Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Quan niệm về chữ hiếu trong nho giáo và những ảnh hưởng tích cực của nó trong việc giáo dục thế hệ trẻ hiện nay ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.32 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

PHAN THỊ HÀ LONG

Quan niệm về chữ Hiếu trong Nho giáo và những
ảnh hưởng tích cực của nó trong việc giáo dục thế hệ
trẻ hiện nay ở nước ta

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Người Phương Đơng vốn coi trọng các giá trị đạo đức truyền thống, coi
các chuẩn mực đạo đức là thước đo nhân cách con người. Cách cư xử trong gia
đình cũng như ngồi xã hội đều trong vịng ln thường đạo lí. Trong đó mối
quan hệ trong gia đình đặc biệt được đề cao bởi vì đó là nguồn gốc, là nền tảng
cho các mối quan hệ khác. Trong quan hệ gia đình thì chữ Hiếu lại đóng vai trị
vơ cùng quan trọng. Cùng với Trung, Hiếu xây dựng các quy tắc ứng xử của con
người trong hai mối quan hệ rường cột: gia đình và xã hội. Khơng đơn thuần chỉ
là hành vi ứng xử đạo đức của con cái đối với cha mẹ mà hơn thế suy rộng ra
chữ hiếu còn bao gồm các mối quan hệ giữa các thế trong gia đình dịng tộc, là
sự ghi nhận, sự tưởng nhớ của con cháu đối với ông bà tổ tiên, của thế hệ sau
đối với thế hệ trước.
Về cơ bản nội dung phạm trù Hiếu của Nho giáo Trung Quốc mang ý
nghĩa tích cực, đó là bổn phận làm con phải có hiếu đối với cha mẹ. Tuy nhiên,


khi du nhập vào Việt Nam, Nho giáo nói chung, quan niệm về chữ Hiếu nói
riêng đã được Việt hóa về nhiều mặt và nảy sinh nhiều cách hiểu cũng như hành
vi mới mang tính thực tiễn theo quan niệm người Việt. Đặc biệt, đạo Hiếu của
dân tộc Việt Nam được kế thừa và nâng cao trong tư tưởng và nhân cách Hồ Chí
Minh. Ở Người, chữ Hiếu khơng cịn bó hẹp trong phạm vi trọn đạo làm con đối
với ông bà cha mẹ mình mà phạm trù Hiếu được chuyển đổi mang tính cách
mạng, Hiếu cịn là hiếu trung với nhân dân vì nhân dân mà phục vụ, khơng chỉ
thương u cha mẹ mình mà cịn phải thương cha mẹ mình.
Trong điều kiện hiện nay, thời đại kinh tế thị trường giữa bao lo toan tất
bật hối hả của cuộc sống đời thường và sự du nhập của nhiều nền văn hóa khác
nhau trong hành trình hội nhập, tấm lịng hiếu thảo của con cháu đối với cha mẹ
ông bà cũng khác xưa, ngày càng xa rời khung giá trị truyền thống của dân tộc.
Chứng kiến những câu chuyện đau lòng về chữ hiếu mà báo chí và các phương
tiện truyền thơng thời nay đã đưa tin về những vụ án con cái nhẫn tâm giết cha


mẹ để tranh tài sản hay ngược đãi mẹ cha tuổi xế chiều hoặc có những hành vi
hỗn láo xem việc phụng sự cha mẹ là một gánh nặng và đùn đẩy trách nhiệm cho
nhau, sự mâu thuẫn và hận thù giữa những người cùng huyết thống….trong một
xã hội bộn bề và phức tạp như hiện nay. Tất cả những hiện tượng này đã được
các phương tiện thông tin đại chúng đưa ra bàn luận – đây thực sự là tiếng
chng cảnh tỉnh cho tồn xã hội, cho từng gia đình, cho các bậc làm cha làm
mẹ, làm con, cho những người làm công tác giáo dục thế hệ trẻ.Những hiện
tượng tiêu cực đó làm cho khơng ít người băn khoăn phải chăng như “chữ Hiếu
đã lệch lạc”, phải chăng trẻ em ngày nay khơng cịn hiếu thảo như ngày xưa?
Một trong những nguyên nhân cơ bản của các hiện tượng nêu trên chính
là sự nhận thức chưa đúng đắn, chưa thấu đáo và sâu sắc về chữ hiếu và lịng
hiếu thảo của thế hệ trẻ nên có những thái độ và hành vi đi ngược lại với nguyên
tắc của chữ Hiếu.
Như vậy sự nhận thức và hành động về phạm trù Hiếu và đức hiếu thảo là

nội dung quan trọng trong công tác giáo dục đạo đức và cũng là một vấn đề nổi
cộm nhức nhối đang được xã hội và dư luận hiện nay quan tâm. Những hiện
tượng tích cực về đạo Hiếu đang xảy ra trong xã hội hiện nay đã đặt ra nhiều vấn
đề bức xúc mà chúng ta phải giải quyết. Bên cạnh việc phát huy nêu gương
những tấm lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ thì chúng ta cũng cần phải
lên án và phê phán các hiện tượng con cái ngược đãi cha mẹ. Muốn làm được
điều đó chúng ta phải nâng cao hơn nữa vai trò của giáo dục chữ Hiếu đối với
thế hệ trẻ ở trong gia đình cũng như ngoài xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lí do trên, tơi cho rằng cần phải tiếp tục nghiên cứu
những nội dung về các quan điểm đạo đức trong Nho giáo, đặc biệt là chữ hiếu
và những thực trạng nhận thức, hành động về chữ Hiếu của giới trẻ ở Việt Nam
hiện nay nên tôi mạnh dạn chọn đề tài : “Quan niệm về chữ Hiếu trong Nho giáo
và những ảnh hưởng tích cực của nó trong việc giáo dục thế hệ trẻ hiện nay ở
nước ta” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.


Nho giáo đã du nhập và phát triển ở Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch
sử, nó đã trở thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị ở Việt Nam, là công cụ
quan trọng trong việc cai trị và quản lí xã hội của nhiều triều đại phong kiến
Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu Nho giáo về những quan điểm đạo đức chính trị xã hội và những ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam là một vấn đề thu
hút nhiều người quan tâm. Từ trước đến nay việc nghiên cứu Nho giáo nói
chung và quan niệm về chữ hiếu trong Nho giáo nói riêng. Trong đó phải kể đến
những cơng trình nghiên cứu quan trọng như “Thử bàn về đạo “Hiếu” của Nho
Gia” của Lê Văn Qn - theo tạp chí Hán nơm số 2/2003. “Giá trị văn hóa Nho
giáo và việc giáo dục lịng hiếu thảo cho thế hệ trẻ hiện nay” Bùi Văn Hùng,
trường Đại học Vinh.
Gần đây có một số cơng trình nghiên cứu đề cập tới phạm trù Hiếu như: “Luận
điểm trung với nước, hiếu với dân trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” Lê
Hữu Ái, tạp chí lí luận chính trị số 7/ 2004. “Phạm trù trung hiếu trong triết lí

Đơng phương và tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng
hiện nay” Hoàng Trung, tạp chí triết học số 26/ 2002. “Từ đạo Hiếu truyền
thống nghĩ về đạo Hiếu ngày nay” Nguyễn Thị Thọ, tạp chí triết học số 6/ 2007.
“chúng ta kế thừa những tư tưởng gì ở Nho giáo” Minh Anh, tạp chí triết học số
8/ 2001.
Các cuốn sách đề cập tới chữ Hiếu như: “Nhị thập tứ hiếu” Đại Lãn, Nxb Đà
Nẵng, 1983. “Hiếu kinh” Đồn Trung Cịn, nxb tổng hợp Đồng Nai, 2006.
“Luận ngữ”. Tác giả Vũ Khiêu với cuốn sách “Nho giáo và phát triển ở Việt
Nam” Nxb KHXH năm 1997, “Nho giáo xưa và nay” Quang Đạm, NXB văn
hóa, 1994.
Mặc dù Hiếu là một trong những phẩm chất đạo đức quan trọng trong
nhân cách của con ngừơi và cũng là một nội dung quan trọng trong công tác giáo
dục đạo đức nhưng chưa đựơc nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc. Cho đến
nay người ta chưa tìm thấy cuốn sách hay một cơng trình nghiên cứu khoa học
độc lập nào bàn đến vấn đề này một cách cụ thể, đầy đủ và khoa học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.


- Mục đích của luận văn là: Thơng qua việc nghiên cứu những quan điểm cơ
bản của các nhà sáng lập Nho giáo về quan niệm chữ Hiếu (đạo Hiếu) để chỉ ra
những giá trị tích cực và mặt hạn chế và từ đó rút ra ý nghĩa tích cực của nó để
giáo dục đức hiếu thảo cho thế hệ trẻ ở Việt Nam hiên nay.
- Nhiệm vụ của luận văn là:
Thứ nhất, làm rõ những quan niệm cơ bản về chữ hiếu của các nhà sáng lập
Nho giáo.
Thứ hai, sự vận dụng những giá trị tích cực về chữ hiếu của Nho giáo vào Việt
Nam để xây dựng khung giá trị đạo đức mới.
Thứ ba, tìm hiểu thực trạng việc nhận thức về đạo hiếu của giới trẻ và đưa ra
một số giải pháp để nâng cao nhận thức về lòng hiếu thảo cho thế hệ trẻ ở nước
ta hiện nay.

4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lí luận của luận văn được dựa trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa MácLênin trong nghiên cứu những giá trị chuẩn mực đạo đức, quan điểm của Nho
giáo, quan điểm của Phật giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh về chữ Hiếu và các cơng
trình nghiên cứu liên quan đến nội dung trong đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp biện
chứng duy vật của triết học Mác - Lênin kết hợp với một số phương pháp nghiên
cứu khoa học khác như phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp đối
chiếu - so sánh; phương pháp hệ thống hóa, khái quát hóa.
5. Những đóng góp mới của khóa luận.
Đề tài sẽ hệ thống hóa tồn bộ những vấn đề lí luận có liên quan đến phạm trù
Hiếu - một nội dung quan trọng về đạo đức trong quan niệm của Nho giáo ở
Trung Quốc, đồng thời đề tài cũng đưa ra những thực trạng hiện nay của giới trẻ
trong việc nhận thức và hành động về đạo Hiếu để từ đó đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao nhận thức của giới trẻ về đạo Hiếu để xây dựng một gia đình
hiếu thuận, xã hội văn minh với những con người có đầy đủ năng lực và phẩm
chất đạo đức của con người mới đáp ứng những yêu cầu và đòi hỏi của xã hội.
6. Ý nghĩa của khóa luận.


Từ góc độ triết học, luận văn bước đầu làm sáng tỏ và trình bày một cách có
hệ thống những quan niệm về chữ Hiếu của các nhà sáng lập Nho giáo. Để từ đó
Việt Nam tiếp thu những giá trị tích cực để xây dựng khung giá trị chuẩn mực
đạo đức cho con người Việt Nam mới, đồng thời nâng cao nhận thức và hành
động của giới trẻ về đức hiếu thảo trong quá trình xây dựng và phát triển đất
nước.
Với ý nghĩa đó luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và
học tập về các giá trị đạo đức của nho giáo nói chung và quan niệm về chữ Hiếu
nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn gồm 2 chương:
Chương 1: Đạo Hiếu trong triết học Nho giáo.
Chương 2: Việc vận dụng tích cực về quan niêm đạo Hiếu trong Nho giáo
vào giáo dục thế hệ trẻ hiện nay ở nước ta.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
ĐẠO HIẾU TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO
1.1. Vài nét về trường phái triết học Nho giáo
1.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển của trường phái triết học Nho giáo
Nho gia còn gọi là Nho giáo do Khổng Tử (551 - 479 TCN) sáng lập, xuất
hiện vào khoảng thế kỉ VI TCN dưới thời Xuân Thu. Sau khi Khổng Tử mất,
Nho gia chia làm 8 phái, quan trọng nhất là phái Mạnh Tử và phái Tuân Tử.
Kinh điển của Nho gia thường kể đến bộ Tứ thư và Ngũ kinh. Tứ thư có Trung
dung, Đại học, Luận ngữ, Mạnh Tử. Ngũ kinh có Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân thu.
Hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử


Trung Hoa. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị đạo
đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
Nho gia được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung đại: Hán,
Đường, Tống, Minh, Thanh nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại nhà Hán và
nhà Tống gắn liền với các tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (
nhà Hán), Chu Dôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di ( thời Tống).
1.1.2. Các tư tưởng triết học chính trong trường phái Nho giáo
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức
tổ chức xã hội. Gồm:
Học thuyết “Tam Cương”
Học thuyết "Ngũ thường"
Học thuyết "Tứ đức"

Tư tưởng "Hiếu đễ"
Quan điểm của Nho giáo về vai trò của đức trị.
1.1.3. Quá trình thâm nhập và phát triển của Nho giáo vào Việt Nam
Hán Nho đã được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên,
Sĩ Nhiếp ra sức truyền bá vào Việt Nam từ đầu công nguyên. Tuy nhiên đây là
thứ văn hóa do kẻ xâm lược áp đặt nên suốt cả giai đoạn chống Bắc Thuộc, Nho
giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam. Đến năm 1070 với sự kiện Lý
Thánh Tông cho lập văn miếu thờ Chu Cơng, Khổng Tử mới có thể xem là Nho
giáo được tiếp nhận chính thức.
Trong cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh, các nhà Nho Việt Nam
tập hợp dưới cờ đã có những đóng góp to lớn. Sự lớn mạnh của Nho giáo Việt
Nam cùng với nhu cầu cải cách quản lí đất nước đã dẫn đến việc triều Lê đưa
Nho giáo thành quốc giáo. Sự phát triển của Nho giáo chuyển sang giai đoạn
mới: Nho giáo độc tơn. Từ đó Nho giáo thịnh suy theo bước thăng trầm của triều
đình: Thời Lê sơ thì Nho giáo thịnh, thời Lê mạt thì Nho giáo suy, nhiều Nho
gia xuất sắc như Nguyễn Bỉnh Khiêm lui về ở ẩn, nhà Nguyễn lên cầm đầu địa
vị Nho giáo một lần nữa lại được khẳng định để rồi mất hẳn khi phải đối mặt với
văn hóa phương Tây.


Nho giáo Việt Nam chiếm được vị trí độc tơn từ thế kỷ 15 và thịnh đạt nhất
vào thời Lê Thánh Tơng thì đó khơng phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Bởi vì
nó có liên hệ với những nhu cầu xã hội nước ta lúc đương thời. Những nhu cầu
này không chỉ tồn tại ở thế kỷ 15 mà đã sớm xuất hiện từ trước ngay khi Nho
giáo còn đang trên đà phát triển.
1.2. Chữ Hiếu trong quan niệm của các nhà sáng lập Nho giáo.
1.2.1. Quan niệm của Khổng Tử
Chữ hiếu là trọng tâm trong tư tưởng của Khổng Tử và Nho giáo. Được thể
hiện cụ thể:
Trước hết, làm con không được vi phạm lễ nghĩa khi cha mẹ còn sống và cả khi

đã mất. Cúng tế cũng phải chân thành như cha mẹ còn sống.
Thứ hai là làm con biết giữ gìn thân thể sức khỏe cũng là có hiếu. Cha mẹ
thường đau buồn lo lắng khi con mang bệnh tật
Thứ ba là làm con nuôi dưỡng được cha mẹ già yếu mà khơng kính trọng thì
chưa phải có hiếu.
Thứ tư là làm con đối với cha mẹ phải ln giữ được hịa nhã vui vẻ mới là trịn
đạo hiếu. Đây là điều khó khăn nhưng phải cố gắng, nếu khơng thì uổng cơng
ni dưỡng mẹ cha
Đạo hiếu bao hàm đạo trung, hay nói đạo trung cũng là đạo hiếu. Bất
trung cũng tức là bất hiếu cho nên khi xưa cai trị thiên hạ bằng hiếu và không
chỉ yêu cầu mọi người hiếu thuận với cha mẹ mà còn bao gồm yêu cầu mọi
người phải trung với vua. Điều này cũng nêu rõ ràng hiếu là một ngun tắc
chính trị mà khơng phải là quy phạm đạo đức. Cho nên sau chương Khai tôn
minh nghĩa là các chương thiên tử, chư hầu, khanh đại phu, thứ dân… cũng đã
được Khổng Tử lần lượt đề xuất yêu cầu đạo Hiếu đối với từng lớp người khác
nhau:
- Đối với Hiếu của thiên tử
- Đối với Hiếu của các bậc chư hầu (các vua nhỏ
- Đối với Hiếu của quan khanh đại phu
- Đối với Hiếu của quân sĩ


- Đối với hiếu của thứ nhơn (hàng dân chúng, mọi người
Như vậy có thể nói đức Khổng Tử rất đề cao chữ hiếu vì đó là căn bản
ứng xử của con người, từ đó mà việc thảo kính của con cái đối với cha mẹ đã
được xem như là một đạo hiếu.
1.2.2. Quan niệm của Mạnh Tử
Học thuyết Khổng Tử lấy Nhân và Lễ làm gốc, đến Mạnh Tử coi Nhân
Nghĩa làm hạt nhân của học thuyết. Sau đó Nhân Nghĩa trở thành ngọn cờ lí
luận của học phái Nho gia.

Mạnh Tử - bậc Á thánh của Nho gia đã thuyết minh tỷ mĩ rõ ràng trong
sách Mạnh Tử, chương vạn chương thượng về quy phạm hành vi đạo hiếu.
Mạnh Tử nói: “thế tục gọi là bất hiếu có 5 điều:
- Tay chân lười nhác không làm việc, không đối hồi đến việc ni dưỡng cha
mẹ, đó là điều bất hiếu thứ nhất.
- Đánh bạc, đánh cờ ham uống rượu khơng đối hồi đến việc ni dưỡng cha
mẹ, đó là điều bất hiếu thứ hai.
- Ham mê của cải, chỉ lo việc vợ con thơi khơng đối hồi đến việc ni dưỡng
cha mẹ, đó là điều bất hiếu thứ ba.
- Tham lịng ham muốn của tai mắt mình để cho cha mẹ phải tủi khổ, đó là điều
bất hiếu thứ tư.
- Thích những việc dùng vũ lực và đấu tranh bạo nghịch để cho cha mẹ nguy
khốn, đó là điều bất hiếu thứ năm.
Theo đức Mạnh Tử thì hiếu ở mức độ cao nhất và khái quát nhất là làm
cho cha mẹ được tôn trọng, được vinh hiển, làm cho cha mẹ vui lòng và hãnh
diện (sách Mạnh tử, chương vạn chương thượng).
1.2.3. Quan niệm của Tuân Tử
Trước hết, Tăng Tử nói: “Hiếu giả bách hạnh chi tiên”, nghĩa là hiếu là nết
đứng đầu trăm nết).
Trung Hiếu là những đức tính tốt, ai cũng phải noi theo, song người đi
học phải biết biện biệt như thế nào là thật trung, thật hiếu. Tuân Tử nói: “Nhập
hiếu xuất đễ, nhân chi trung hạnh giã; tòng đạo bất tòng quân, tòng nghĩa bất


tòng phụ, nhân chi đại hành dã”, Nghĩa là vào hiếu ra đễ là cái tiểu hạnh của
người ta; thuận theo người trên, thân yêu kẻ duới, là cái trung hạnh của người ta;
theo đạo mà không theo vua, theo nghĩa mà không theo cha, là cái đaị hạnh của
người ta vậy.
1.2.4. Quan niệm của Tăng Tử
Ông là một người chí hiếu với cha mẹ, người đời sau liệt ơng vào một trong

“Nhị thập tứ hiếu” (hai mươi tư tấm gương hiếu thảo) vì truyền thuyết mẹ ơng
khi cắn ngón tay mà ơng động lịng.
Cái học của Tăng Tử chú trọng về đạo đức nhưng tông chỉ đã hơi khác đạo của
Khổng Tử. Khổng Tử lấy Nhân làm cốt, dùng hiếu đễ, lễ nhạc để gây thành đạo
nhân mà Tăng Tử thì lấy Hiếu làm gốc cho các đức tính khác. Những người
đồng ý với ông như Hữu Tử trong sách Luận Ngữ ở thiên Học Nhi nói
rằng: “Hiếu đễ dả giã, kỳ vi nhân chi bản dư”, nghĩa là hiếu đễ làm cái gốc chi
đạo nhân.
Trong tác phẩm Trung Quốc triết học sử, Bác sĩ Hồ Thích cho rằng
Khổng tử nói về hiếu đạo chưa đầy đủ bằng Tăng Tử. Tăng Tử rất chú ý về sự
giảng đạo Hiếu: “Hiếu hữu tam, đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ hạ năng
dưỡng”, nghĩa là hiếu có 3 bậc: Bậc đại hiếu là làm tôn trọng cha mẹ, bậc thứ là
không làm nhục đến cha mẹ, bậc dưới cùng là có thể ni được cha mẹ. Theo
Hồ Thích, tơn thân là tơn cao cái nhân cách của mình, tơn cao cái nhân cách của
cha mẹ mình, khơng hủy hoại thân thể mình, khơng làm điếm nhục đến cái nhân
cách mà cha mẹ đã truyền cho ta và sau hết mới là nuôi dưỡng cha mẹ.
Tư tưởng đạo Hiếu của Nho gia “lấy hiếu cai trị thiên hạ”, “lấy hiếu cái
thương u cha mẹ” dẫn đến kính trọng bề trên.
Có thể hệ thống quy phạm của Hiếu đạo của Nho giáo như sau:
- Dưỡng thân (phụng dưỡng cha mẹ).
- Tôn thân ( Tơn kính cha mẹ).
- Tn thân ( noi theo cha mẹ).
- Lễ thân ( Giữ lễ với cha mẹ).
- Quang thân ( Làm vẽ vang cha mẹ).


Nói chung, học thuyết Khổng Mạnh chú trọng đến chữ Hiếu. đề cao chữ
hiếu cho nên những lời Khổng Tử nói với Tăng Tử về chữ Hiếu gồm thành một
quyển sách gọi là hiếu kinh. Các nguyên tắc ứng dụng cho tròn chữ hiếu, các
nghi thức thực hành hiếu - đễ gọi là hiếu đạo đã ảnh hưởng rất sâu xa trong một

số xã hội Á đơng trong đó có Việt Nam từ xưa đến nay.
1.3. Đánh giá quan niệm về chữ Hiếu trong Nho giáo
1.3.1. Những giá trị tích cực
Cơ bản nội dung phạm trù hiếu mang một ý nghĩa tích cực. Ở xã hội
phong kiến chuyên chế đề xướng đạo Hiếu, ngồi mục đích chiếu cố cha mẹ, mà
thơng qua phẩm chất trung thuận của những người kính yêu, nuôi dưỡng cha mẹ
để đảm bảo ổn định trật tự xã hội hiện thực.
Quan điểm của Nho giáo hết sức tương đồng với các luận điểm của lý
luận giáo dục hiện đại khi cho rằng: Bậc quân tử có ăn ở hợp đạo lí, có hiếu thảo
với cha mẹ thì mới dạy được người khác ngồi xã hội.
1.3.2. Những mặt tiêu cực
Chữ Hiếu trong Nho giáo có những giá trị tích cực được các quốc gia
phương Đơng kế thừa và phát triển. Tuy nhiên, chữ Hiếu ở Nho giáo cũng có
những mặt hạn chế do những điều kiện xã hội thời đó.
Thứ nhất, do q chú trọng đến dịng dõi tông tộc, cộng với sự hạn chế về mặt
lịch sử trong việc nhận thức sinh lí con người nên Nho giáo rất hà khắc trong
việc có con trai nối dõi. Việc lập gia đình mà khơng có con trai nối dõi bị quy
vào tội bất hiếu. Khoa học hiện đại đã chứng minh được rằng: Việc không sinh
được con hoàn toàn do những yếu tố sinh học: Nhiễm sắc thể giới tính chứ
khơng phải do ý muốn chủ quan của các cặp vợ chồng. Một cặp vợ chồng không
sinh được con trai là bất hiếu là hoàn toàn sai lầm và không khách quan. Do sự
lạc hậu trong tư tưởng, quan điểm, phong tục tập quán cho nên có quan niệm
trọng nam khinh nữ như hiện nay (Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô)… và do
khoa học chưa phát triển để có thể giải đáp một cách thỏa đáng những vấn đề
sinh học là những nguyên nhân của tư tưởng lạc hậu nêu trên của Nho giáo.


Thứ hai, phận làm con trong gia đình khơng đựơc cãi lời cha mẹ dù cho những
việc làm đó sai trái.
Thứ ba, Con cái phải nghe theo lời dạy của cha mẹ, cha mẹ đặt đâu con ngồi

đó, khơng được thay đổi ý kiến, tư tưởng khi cha mẹ còn sống thì đó là người
con hiếu thảo. Trong Luận ngữ có viết : Khi Diệp Cơng hỏi Khổng Tử : Ở xóm
tơi có người giữ phép nước rất mực, cha ăn trộm dê thì con đứng ra làm chứng
khai thực, Khổng Tử liền đáp ngay: Ở xóm ta, cha che lỗi cho con, con che lỗi
cho cha, tính ngay thẳng vẫn ở trong đó, vẫn được xem là có hiếu. Đây là những
quan niệm hết sức cực đoan trong học thuyết của Khổng Tử và Nho giáo.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, xã hôi gia tộc tông pháp Phương Đông
cổ đại giữa con người với nhau tồn tại mối tình sâu sắc xây dựng trên cơ sở
huyết thống. Tư tưởng đạo hiếu của Nho gia “lấy hiếu cai trị thiên hạ”, “lấy
hiếu thương yêu cha mẹ”, dẫn đến “kính trọng bề trên”. Nhưng không thể phủ
nhận là biến đạo hiếu phạm trù luân lý vốn là quy phạm huyết thống gia đình
thành triết học chính trị của nhà nước, đem quan hệ lợi ích huyết thống nới rộng
ra thành quan hệ nhân luân cha con anh em. Một mặt che đậy thực chất nhà
nước giai cấp, mặc khác bẻ cong ý nghĩa của bản thân đạo hiếu. Chẳng hạn, ở xã
hội phong kiến hậu kỳ đã luận chứng suy diễn “Vua thiên hạ cũng là cha của
thiên hạ”, và cuối cùng đưa ra kết luận vô cùng tàn khốc “quân sử thần tử, thần
bất tử bất trung”, nghĩa là vua bắt bề tôi chết, bề tôi phải chết, bề tơi khơng chết
là bất trung.
Từ những mặt tích cực và tiêu cực trên của Nho giáo về chữ hiếu thì vấn
đề đặt ra cho chúng ta là phải nhận thức đúng đắn những cống hiến của học
thuyết Nho giáo nói chung, những quan niệm đúng đắn, tiến bộ về đức hiếu thảo
nói riêng cũng như những yếu tố lạc hậu, sai lầm và cực đoan có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước và sự nghiệp trồng người ở nước
ta. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử khác
nhau, Nho giáo được nghiên cứu, đánh giá và vận dụng ở những thang bậc hết
sức khác nhau. Để đánh giá đúng đắn những giá trị cũng như tồn tại của Nho


giáo chúng ta cần có được phương pháp tiếp cận khoa học, có thái độ trung thực,
cơng bằng, khách quan khi xem xét và nghiên cứu Nho giáo.

Hiếu thảo là một đạo lý phổ quát trong các nền văn hóa và khơng một
tơn giáo nào khơng lưu tâm thích đáng đến nó. Dù có thể có những cách nhìn và
có những quy phạm khác nhau, tất cả các giáo lý đều coi hiếu là một giá trị quan
trọng của cuộc sống làm người, nền tảng của đạo lý và hạnh phúc. Do vậy, dù
thời cuộc có đổi mới đến mức nào thì hiếu đạo vẫn là điều ln được coi trọng
và đặc biệt là cơ sở chế định các mối quan hệ gia đình. Trung và Hiếu là hai
phạm trù cực kỳ quan trọng trong văn hóa truyền thống của Nho gia. Đặc biệt,
hiếu thảo được xem là cốt lõi của đức nhân trong hệ thống đạo đức: Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Trải qua hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử, cùng với
một số quốc gia khác ở Châu Á, văn hóa Nho giáo ở Việt Nam cũng có kế thừa
những giá trị tích cực tốt đẹp vốn có, góp phần to lớn vào giáo dục nhân cách
con người nói chung, giáo dục gia đình nói riêng và khẳng định một triết lý giáo
dục của người Việt Nam.

CHƯƠNG 2
VIỆC VẬN DỤNG TÍCH CỰC QUAN NIỆM ĐẠO HIẾU
TRONG NHO GIÁO VÀO GIÁO DỤC THẾ HỆ TRẺ Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY.
2.1. Nhận thức của người Việt về chữ Hiếu.
2.1.1. Nguồn gốc và q trình phát triển chữ hiếu ở Việt Nam.
Khơng có bộ sử sách nào ghi rõ truyền thống hiếu đạo ở Việt Nam xuất
hiện từ lúc nào, trong hoàn cảnh nào. "Hiếu" cũng là một phạm trù đạo đức chính trị quan trọng trong lịch sử tư tưởng phương Đơng. Song, trước tiên, nó
hình thành trong gia đình, ở mối quan hệ con cháu đối với ông bà cha mẹ, nêu
lên nghĩa vụ của con cháu đối với ông bà cha mẹ. Dưới chế độ mẫu hệ hay chế


độ thị tộc phụ hệ, người ta chưa biết đến hiếu. Khái niệm hiếu chỉ xuất hiện dưới
chế độ chủ nơ, khi người ta đã có ý thức về dịng giống.
Như vậy, đạo hiếu bắt nguồn tự nhiên từ thực tiễn đời sống canh nơng ở
Việt Nam. Nó vừa mang tính tơn ti vừa mang tính dân chủ do chịu ảnh hưởng

của phương thức định cư kiểu làng xã có tổ chức chặt chẽ và kiểu sản xuất nông
nghiệp lúa nước.
Xét về tính chất, đạo hiếu thời kì này hồn tồn mang tính dân gian, nó
tồn tại trong mọi gia đình mà khơng có cơ sở lí luận nào. Chính vì vậy, khơng có
một hệ thống tiêu chí nào để phân định, đánh giá đạo hiếu mãi cho đến khi
người Việt Nam tiếp nhận sâu rộng tư tưởng Nho gia từ Trung Quốc.
Qua hàng ngàn năm chống Bắc Thuộc, đạo hiếu ở Việt Nam được ln lí
hóa, nó gắn liền với những tiêu chí đạo đức xã hội: Tam cương - Ngũ thường.
Chữ hiếu bước từ quy mơ gia đình ra xã hội, chuyển từ trạng thái dân gian sang
xu thế quan phương hóa, từ chưa mang tính hệ thống sang tính quy củ…. Tuy
nhiên cần phải hiểu rõ quan niệm đạo hiếu ở Việt Nam, nhiều người có thể nhầm
lẫn cho rằng người Việt Nam tiếp nhận hoàn toàn đạo hiếu từ Trung Hoa. Trên
thực tế, sự tiếp nhận ấy chỉ là yếu tố lí luận. Truyền thống đạo hiếu ở Việt Nam
vẫn mang đặc trưng riêng của nó, hồn tồn nằm trong hệ thống bản sắc văn hóa
Việt Nam.
2.1.2. Đặc trưng quan niệm chữ Hiếu ở Việt Nam
Đạo hiếu ở truyền thống văn hóa Việt Nam hợp nhất với Trung -Nghĩa Đễ thành một khối, lấy lợi ích quốc gia, xã hội làm trọng, do vậy chủ nghĩa u
nước làm nền tảng chính.
Trong lĩnh vực tín ngưỡng tơn giáo, đạo hiếu ở Việt Nam thể hiện tính
dung hịa sâu sắc với niềm tin tâm linh vốn rất phong phú ở Việt Nam. Đạo hiếu
là nền tảng của tín ngưỡng thờ tổ tiên, xa hơn là thờ tổ mầu, quốc tổ. Với tư duy
tổng hợp, đầu óc thần bí người Việt Nam tơn thờ tổ tiên ngồi mục đích thể hiện
chữ hiếu còn gửi gắm niềm mong mỏi hay ước vọng may mắn của mình.
Trong lĩnh vực phong tục, đạo Hiếu thể hiện rõ nhất trong các phong tục
vòng đời và phong tục lễ tết truyền thống. Trong phong tục vòng đời, nghi thức


thành thân (vái lạy cha mẹ) trong phong tục hôn nhân, lễ mừng thọ…đều lấy đạo
Hiếu làm kim chỉ nam. Trong khi đó, các phong tục lễ tết truyền thống coi thờ
cúng tổ tiên là hoạt động trọng tâm mang đầy đủ các giá trị tốt đẹp của chức

năng giáo dục xã hội. Tục rước tổ tiên về ăn tết, tục tảo mộ ngày thanh minh …
đều hướng đến ý nghĩa uống nước nhớ nguồn, giáo dục con cháu tiếp nối truyền
thống hiếu đạo.
2.1.3. Quan niệm của nhân dân ta về Hiếu
Từ khi du nhập vào Việt Nam, về cơ bản những tư tưởng, quan điểm về
đức Hiếu thảo của con người được nhân dân ta tiếp thu, thực hiện và ảnh hưởng
sâu sắc trong đời sống xã hội.
Người Việt Nam tiếp thu đạo Hiếu của Nho giáo có những nét đặc sắc
riêng, không hà khắc và cứng nhắc như Nho giáo mà đã biến đạo hiếu trở thành
giá trị và chuẩn mực đạo đức riêng mang bản sắc Việt Nam phù hợp với từng
điều kiện, hoàn cảnh và con người cụ thể
Nếu như chữ Hiếu trong Nho giáo chỉ bó hẹp trong mối quan hệ gia đình, cụ thể
là mối quan hệ giữa Cha mẹ - Con cái thì khi du nhập vào Việt Nam nó được mở
rộng hơn. Đức hiếu thảo theo quan niệm của người Việt Nam thể hiện tình cảm
sâu sắc, lịng biết ơn của con cái đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên và các thế hệ đi
trước.
Tóm lại, chữ Hiếu theo quan niệm của dân tộc ta thể hiện ở những khía cạnh
sau đây:
- Biết ơn và báo đáp công sinh thành của cha mẹ
- Chăm sóc khi cha mẹ đau ốm, mừng thọ khi cha mẹ về già, thành kính cúng
giỗ khi cha mẹ qua đời.
- Biết ơn thế hệ đi trước, tôn trọng và lễ phép với người cao tuổi
-

Anh em trong gia đình phải ln hịa thuận, tạo niềm vui cho cha mẹ, thể

hiện bổn phận của người con, cháu, cha mẹ trong gia đình.
- Học tập để thành đạt trong sự nghiệp để cha mẹ vui lòng.
Lòng hiếu thảo của con người khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình
mà cịn được mở rộng, thể hiện ở tinh thần: Trung với nước, hiếu với dân, suốt



đời phục vụ vì lợi ích của nhân dân, làm tốt trách nhiệm của công dân nhằm xây
dựng một xã hội giàu đẹp văn minh. Đó là sự khác biệt trong quan niệm Nho
giáo với quan niệm của nhân dân ta (dân tộc)
2.2. Phạm trù Hiếu theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2.1. Hiếu với dân vì dân phục vụ.
Truyền thống giữ đạo Hiếu của dân tộc được kế thừa và nâng cao trong
tư tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh. Trung và hiếu là hai phạm trù đạo đức
được Hồ Chí Minh sử dụng cặp đơi với nhau và coi như chuẩn mực cao nhất
trong hành vi của con người “Trung với nước, hiếu với dân”. Có lúc Bác cịn
dạy: Trung với Đảng, Hiếu với dân. Thực chất Nước và Đảng trong lời dạy của
Bác được hiểu là một. Bởi vì, Đảng là người lãnh đạo, người đại diện cho dân,
cho nước; ngồi lợi ích của tổ quốc, của nhân dân Đảng ta khơng có lợi ích nào
khác. Đảng là đạo đức, là văn minh, là trí tuệ của đất nước trong quá trình phát
triển của Trung với nước, Hiếu với dân. Bác dạy, ngày xưa hiếu với dân chỉ là
hiếu với cha mẹ mình, ngày nay, hiếu với dân là tơn trọng nhân dân, phục vụ
nhân dân trong đó có cha mẹ mình
Hồ Chí Minh, hiếu với dân là làm đầy tớ của dân, tư tưởng thân dân, kính dân,
lấy dân làm gốc. Ở Hồ Chí Minh, tư tưởng hiếu với dân khơng cịn dừng lại ở
chỗ thương dân với tính chất là đối tượng cần phải dạy dỗ, ban ơn, mà là đối
tượng phải phục vụ hết lòng. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và
học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo
phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, lại phải thường xuyên quan tâm đến
việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để nhân dân hiểu được quyền và trách
nhiệm của người làm chủ đất nước, quyền thì hưởng cịn trách nhiệm thì phải
làm trịn.
Nói hiếu với dân khơng có nghĩa là không hiếu với cha mẹ, mà hiếu với
dân trong đó phải có hiếu với cha mẹ mình. Người cách mạng mà khơng có hiếu
với cha mẹ mình thì cũng khơng thể có hiếu với dân được.

2.2.2. Hiếu trong mối quan hệ với trung là chuẩn mực cao nhất của hành vi
con người


Trung là khái niệm chính trị đạo đức xuất hiện trong các tác phẩm kinh
điển của Nho giáo và thường dùng để chủ hành động hết lòng với vua, khái niệm
“trung quân” xuất hiện
Trung và hiếu là hai phạm trù đạo đức được Hồ Chí Minh sử dụng cặp đơi với
nhau và coi như chuẩn mực cao nhất trong hành vi của con người. Nhưng trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, chữ Hiếu khơng cịn bó hẹp trong phạm vi trọn đạo làm
con với cha mẹ mình, mà ở đây hiếu thảo với nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ.
Khơng chỉ u thương cha mẹ mình mà cịn phải u thương cha mẹ người.
Người nói: “Trung với nước. Hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” đã trở thành phương châm
hành động của quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giành độc
lập và bảo vệ tổ quốc.
Trung với nước, Hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của người cách
mạng. Song ở mỗi người, trong mỗi hồn cảnh khác nhau, ở mỗi vị trí khác nhau
cần phải hiểu thấu đáo phạm trù Trung và Hiếu này.
Khi xác đinh nội dung Trung, Hiếu cho mỗi đối tượng bao giừo chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng đặt từng nội dung phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cụ thể:
- Đối với lực lượng vũ trang
- Đối với cán bộ cao cấp trong quân đội
- Đối với công an nhân dân
- Đối với các thầy cô giáo
- Đối với Đảng
- Đối với cán bộ lãnh đạo
Trung với nước, Hiếu với dân là phạm trù gốc của đạo đức cách mạng, là
trách nhiệm đối với công việc, là quan hệ đối với nhân dân, là sự tu dưỡng đối
với bản thân người cách mạng. Dù mục tiêu, nhiệm vụ trong từng thời kì cách

mạng khác nhau, nhưng yêu cầu trung hiếu ln nhất qn và là tiêu chí chung
cho cán bộ, Đảng viên và các tầng lớp nhân dân học tập và rèn luyện. Đó là lịng
u nước thương nịi, tự hào với truyền thống vẻ vang của dân tộc, là bổn phận
và trách nhiệm của mỗi người dân đối với cộng đồng.


2.3. Thực trạng việc nhận thức và hành động về đạo Hiếu của giới trẻ hiện
nay.
Đất nước đang đổi mới hội nhập sâu rộng với thế giới, từ đó chúng ta có
cơ hội để chiết xuất những tinh hoa tốt đẹp từ nền văn hóa các quốc gia khác
làm giàu cho nền văn hóa nước nhà. Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề này đó chính
là sự lai tạp về văn hóa nếu khơng biết gạn lọc đúng cách. Thực tế đã chứng
minh gần đây có những quan điểm Tây hóa trong quan hệ gia đình. Văn hóa
phương Tây khơng nói đến đạo hiếu mà họ chỉ nói đến pháp luật, quyền lợi và
nghĩa vụ mọi người bình đẳng, cha mẹ con cái cũng bình đẳng như nhau. Một
mặt hệ lụy của quan điểm nêu trên đã dẫn đến những việc đáng buồn trong xã
hội như: Con kiện cha mẹ để tranh giành đất đai, con cái ngược đãi cha mẹ,
thậm chí giết cả cha mẹ mình…đã gióng lên hồi chuông cảnh báo sự suy giảm
đạo đức nghiêm trọng của một bộ phận giới trẻ trong xã hội.
Giữa nhịp sống hối hả và sự tấn công của nhiều nền văn hóa khác nhau
trong hành trình hội nhập, sự hiếu thuận của con, cháu ngày một xa rời khung
giá trị truyền thống.
So với trước kia, chữ hiếu ngày nay đã đã có phần thay đổi. Thế hệ trẻ
sống trong sự thừa thải về vật chất nhưng thiếu hụt nhiều giá trị tinh thần, đặc
biệt là tình cảm gia đình. Đây là lỗi một phần do kết quả của sự giáo dục sai lầm
trong gia đình bởi gia đình ln là ngơi trường đầu tiên của mỗi con người.
Người làm con, cháu thời nay dần dần ít có thời gian để quan tâm, chăm
sóc thậm chí ăn với bố mẹ, ơng bà bữa cơm đầm ấm hay ở bên cạnh lúc ốm đau.
Nhiều người chọn giải pháp thuê... dịch vụ báo hiếu hoặc đưa bố mẹ vào trung
tâm dưỡng lão để dành tồn tâm tồn lực cho cơng việc.

Mn đời “Nước mắt chảy xuôi”, cha mẹ nuôi nấng chăm lo cho con cái
là lẽ thường tình. Chuyện bố mẹ nghèo sớm hơm tần tảo nuôi con thành tài trở
nên phổ biến. Nhưng chuyện con cái thành đạt chăm lo chu toàn và để đấng sinh
thành sống tuổi xế chiều vui vẻ lại là hiện tượng khơng nhiều. Thậm chí nhiều
người cịn vịn vào lí do bận rộn, vì hạnh phúc riêng mà ngại phụng dưỡng bố mẹ
mình.


Trong xã hội ngày nay, với nền kinh tế thị trường mà tiền bạc và vật chất
được xem như giá trị cao nhất để đánh giá con người, một số người hoặc là cố ý
hoặc là vơ tình mà ni cha mẹ như là sự ban ơn. Chính những điều này đã làm
cho những người cao tuổi luôn cảm thấy bị bạc đãi, bỏ rơi, họ luôn ở trạng thái
bi quan chán nản, luôn trách mắng con cháu. Thế hệ con cháu ngày nay sống
trong xã hội cạnh tranh rất cao, do đó họ ln bận rộn với cơng việc, ít có thời
gian quan tâm tới cha mẹ và gia đình. Hơn thế nữa thế hệ con cháu đâu biết rằng
người già cần quan tâm đến đời sống tinh thần hơn là đời sống vật chất, cần
được hỏi han và chăm sóc chứ đâu cần một cuộc sống đầy đủ tiện nghi vật chất
mà bị giam lỏng trong bốn bức tường. Qua những thực trạng trên có thể cho
chúng ta thấy rằng, thế hệ trẻ hiện nay có cách suy nghĩ sai lệch và chưa có sự
nhận thức hồn tồn đúng đắn về đạo hiếu nên có những hành vi và thái độ bất
hiếu. Chính vì vây, cơng tác giáo dục đạo đức nói chung, giáo dục đạo đức hiếu
thảo nói riêng là một nhiệm vụ cực kì quan trọng trong giai đọan hiện nay.
2.4. Những biện pháp giáo dục chữ Hiếu cho thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện
nay
2.4.1. Trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục lịng hiếu thảo cho con
cháu
Xã hội muốn ổn định và phát triển thì phải có sự ổn định từ trong mỗi gia
đình. Gia đình nào cũng có những người con hiếu thảo thì xã hội mới hy vọng
ổn định và phát triển được. Bởi lẽ, người con có hiếu trước hết sẽ khơng làm gì
để cha mẹ buồn lịng, sau đó là người quyết chí lập thân hành đạo, nêu cao thanh

danh đến đời sau làm vinh hiển cho cha mẹ. Thực tiễn hiện nay cho thấy nhiều
trẻ phạm pháp, làm việc không tốt làm cho cha mẹ phải buồn phiền lo lắng, xấu
hổ đó là vì chưa thực sự u ông bà, hoặc cha mẹ chưa biết cách yêu thương,
chưa thấu hiểu ý nghĩa đạo lý thực sự của chữ hiếu.
Gia đình là tổ hợp các mối tương quan, trong đó các cá nhân có liên hệ và
tương tác lẫn nhau. Bất cứ bậc làm cha làm mẹ nào cũng đều mong muốn con
mình có hiếu nhưng làm thế nào để con cái hiếu thảo là một vấn đề lớn. Báo chí
và các phương tiện truyền thơng thời nay đã đưa tin về những vụ án con cái


nhẫn tâm giết cha mẹ để tranh giành tài sản hay ngược đãi cha mẹ tuổi xế chiều,
hoặc có hành vi hỗn láo, xem việc phụng dưỡng cha mẹ là một gánh nặng và đù
đẩy trách nhiệm cho nhau. Thực trạng này phản ánh nền đạo đức xã hội đang
xuống cấp và băng hoại nghiêm trọng. Vấn đề không nhỏ nằm trong giáo dục
gia đình. Gia đình là cái nơi, là ngôi trường giáo dục đầu tiên của mỗi người.
Thế hệ đi sau thực hiện bổn phận đạo hiếu của mình, khơng phải từ chính bản
thân đối tượng đó, mà từ cha mẹ đã truyền đạt lại cho con cái qua cách hành xử
trong đời sống thường nhật. Điều này có nghĩa là chữ hiếu phải được vun bón từ
gốc, mầm đạo hiếu mà cha mẹ gieo vào lòng con cái qua những lời ru tiếng hát
ngay từ thưở con mới lọt lòng.
Người làm con, cháu thời nay dần dần ít có thời gian để quan tâm, chăm
sóc thậm chí ăn với bố mẹ, ông bà bữa cơm đầm ấm hay ở bên cạnh lúc ốm đau.
Nhiều người chọn giải pháp thuê... dịch vụ báo hiếu hoặc đưa bố mẹ vào trung
tâm dưỡng lão để dành toàn tâm toàn lực cho công việc.
Sự phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường, xã hội có nhiều tiến bộ,
đời sống nhân dân được cải thiện. Trong những năm đổi mới, đạo đức xã hội nói
chung, đạo đức gia đình nói riêng có nhiều biểu hiện suy thối. Nhiều gia đình
đã lơ là việc gia huấn, con cháu lớn lên gây ra nhiều điều lầm lỗi. Đã đến lúc
mọi gia đình cần phải để tâm, soát xét lại, tái lập gia giáo gia phong. Thể hiện
đạo hiếu với cha mẹ không chỉ là bổn phận, trách nhiệm của người làm con, mà

là quyền lợi thiêng liêng và cao cả của mỗi người. Việc giáo dục đạo hiếu giúp
con cái thấy được bổn phận làm con, giữ đúng vị trí của mình trong gia đình là
vấn đề hết sức quan trọng trong giáo dục gia đình từ xưa đến nay. Khơng chú
tâm tới việc giáo dục đạo hiếu trong gia đình là thiếu sót, quên lãng cái nền
móng thiết yếu nhất của đạo đức xã hội và con người.
- Trước hết gia đình chính là trường học đầu tiên của trẻ, cha mẹ chính là
những người thầy cơ đầu tiên của các em, vừa là tấm gương cho trẻ noi theo
- Thứ hai, giáo dục bằng nêu gương là phương pháp có tầm quan trọng
đặc biệt. Thông qua những câu chuyện về những tấm gương sáng có thật để dạy


trẻ, kể cho chúng nghe những câu chuyện cổ xưa, những tấm gương nhân đức để
nhắc nhở chúng về bổn phận đối với ông bà cha mẹ.
- Thứ ba, gia đình cần tác động trực tiếp đến hành vi, hình thành hành vi
và thói quen hiếu thảo. Các bậc cha mẹ cần cho trẻ hiểu được lòng hiếu thảo thể
hiện ở nhiều mức độ, nhiều tầng bậc khác nhau. Ở mỗi độ tuổi thì hiếu thảo
được thể hiện qua những việc làm cụ thể khác nhau. Ngoài ra, cha mẹ cần giao
việc cho trẻ làm theo khả năng của trẻ. Lúc nhỏ phải biết làm những việc như
quét nhà, tự phục vụ, giúp cha mẹ những việc vặt, vâng lời cha mẹ, học hành
chăm chỉ, được thầy cô bạn bè yêu mến, không tham gia vào các tệ nạn xã hội.
Đối với trẻ lớn hơn, ngoài việc học hành cũng phải biết tranh thủ phụ giúp làm
kinh tế, phải biết lo toan cơng việc của gia đình, săn sóc ơng bà, cha mẹ khi ốm
đau. Đó chính là hiếu thảo.
2.4.2. Trách nhiệm của nhà trường trong việc giáo dục đức hiếu thảo cho
học sinh
Giáo dục nhà trường là một thiết chế chun biệt. Đó là tính mục đích
mang ý nghĩa xã hội cao được quán triệt trong quá trình giáo dục, đó là hệ thống
tri thức và kỹ năng, nhất là phương pháp tư duy có tính chất cơ bản, hệ thống và
có thể phát triển, mở rộng.
Thực chất trong nhà trường cũng như trong công tác giáo dục đạo đức

trong nhà trường khơng có một văn bản nào hướng dẫn việc thực hiện giáo dục
đức hiếu thảo cho học sinh. Nhưng trong thực tiễn công tác giáo dục đức hiếu
thảo vẫn được thực hiện từ bao đời nay. Trong nhà trường phổ thơng hiện nay
khơng có một bộ mơn riêng biệt nào chỉ để giáo dục đức hiếu thảo cho học sinh.
Thực tế cho thấy tất cả các môn học trong nhà trường phổ thơng hiện nay đều
phải góp phần giáo dục cho học sinh có lịng hiếu thảo đối với ơng bà, cha mẹ.
Để nhà trường có thể thực hiện tốt vai trị giáo dục của mình cần phải:
- Việc giảng dạy những nội dung của đức hiếu thảo không chỉ được thực
hiện trong khuôn khổ các môn học như giáo dục công dân, đạo đức mà việc giáo
dục đó cần tiến hành qua tất cả các mơn học khác. Nhà truờng cần quan tâm hơn
nữa đến công tác giáo dục đạo đức cho học sinh không chỉ qua môn học đạo


đức, giáo dục cơng dân mà cịn phải lồng ghép nội dung này vào nhiều mơn học
khác nhau có liên quan.
- Nhà trường cần có nhiều hoạt động: Cần tuyên dương, khen thưởng và
nhân rộng những tấm gương học sinh nghèo vượt khó học giỏi, sống hiếu thảo
với cha mẹ được mọi người yêu mến. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, báo
cáo thành tích của những học sinh nghèo vượt khó có hiếu với cha mẹ, phát
động các phong trào như chăm sóc người cao tuổi, người tàn tật, những gia đình
thương binh liệt sỹ, gia đình chính sách, phát động tích cực hơn nữa phong trào
“học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Chính những phong
trào này là môi trương thuận lợi để học sinh thể nghiệm những nhận thức và thái
độ của bản thân trên cơ sở đó hình thành và rèn luyện thái độ và hnàh vi về đức
hiếu thảo một cách đúng đắn.
- Thầy cơ cũng phải lấy bản thân mình làm tấm gương trực chiếu cho học
sinh noi theo, làm theo mà khơng nặng về lí thuyết giáo điều và mang lại hiệu
quả to lớn.
- Nhà trường cần chủ động, phối hợp với gia đình và xã hội nhằm tạo nên
sức mạnh tổng hợp trong việc giáo dục lòng hiếu thảo cho học sinh. Thực tế cho

thấy: Ở những nơi làm tốt mối quan hệ giữa gia đình – nhà trường – xã hội, tạo
nên thơng tin nhiều chiều thì cơng tác giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục
lịng hiếu thảo nói riêng đạt hiệu quả cao.
2.4.3. Trách nhiệm của xã hội trong việc giáo dục đức hiếu thảo cho trẻ
Giáo dục xã hội theo nghĩa rộng là những tác động trức tiếp hay gián tiếp
của các tổ chức, cơ quan, đoàn thể trong nhà trường hoặc ngoài nhà trường đến
quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Trước những hiện tượng băng hoại đạo đức nghiêm trọng và phổ biến như hiện
nay thì vấn đề giáo dục khơng cịn gói gọn trong gia đình và nhà trường nữa,
mặc dù gia đình và nhà trường rất quan tâm đến đổi mới nội dung, phương pháp
giáo dục để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống cho lớp trẻ. Vì vậy, xã
hội cũng có trách nhiệm to lớn trong việc giáo dục đạo đức, cụ thể là giáo dục
đức hiếu thảo cho thế hệ trẻ.


- Các cấp chính quyền ở các địa phương cần nhận thức đúng đắn tầm quan
trọng và quan tâm hơn nữa tới cơng tác giáo dục lịng hiếu thảo, đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi cho gia đình, nhà trường thực hiện tốt vai trị giáo dục của
mình. Các cấp chính quyền cũng cần có những biện pháp cứng rắn nhằm răn đe,
giáo dục và xử lý những cá nhân có thái độ và hành vi chưa đúng đắn : Ngược
đãi cha mẹ, ông bà. Sự tham gia của các cấp chính quyền trong cơng tác giáo
dục có một ý nghĩa quan trọng và nó tạo nên “Hành lang pháp lý” cho cơng tác
giáo dục đạo đức, giáo dục lịng hiếu thảo.
- Xã hội cần phải đẩy mạnh, nhân rộng phong trào thi đua “ông bà cha mẹ
mẫu mực, con cháu thảo hiền”, “Gia đình gương mẫu” để góp phần cùng gia
đình và nhà trường giáo dục các em. Qua các phong trào này sẽ giúp các em dần
dần hình thành những chuẩn mực đạo đức trong gia đình và xã hội.
- Các tổ chức chính trị - xã hội: Hội cựu chiến binh, phụ nữ, thanh
niên…cần quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục đạo đức. Bằng cách tổ chức,
phát động các phong trào xây dựng gia đình văn hóa để tạo nên dư luận đúng

đắn về nhận thức, thái độ và hành vi của thanh thiếu niên trong gia đình và ngồi
xã hội.
Thực tế cho thấy ở những địa phương mà các tổ chức chính trị xã hội thực
hiện tốt việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh thì nơi đó thanh thiếu niên, học sinh, con cháu tôn trọng pháp
luật, gương mẫu, hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
Tóm lại, trong điều kiện hiện nay chúng ta cần tiếp tục khẳng định vai trò
của chữ hiếu trong gia đình cũng như ngồi xã hội; kế thừa và phát triển hiếu
theo tinh thần Hồ Chí Minh gắn với việc xây dựng gia đình văn hóa mới đáp
ứng yêu cầu hiện đại hóa xã hội và xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Việc
giáo dục đạo đức cho giới trẻ nói chung và giáo dục đức hiếu thảo cho giới trẻ
nói riêng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba lực lượng gia đình, nhà trường và
các tổ chức xã hội nhất định sẽ nâng cao được hiệu quả giáo dục, rèn luyện cho
thế hệ trẻ. Chính vì vậy, Hồ Chủ Tịch đã căn dặn: Giáo dục trong nhà trường chỉ
một phần, cần có sự giáo dục ngồi xã hội và trong gia đình để giúp cho việc


giáo dục trong nhà trường tốt hơn. Giáo dục nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng
thiếu giáo dục trong gia đình và ngồi xã hội thì kết quả cũng khơng hoàn toàn.
Chúng ta cần phải xem trọng hơn nữa vấn đề giáo dục lòng hiếu thảo cho thế hệ
trẻ. Bởi lẽ, lịng hiếu thảo khơng chỉ bó hẹp ở phạm vi giữa cha mẹ và con cái
mà phải nâng tầm cao hơn ở góc độ xã hội là có hiếu với nhân dân với đất nước.
Nếu người có hiếu sẽ khơng tham nhũng cửa quyền, ép bức gây khó dễ cho dân
để đem về tư lợi cho mình, đó là một sức mạnh căn bản để chữa lành những vết
thương của xã hội, của thế giới hiện nay. Phục hồi được lòng hiếu thảo chúng ta
sẽ xây dựng được một nền tảng cho xã hội lành mạnh, bền vững trong phát triển.

KẾT LUẬN
Hiếu là nền tảng của đạo làm người, là nhân tố tạo nên đức nhân của
người quân tử - 1 mẫu người lí tưởng trong Nho giáo. Chung quy việc tu thân để

tiến đến việc “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” phải bắt đầu từ một đức tính căn
bản của mỗi người, đức tính đó khơng đó khơng có gì khác hơn là hiếu hạnh.
Trong điều kiện hiện nay, chúng ta cần tiếp tục khẳng định vai trị của chữ
Hiếu trong gia đình cũng như ngồi xã hội, tiếp thu những giá trị tích cực về chữ
Hiếu trong Nho giáo, kế thừa và phát triển Hiếu theo tinh thần Hồ Chí Minh gắn
với việc xây dựng gia đình văn hố mới đáp ứng u cầu hiện đại hoá xã hội và
xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Sau 20 năm đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhân
dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế tăng
trưởng cao, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện…Tuy
nhiên, bên cạnh đó trong những năm đổi mới đạo đức xã hội nói chung, đạo đức
gia đình nói riêng có nhiều biểu hiện suy thối. Xã hội có nói nhiều đến vai trò
của giáo dục đối với sự phát triển của đất nước, nhưng chủ yếu bàn về sự truyền
đạt tri thức còn lĩnh vực giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là giáo dục đức
hiếu thảo chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, hiện nay đã xảy ra nhiều hiện
tượng đáng buồn (Con đánh cha mẹ, không chăm sóc cha mẹ chu đáo, ngược đãi
cha mẹ…) làm cho chúng ta phải trăn trở, suy ngẫm.


Thể hiện đạo Hiếu với cha mẹ không chỉ là bổn phận, trách nhiệm của
người làm con mà còn là quyền lợi thiêng liêng và cao cả của mỗi người.
Thực hiện đạo Hiếu trong gia đình chúng ta sẽ nối được nghiệp nhà, làm rạng
rỡ tổ tơng và góp phần cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Chữ hiếu từ xưa
đến nay không trực tiếp tạo nên mức tăng trưởng GDP mỗi năm của người Việt
nhưng lại có một ý nghĩa hết sức lớn lao là đã tạo ra những con người Việt Nam
nghĩa tình, hiếu thảo.
Qua việc tìm hiểu thực tế việc thực hiện và giáo dục các phẩm chất đạo đức, cụ
thể là chữ Hiếu cho học sinh, giới trẻ thông qua nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh tác giả cảm thấy băn khoăn và lo ngại về đời sống đạo đức của xã hội
của giới trẻ hiện nay. Tác giả hi vọng với việc nghiên cứu khóa luận “Quan

niệm về chữ Hiếu trong Nho giáo và những ảnh hưởng tích cực trong việc giáo
dục thế hệ trẻ nước ta hiện nay” sẽ có tác dụng tới việc hình thành những thói
quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội, đáp ứng những yêu
cầu của xã hội hiên đại.
Luận văn này với mục đích tìm hiểu chữ hiếu trong Nho giáo, trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó thấy được thực trạng việc nhận thức
và hành động về đạo hiếu thảo của giới trẻ để từ đó tác giả đưa ra các biện pháp
nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức và hành động của giới trẻ về đức hiếu thảo.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về trình độ hiểu biết và thời gian,
số lượng tài liệu tham khảo có hạn, khóa luận sẽ khơng tránh khỏi những thiếu
sót. Do vậy, tác giả rất mong được sự đóng góp của các thầy giáo, cô giáo và các
bạn để đề tài được hoàn chỉnh hơn.


×