy diệt lồi người đã được chế tạo ra trong cuộc chạy đua
vũ trang đó. Và cũng chính điều đó đã tiêu hủy đi những nguồn lực để phục
vụ cho sự phát triển của con người bởi lẽ tài nguyên môi trường và các
nguồn lực khác đều được con người tìm mọi cách để khai thác và phục vụ
cho nhu cầu tăng tiềm lực kinh tế, quân sự trong cuộc chạy đua vũ trang. Và
cũng do mải mê với cuộc chạy đua ấy mà các giá trị khác của cuộc sống,
liên quan trực tiếp đến đời sống của con người đã khơng được quan tâm. Có
thể nói, ở thời kỳ nào, lồi người đã ngủ mê với chiến tranh và tiềm lực quân
sự và với nguồn lợi khổng lồ mà việc bn bán vũ khí trong chiến tranh
đem lại. Thế cho nên, các giá trị khác như văn hóa, con người và phát triển
con người khơng được coi trọng vì tư tưởng giàu có sẽ đem lại hạnh phúc và

tự do cho con người. Bên cạnh đó với sự phổ biến của các cuộc chiến tranh
cục bộ ở nhiều quốc gia dân tộc trên thế giới đã làm cho các thứ vũ khí giết
người và giết người hàng loạt được phổ biến ở nhiều nơi cùng với tâm lý
chiến tranh và giết người của những con người hiếu chiến. Điều này đã làm
cho tính nhân bản của con người bị coi thường và hủy hoại.
- Điểm thứ hai: đó là sự phát triển đến đến đỉnh cao của khoa học, kỹ
thuật và bùng nổ thông tin toàn cầu với sự ra đời và phổ biến rộng rãi của
mạng thơng tin tồn cầu Internet những năm 90 của thế kỷ trước. Điều này
đã không những làm cho sự phổ biến và cập nhật thơng tin trên tồn thế giới
trở nên năng động, sơi động hơn, mà nó còn làm biến đổi tư duy phát triển,
lập nghiệp của bản thân mỗi con người với sự phổ cập, cập nhật và năng
động thơng tin ấy. Nó đã làm thay đổi quan điểm phát triển của hầu hết các


nước bởi sự bùng nổ thông tin đã buộc người ta phải xoay chuyển tư duy
kinh doanh, từ chỗ thụ động và giữ bí mật thơng tin đến chỗ chủ động cập
nhật, nắm bắt thơng tin để tìm đường hướng ra phát triển. Và điều đó địi hỏi
ở mỗi quốc gia phải có chiến lược xây dựng và phát triển người cho phù hợp
với thời kì bùng nổ thơng tin, làm sao cho con người có được đầy đủ và sử
dụng được một cách các thông tin cập nhật được để phát triển.
- Điểm thứ ba là xu thế hội nhập, tồn cầu hóa. Đây là đặc điểm quan
trọng nhất của thế giới những năm 90 của thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Điều
này được bắt nguồn từ sự bùng nổ của thơng tin tồn cầu và nó đã làm cho
các công ty xuyên quốc gia, các quốc gia và khu vực, vùng lãnh thổ xích lại
gần nhau hơn, tìm ra những giải pháp để cùng hợp tác và phát triển. Bởi lẽ,
trong thời đại thơng tin thì khơng một quốc gia nào, một cơng ty hay tập
đồn kinh tế nào có thể đứng riêng lẻ mà có thể phát triển nên được. Và xu
thế hội nhập, toàn cầu hóa cũng địi hỏi con người phải có năng lực mới,
phẩm chất mới để thích ứng được với nó. Đó là sự năng động, sáng tạo, chủ
động và linh hoạt trong nắm bắt và xử lý, sử dụng thông tin. Điều này đặt ra

nhu cầu là con người phải có hiểu biết nhất định về tình hình thế giới và về
khoa học, kỹ thuật - công nghệ.
- Điểm thứ tư nhân loại đang đứng trước nguy cơ sự suy thoái, xuống
cấp nghiêm trọng của môi trường sống của con người, do khai thác quá mức
nguồn tài nguyên thiên nhiên. Điều đó cũng ảnh hưởng to lớn đến sự sinh
tồn và phát triển của con người nói chung và mỗi quốc gia dân tộc nói riêng
cả về mặt giống nịi lẫn văn hóa tinh thần và sự cải thiện nâng cao chất
lượng cuộc sống về mặt vật chất. Với những cơ bản như vậy, chúng ta có
thể dễ dàng nhận thấy xu hướng phát triển chính, của thế giới những năm
cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI là xu hướng phát triển chính, chủ yếu của
thế giới những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI là xu hướng hội nhập,


tồn cầu hóa dựa trên nền tảng của sự phát triển nở rộ của khoa học, kỹ
thuật và công nghệ.
Điều đó đã cho thấy, có một sự thay đổi trong nhận thức của nhân
loại về vai trò của con người đối với xã hội loài người.Và sự phát triển của
xã hội lồi người khơng được đánh giá bằng thước đo kinh tế, khoa học,kỹ
thuật và công nghệ một cách đơn thuần, mà sự phát triển của xã hội phải
được đo bằng các chỉ số cụ thể về: nhân cách, tri thức, thể lực, điều kiện
sống và môi trường sống ( cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội), về
tuổi thọ, chiều cao, cân nặng, ... và chất lượng cuộc sống.
Như vậy, xu thế phát triển của thế giới những năm cuối thế kỷ XX,
đầu thế kỷ XXI đã hướng đến sự phát triển của con người, coi con người là
trung tâm của mọi sự phát triển, là mục tiêu và động lực của sự phát triển.
Và như vậy, con người chính là chủ thể của xã hội và sự phát triển xã hội, là
yếu tố đảm bảo cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc, khu
vực và vùng lãnh thổ. Điều đó địi hỏi mỗi quốc gia dân tộc phải có định
hướng chiến lược về phát triển con người để đảm bảo cho sự phát triển của
quốc gia dân tộc.

1. 2.2 Việt Nam trong q trình đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và những đòi hỏi về xây dựng con người trong thời kỳ đổi mới.
Việc tiến hành đổi mới đất nước, đã giúp Việt Nam thoát khỏi sự
khủng hoảng về kinh tế - xã hội vào giữa những năm 90 của thế kỷ trước.
Trên cơ sở đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bắt đầu từ đại hội VIII của Đảng từ
năm 1996. Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước đã làm thay da
đổi thịt. Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ cơ chế quan liêu, bao cấp sang thị
trường với sự chấp nhận của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Điều đó
đã tạo ra động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời kỳ


×