Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao trong cách mạng việt nam giai đoạn 1965 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.89 KB, 71 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

VÕ THỊ THÚY HẰNG

Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh quân sự với đấu
tranh ngoại giao trong cách mạng Việt Nam giai
đoạn 1965-1975

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


Lời cảm ơn!
***
Để hồn thành được khóa luận tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn
chân thành và sâu sắc đến thầy giáo- Thạc Sỹ Nguyễn Tiến Lương đã hướng
dẫn tận tình cho em trong thời gian qua. Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm
ơn tới các thầy cơ giáo trong khoa Giáo dục Chính trị- Trường Đại học Sư
phạm, Khoa Lý luận Chính trị- Trường Đại học Kinh tế cùng gia đình, bạn bè,
người thân đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hồn thành khóa luận tốt
nghiệp này!
Qua quá trình nghiên cứu bản thân em đã cố gắng tìm hiểu, vận dụng
các kiến thức được học tập, dành nhiều thời gian cho việc tìm kiếm tài liệu và
tham khảo thêm một số người đi trước, nhưng do năng lực bản thân còn hạn
chế, nhận thức chưa cao, thời gian nghiên cứu không cho phép, do đó đề tài
khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Cho nên em mong muốn nhận
được sự đóng góp của các thầy cô, các anh chị cũng như các bạn sinh viên để


khóa luận của em được hồn thiện hơn!
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện:

Võ Thị Thúy Hằng

2


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua ngót 37 năm, nước
nhà đã hoàn toàn độc lập, cả nước thống nhất đi lên xây dựng CNXH. Từ mơt
nước có xuất phát điểm tương đối thấp, lại bị chiến tranh tàn phá chúng ta đi
lên xây dựng đất nước theo con đường XHCN- con đường mà Đảng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Mặc dù gặp phải nhiều khó khăn nhưng với quyết
tâm cao độ của toàn Đảng, toàn dân muốn hoàn thành di nguyện của Bác Hồ
xây dựng đất nước ta “đàng hồng hơn, to đẹp hơn” cơng cuộc xây dựng đất
nước đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nền kinh tế đã thốt khỏi tình
trạng khủng hoảng, trì trệ và đang tiến nhanh trên con đường cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, văn hóa,
giáo dục, y tế…có bước phát triển, chúng ta đã tham gia sâu rộng và ngày
càng hiệu quả ở các tổ chức khu vực như ASEAN, APEC, ASEM, WTO...
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã để lại cho Đảng ta,
nhân dân ta nhiều bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá, trong đó có bài học
kinh nghiệm về phương pháp cách mạng, đó là việc kết hợp chặt chẽ giữa đấu
tranh quân sự, chính trị với đấu tranh ngoại giao, mà đặc biệt là kết hợp giữa
đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao với phương châm “vừa đánh, vừa
đàm” là đỉnh cao trong nghệ thuật đấu tranh cách mạng của Đảng.
Với chủ trương, đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với

hoàn cảnh lịch sử trong từng thời kỳ, Đảng đã chọn đúng thời điểm để mở
mặt trận ngoại giao, lãnh đạo kết hợp đúng đắn, đấu tranh quân sự với đấu
tranh ngoại giao. Đường lối đó đã tạo điều kiện phát huy được sức mạnh của
cả nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm nên sức mạnh
tổng hợp để đánh thắng địch từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Trong giai đoạn hiện nay, khi thế giới đang bước vào q trình tồn cầu
hóa, hội nhập quốc tế thì việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời

3


đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hội nhập quốc tế thành công, xây dựng
CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN là hết sức quan trọng. Vì vậy,
việc nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh quân sự với đấu
tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn 1965- 1975
từ đó đúc kết ra những bài học kinh nghiệm để vận dụng vào hội nhập quốc tế
hiện nay là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Với lý
do đó, tơi chọn đề tài: “Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh quân sự với đấu
tranh ngoại giao trong cách mạng Việt Nam giai đoạn 1965-1975” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Đường lối đấu tranh kết hợp quân sự và ngoại giao trong kháng chiến
chống Mỹ giai đoạn 1965- 1975 của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo nhằm tranh
thủ mọi nguồn lực trong và ngồi nước góp phần đẩy nhanh thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đây là một trong những vấn đề nổi bật được
nhiều người quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu các sách, báo, bài viết, chuyên khảo về đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ chẳng hạn như:
Các cuốn sách viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng như các cuốn
sách viết về ngoại giao Việt Nam thời chống Mỹ như: “Tổng kết cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nước, thắng lợi và bài học”(Ban chỉ đạo tổng kết chiến
tranh trực thuộc Bộ Chính trị - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995). “Ngoại
giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945 – 1975)”(Học
viện quan hệ quốc tế - Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội, 2001). “Tấn cơng
ngoại giao và tiếp xúc bí mật” (Mai Văn Bộ - Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
1985). “Mặt trận ngoại giao thời kỳ chống Mỹ” (Nguyễn Duy Trinh - Nxb Sự
thật,1979). “Thế giới ca ngợi thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta” (Nxb Sự thật,
1977). “Đại thắng mùa xuân” (Văn Tiến Dũng - Nxb quân đội nhân dân,

4


1977). “Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng” (Võ Nguyên Giáp - Viện
khoa học quân sự, Hà Nội, 1974)...
Những bài trong hội thảo khoa học, các tạp chí, các bài chuyên khảo
như:“Sự kết hợp chính trị - quân sự - ngoại giao trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước” (Tạp chí cộng sản).“ Đường lối cách mạng đúng đắn,
sáng tạo của Đảng – nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến”(TS.Phạm Văn Thạch - Báo nhân dân ngày 1/4/2010). “ Đấu tranh
ngoại giao, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” (Vũ
Dương Huân ) …
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích
Qua việc tìm hiểu đường lối của Đảng trong việc kết hợp đấu tranh
quân sự và ngoại giao trong cách mạng Việt Nam giai đoạn 1965- 1975, đề tài
góp phần đúc kết những kinh nghiệm vừa bổ sung cho lý luận, vừa để vận
dụng vào thực tiễn hội nhập quốc tế hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ hoàn cảnh lịch sử và đường lối của Đảng về kết hợp đấu tranh quân
sự với đấu tranh ngoại giao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giai đoạn

1965- 1975.
- Làm rõ những bài học kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp
đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ giai
đoạn 1965- 1975 đồng thời đưa ra những kiến nghị về việc vận dụng bài học
đó vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ hội nhập quốc tế
hiện nay .
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập nghiên cứu đường lối kết hợp đấu tranh quân sự với đấu
tranh ngoại giao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giai đoạn 1965- 1975.

5


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện dựa trên những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về kết hợp
đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao.
Phương pháp nghiên cứu:Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong
đề tài là: Phương pháp lịch sử và phương pháp logic, phương pháp phân tích,
tổng hợp, khái qt hóa, đối chiếu, so sánh…
5. Đóng góp của đề tài
Qua nghiên cứu làm rõ nội dung đường lối của Đảng về sự kết hợp đấu
tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ giai đoạn
1965- 1975, đề tài góp thêm nguồn tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu Lịch
sử Đảng, nghiên cứu đường lối của Đảng.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần làm sáng rõ thêm nội dung đường lối kết hợp đấu
tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao của Đảng trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập môn lịch

sử Đảng và môn Đường lối cách mạng Đảng.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần
nội dung được chia làm 2 chương:
Chương 1: Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh tranh quân sự với đấu
tranh ngoại giao trong cách mạng Việt Nam giai đoạn 1965- 1968.
Chương 2: Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh
ngoại giao trong cách mạng Việt Nam giai đoạn 1969-1975.

6


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO KẾT HỢP ĐẤU TRANH QUÂN SỰ VỚI ĐẤU
TRANH NGOẠI GIAOTRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 1965- 1968
Tổng kết thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 19541975, Đại hội lần thứ IV của Đảng đã nêu lên nhiều nhân tố trong đó có
phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo. Điển hình là sự kết
hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đến một giai đoạn cần thiết thì
mở mặt trận đấu tranh ngoại giao và kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự
với đấu tranh ngoại giao. Đây là phương châm thích hợp nhằm kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến đấu,
chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
1.1. Các khái niệm.
Để làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh quân sự với đấu
tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta đi vào tìm
hiểu một số khái niệm liên quan như: quân sự, đấu tranh quân sự; ngoại giao,
đấu tranh ngoại giao.
1.1.1. Quân sự và đấu tranh quân sự.

Theo từ điển bách khoa Việt Nam khái niệm quân sự theo nghĩa rộng:
là lĩnh vực hoạt động đặc biệt của xã hội liên quan đến đấu tranh vũ
trang, chiến tranh và quân đội hay các lực lượng vũ trang. Quân sự theo nghĩa
hẹp: là một trong những hoạt động cơ bản trong quân đội, cùng với các hoạt
động khác như chính trị, hậu cần, kỹ thuật... tạo nên sức mạnh chiến đấu của
quân đội.
Đấu tranh quân sự là đấu tranh của lực lượng vũ trang diễn ra trên mặt
trận quân sự, chống lại sức mạnh quân sự của thế lực ngoại bang hòng dùng
vũ lực để đặt ách thống trị lên các quốc gia khác. Lực lượng tham gia trên mặt

7


trận đấu tranh quân sự gồm có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân
du kích.
1.1.2. Ngoại giao và đấu tranh ngoại giao.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam: Ngoại giao là một nghệ thuật tiến
hành trong việc đàm phán, dàn xếp, thương lượng giữa những người đại diện
cho một nhóm hay một quốc gia. Thuật ngữ này thông thường đề cập đến
ngoại giao quốc tế, việc chỉ đạo, thực hiện các mối quan hệ quốc tế thơng qua
sự can thiệp hay hịa giải của các nhà ngoại giao liên quan đến các vấn đề như
kinh tế, thương mại, văn hóa, du lịch, chiến tranh và tạo nền hịa bình… Các
hiệp ước quốc tế thường được đàm phán bởi các nhà ngoại giao trước tiên để
đi đến việc xác nhận chính thức của các chính trị gia của các nước.
Ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được hiểu là quá
trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại của Đảng nhằm kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đường lối đấu tranh ngoại giao của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước vừa nhằm đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, vừa
nhằm huy động sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh

tổng hợp để chiến đấu, chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về kết hợp đấu tranh quân sự với đấu
tranh ngoại giao.
Hồ Chí Minh là một nhà chính trị, nhà quân sự lỗi lạc, người được
UNESCO cơng nhận là Anh hùng giải phóng dân tộc và là danh nhân văn hóa
thế giới. Người đã có vai trò to lớn trong cuộc đấu tranh giành và giữ nền độc
lập dân tộc để đất nước ta có được hịa bình, độc lập như ngày hơm nay.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, người đã để lại cho chúng ta
nhiều tư tưởng lớn có ý nghĩa vạch thời đại. Những tư tưởng của người xuất
phát từ sự hiểu biết un thâm về nền văn hóa Đơng, Tây, Kim, Cổ kết hợp
với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của người không lý luận dài

8


dịng, khơng tầm chương trích cú mà là những lời lẽ bình dị, ngắn gọn, súc
tích rất gần gũi với mỗi người dân, dễ nghe, dễ hiểu, dễ làm. Đặc biệt, ở
người lời nói ln đi kèm với hành động, những tư tưởng của người luôn
được kiểm chứng bởi hoạt động của chính bản thân người. Bởi vậy, những tư
tưởng của người luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta trên con
đường lãnh đạo đất nước.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc,
người là một nhà lãnh đạo tài tình, là chỗ dựa của tồn Đảng, tồn dân ta.
Người cũng có nhiều quan điểm chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo nhằm đưa cuộc
cách mạng của chúng ta đến thắng lợi cuối cùng. Trong những quan điểm đó
có quan điểm về sự kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, người đã rất coi trọng sự kết hợp
giữa chiến trường với mặt trận ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln khẳng
định rằng ngoại giao phải có thực lực làm cơ sở, muốn có ngoại giao thành
cơng thì phải dựa trên thực lực mạnh. Năm 1944, khi lực lượng cách mạng

của ta còn chưa mạnh, một số đồng chí của ta muốn tiến hành quan hệ với
chính phủ Tưởng Giới Thạch và Mỹ để xin cầu viện nhưng Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhắc nhở các đồng chí phải chú ý đến thực lực trước khi nói đến
ngoại giao. Tại Hội nghị Liễu Châu (3/1944) người khẳng định: Nếu mình
chưa có thực lực làm cơ sở thì hãy khoan nói đến ngoại giao hoặc cây có cao
thì bóng mới dài, ý nói thực lực cách mạng có mạnh mới có thắng lợi trên đấu
trường ngoại giao. Sau đó, khi cách mạng tháng 8 đã thành cơng, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa- Nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Châu Á
đã được thành lập, trong một cuộc trả lời phỏng vấn của các tờ báo liên quan
đến việc thành lập Chính phủ Liên hiệp ngày 26-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định về công tác ngoại giao như sau: Thực lực như cái chiêng
mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn... Nhìn qua lịch sử
thế giới thì rõ. Muốn được các nước cơng nhận phải qua một thời gian khá

9


lâu. Qua đó ta thấy được người đã nhìn thấy mối quan hệ biện chứng giữa
thực lực với ngoại giao, giữa mặt trận ngoại giao với mặt trận quân sự. Thực
tiễn cuộc kháng chiến chống Pháp đã chứng minh điều đó. Chỉ khi trên chiến
trường chúng ta giành được những thắng lợi thì chúng ta mới có tiếng nói và
giành thế chủ động trên mặt trận ngoại giao. Thật vậy, khi trên chiến trường
chúng ta giành được chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu”, “Chấn
động địa cầu”, đập tan cái gọi là sức mạnh quân sự của Pháp có sự viện trợ
của Mỹ thì lúc đó thực dân Pháp mới chịu ngồi vào bàn đàm phán ở Hội nghị
Gienever để ký Hiệp định Gienever nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh của
chúng ở Đông Dương.
Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng với quan điểm đó, Người
đã đưa ra những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn giúp Đảng ta mở mặt trận ngoại
giao đúng lúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ln căn dặn các đồng chí lãnh

đạo rằng chúng ta mở mặt trận ngoại giao nhưng khơng có nghĩa là mặt trận
đó đấu tranh một cách độc lập mà phải luôn chú trọng đến mối quan hệ với
chiến trường. Khi nói chuyện với đại diện Chính phủ ta sắp lên đường sang
Paris đàm phán với Mỹ người căn dặn kỹ 4 điều trong đó người khẳng định
rằng: các chú đi Pháp, ở nhà người ta đánh cho các chú phát huy, nghĩa là
phải tận dụng thắng lợi trên chiến trường để làm vốn trên bàn đàm phán. Phải
biết kết hợp quân sự với ngoại giao, vừa đánh vừa đàm mới có hiệu quả cao
nhất. Như vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng ba mặt trận chính
trị, qn sự, ngoại giao phải ln kết hợp chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh
tổng hợp để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong ba mặt trận đó mặt trận nào
là chủ yếu là tùy thuộc vào thực tiễn cách mạng nước ta qua từng thời kỳ.
Những tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh trên đây là kim chỉ nam cho
mọi quyết sách của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đảng ta đã thấm
nhuần tư tưởng của người mở mặt trận ngoại giao khi chúng ta đã giành được
những thắng lợi trên chiến trường miền Nam trong những năm 1954- 1965.

10


Đó là khi thực lực của ta đã mạnh, chúng ta đã phá tan hai chiến lược “Chiến
tranh Đơn phương” và “Chiến tranh Đặc biệt” của Mỹ, đã chứng tỏ được khả
năng của quân cách mạng của ta không hề e ngại khi đối đầu với một đội quân
tinh nhuệ và được trang bị đầy đủ vũ khí như quân đội Mỹ. Sau khi mở mặt
trận ngoại giao, Đảng ta đã kết hợp nhuần nhuyễn vừa đánh, vừa đàm phán,
(kết hợp giữa đánh với đàm), tùy vào từng hoàn cảnh, từng thời điểm cụ thể .
Từ đó chúng ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù,
đem lại độc lập, tự do cho dân tộc.
1.3. Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao
trong cách mạng Việt Nam giai đoạn 1965- 1968.
1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử.

*Hoàn cảnh thế giới.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ba dòng thác cách mạng trên thế giới
tiếp tục phát triển: Hệ thống XHCN thế giới hình thành và khơng ngừng lớn
mạnh về mọi mặt; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh
mẽ ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ la tinh; phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân lao động ở các nước tư bản đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống
cũng dâng cao mạnh mẽ. Bên cạnh đó, sự thành cơng và phát triển của cách
mạng Trung Quốc khiến cho Mỹ lo sợ trước nguy cơ bành trướng của chủ
nghĩa Cộng sản sẽ đe dọa đến vị trí cường quốc của Mỹ. Trọng điểm trong
chiến lược tồn cầu của Mỹ chuyển xuống khu vực Đơng Nam Á và khi đó
Việt Nam là một vị trí đặc biệt quan trọng trong kế hoạch “Đắp con đê ngăn
chặn làn sóng đỏ” của Mỹ.
Lúc này trong hệ thống XHCN, Liên Xô vẫn là một cường quốc kinh tế
và quân sự lớn đối trọng với Mỹ kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Đặc
biệt ở Liên Xô, chủ nghĩa xét lại Khơrutxôp sụp đổ là một bước ngoặt trong
đời sống chính trị của Liên Xơ và trong chính sách của Liên Xô đối với Việt
Nam. Liên Xô giành nhiều sự quan tâm hơn đối với cuộc cách mạng của Việt

11


Nam, những giúp đỡ của Liên Xô cho nước ta ngày càng lớn và có hiệu quả
hơn so với trước đó. Đây là một thuận lợi lớn đối với cuộc cách mạng ở miền
Nam Việt Nam. Sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô không những là nguồn động
viên to lớn về vật chất mà còn là một động lực về mặt tinh thần, giúp Đảng ta,
nhân dân ta vững tin hơn vào con đường mà Việt Nam đang hướng tới là độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH. Bên cạnh Liên Xơ thì Trung Quốc cũng giành
cho ta sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả và ngày càng nhiều hơn mặc dù trong
giai đoạn này Liên Xô và Trung Quốc đang có những bất đồng sâu sắc về
quan điểm. Ngồi ra, trên thế giới đang hình thành mặt trận nhân dân thế giới

phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và ủng hộ cuộc đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Về phía Mỹ, do sa lầy vào cuộc chiến tranh Việt Nam, đầu tư quá nhiều
cho quốc phòng mà nền kinh tế hàng đầu thế giới này có phần sụt giảm nhiều
so với trước, vai trò cường quốc của Mỹ đang bị đe dọa. Trong khi đó một số
nước khác ở Châu Âu và cả Nhật Bản lợi dụng việc Mỹ bị sa lầy ở Đơng
Dương để vượt lên thốt ra khỏi sự kiểm sốt của Mỹ cả về kinh tế, chính trị
và quân sự.
Đây là những điều kiện quốc tế thuận lợi cho cuộc cách mạng của nước
ta trong giai đoạn này. Tuy nhiên bên cạnh đó tình hình quốc tế vẫn cịn một
số khó khăn khơng nhỏ tác động đến phong trào cách mạng Việt Nam. Trước
hết do đánh giá quá cao sức mạnh của Mỹ, Liên Xơ đã tìm cách hướng ta đi
vào thương lượng với Mỹ khi điều kiện chưa chín muồi. Cụ thể là từ năm
1965 đến 1968 Liên Xô đã 24 lần chuyển ý kiến của Mỹ đề nghị chúng ta
đàm phán, thương lượng [1, 313]. Trong khi đó ở Trung Quốc, cuộc cách
mạng văn hóa mà Trung Quốc đang tiến hành cũng có tác động xấu đến chính
sách của Trung Quốc đối với Việt Nam và cả Đông Dương. Một mặt, Trung
Quốc vẫn giúp ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng mặt khác Trung
Quốc lại muốn hướng ta đi theo đường lối của họ. Ngoài ra, đây cũng là giai

12


đoạn mà mâu thuẫn Xô- Trung diễn ra gay gắt gây chia rẽ giữa các nước trong
phe XHCN. Điều này cũng gây ra khơng ít khó khăn cho sự phát triển của
cách mạng Việt Nam. Một khó khăn nữa đối với cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn này là việc Mỹ tiến hành những hoạt động ngoại giao xảo quyệt
nhằm lừa bịp dư luận thế giới, hù dọa các nước với mục đích cơ lập, đè bẹp
ta, buộc ta phải đầu hàng chúng. Thế giới vẫn tồn tại xu thế phục Mỹ, sợ Mỹ,
sợ chiến tranh nguyên tử. Chính phủ Mỹ nhắn qua Liên Xô đề nghị Việt Nam

đàm phán, nhưng khi chúng ta yêu cầu Mỹ chấm dứt mọi hành động chống
phá Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì ta sẽ đàm phán với Mỹ, một yêu
cầu hết sức chính đáng thì lại khơng được chính phủ Mỹ chấp thuận.
* Hoàn cảnh trong nước.
Ở Việt Nam, sau trận Điện biên phủ “lừng lẫy năm châu”, “chấn động
địa cầu” chúng ta đã buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký
Hiệp định Genever về Việt Nam, Pháp phải rút quân khỏi Việt Nam chấm dứt
hơn 87 năm đô hộ nước ta. Sau khi Hiệp định Genever được ký kết, miền Bắc
nước ta hoàn toàn được giải phóng. Tuy nhiên, do âm mưu thâm độc của bọn
đế quốc, thực dân, miền Nam nước ta lại trở thành thuộc địa kiểu mới của
Mỹ. Để thực hiện âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới
của mình, song song với việc gạt bỏ Pháp và chính quyền thân Pháp, Mỹ đã
xây dựng nên chính quyền tay sai Ngơ Đình Diệm- đại diện cho giai cấp tư
sản mại bản và phong kiến phản động trung thành với Mỹ. Chúng đã huy
động bộ máy quân đội, cảnh sát để tiến hành những cuộc thảm sát đối với
nhân dân miền Nam. Với ý đồ thâm độc của mình, Mỹ đã mở nhiều chiến
dịch nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng của ta với mục đích biến miền Nam
Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự của Mỹ. Với quyết
tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong 10 năm đầu ( 19541964) quân và dân ta đã đánh bại lần lượt hai chiến lược “Chiến tranh đơn
phương” và “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.

13


Từ năm 1963 cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã có bước phát triển mới.
Ba chỗ dựa của “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ là ngụy quân, ngụy quyền, ấp
chiến lược và đô thị đều bị quân ta tấn công liên tục và đang bị lung lay, đứng
trước nguy cơ bị sụp đổ hoàn toàn.
Ngụy quân- đội quân đánh th, cơng cụ chính của đế quốc Mỹ thì: đại
bộ phận lực lượng vũ trang và nửa vũ trang ở cấp thơn, xã đã bị tan rã và bộ

phận cịn lại đang tiếp tục tan rã; các đơn vị tập trung kể cả các đơn vị chủ lực
cơ động bị tiêu hao và tiêu diệt ngày càng nặng, ngày càng tan rã nghiêm
trọng về tinh thần và tỏ ra không thể đương đầu nổi với chiến tranh du kích
đang phát triển rộng khắp và với những trận đánh lớn của qn chủ lực ta như
ở An Lão, Bình Giã…vừa qua.
Chính quyền ngụy- ngụy quyền: chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ
ngày càng chống đối và xâu xé lẫn nhau kịch liệt, những cuộc đảo chính xảy
ra liên tiếp khiến cho Mỹ khơng thể nào tạo ra được một tình hình chính trị
cũng như một chính quyền tay sai ổn định.
Hệ thống ấp chiến lược được coi là “xương sống của cuộc chiến tranh
đặc biệt” thì đã bị phá tan 4 đến 5 phần; phần lớn nhân dân và đất đai ở nơng
thơn đã thuộc về vùng giải phóng. Đáng chú ý là việc phá ấp chiến lược và
mở rộng vùng giải phóng đồng bằng Khu V đang tạo ra một thế trận chia cắt
với chiến trường Tây Nguyên.
Các đô thị trước đây được địch xem là hậu phương an tồn của chúng,
thì nay ở đó phong trào quần chúng đã vùng dậy rất mạnh mẽ với khí thế tiền
khởi nghĩa. Các tầng lớp trung gian ngày càng ngả về xu hướng trung lập. Hai
lực lượng Phật giáo và Công giáo trước đây địch còn lợi dụng được nay đang
phân hóa, đặc biệt trong Phật giáo xu hướng chống Mỹ- ngụy ngày càng phát
triển.
Đến đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ về cơ
bản đã bị phá sản. Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ bắt

14


đầu chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ồ ạt đưa quân Mỹ tiến vào
miền Nam nước ta. Đây là “cố gắng quân sự lớn nhất, bước leo thang chiến
tranh cao nhất của Đế quốc Mỹ ở miền Nam cũng là lần đầu tiên Hoa Kỳ đưa
nhiều quân nhất đi xâm lược kể từ sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai” [1,

59]. Về tính chất và mục đích, cuộc chiến tranh này vẫn là một cuộc chiến
tranh xâm lược nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Tuy nhiên cuộc
chiến tranh này từ chỗ dựa vào ngụy quân, ngụy quyền là chủ yếu chuyển
thành cuộc chiến tranh dựa vào hai lực lượng chiến lược là quân đội viễn
chinh Mỹ và qn đội chính quyền Sài Gịn, vừa tập trung lực lượng chủ yếu
trên chiến trường miền Nam vừa mở rộng chiến tranh phá hoại đối với miền
Bắc, tạo ra tình hình cả nước có chiến tranh với Mỹ. Trong cuộc chiến tranh
này, quân Mỹ đã dùng những thủ đoạn tác chiến mới như hỏa lực mạnh, cơ
động cao, bước nhảy sâu, quây vùng rộng để “tìm diệt” chủ lực ta với tham
vọng “bẻ gãy xương sống Việt Cộng” và “chụp bắt” cơ quan đầu não kháng
chiến của ta ở miền Nam nhằm bao vây, cô lập miền Nam. Lực lượng quân
chiến đấu của Mỹ cũng được huy động rất cao gồm cả lục quân, không quân
và hải quân.
Tuy đế quốc Mỹ trực tiếp đem quân vào nước ta gây cho ta khơng ít
khó khăn nhưng giai đoạn này cách mạng Việt Nam vẫn có những thuận lợi
nhất định. Ở miền Bắc, công cuộc xây dựng CNXH đã đạt được nhiều thành
tựu, kế hoạch năm 5 lần thứ nhất đã đạt và vượt các chỉ tiêu về kinh tế, văn
hóa. Nhân dân miền Bắc vẫn từng giờ, từng phút nhớ đến miền Nam ruột thịt,
luôn kề vai sát cánh cùng nhân dân miền Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Sự chi viện về sức người, sức của của miền Bắc cho miền Nam ngày
càng được tăng cường trên mọi mặt.
Trước khi Mỹ đưa quân vào miền Nam so sánh lực lượng về mọi mặt
giữa cách mạng miền Nam và địch đã thay đổi nhanh chóng theo hướng có lợi
cho ta. Phong trào du kích chiến tranh phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trong

15


khi lực lượng vũ trang và nửa vũ trang của địch ở cấp thôn, xã đã tan rã đại bộ
phận, lực lượng cách mạng ở miền Nam đã lớn mạnh về mọi mặt và đang ở

vào thế thuận lợi, tuyệt đại đa số nhân dân miền Nam đã đoàn kết trong “Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”, mặt trận đã trở thành người tổ
chức và động viên mọi lực lượng yêu nước ở miền Nam. “Lực lượng vũ trang
giải phóng miền Nam” đã lớn mạnh vượt bậc, có tinh thần chiến đấu cao và
đứng vững trên hầu khắp các địa bàn chiến lược quan trọng. Về trình độ tác
chiến, ta đã sử dụng lực lượng tập trung ngày càng nhiều trong từng trận
đánh, làm thất bại hết chiến thuật này đến chiến thuật khác của địch, đánh
những trận tiêu diệt ngày càng lớn trong những điều kiện địa hình khác nhau
và đã bắt đầu có khả năng đánh thắng nhiều trận lớn trong một thời gian ngắn
trên nhiều hướng khác nhau. Phong trào cách mạng ở thành thị ngày càng
phát triển mạnh mẽ, vùng giải phóng tuy chưa hoàn chỉnh nhưng đã bao gồm
đại bộ phận rừng núi và nông thôn Nam Bộ và Khu V với phần lớn số dân và
ngày càng được củng cố. Đảng bộ miền Nam đã có cơ sở rộng rãi và vững
chắc được tôi luyện trong chiến đấu, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, có kinh
nghiệm phong phú trong đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, trong việc
tổ chức thực hiện đường lối của Đảng.
Như vậy có thể thấy, bước sang giai đoạn 1965- 1968, tình hình trong
nước và thế giới có nhiều biến động và ngày càng có lợi cho cuộc đấu tranh
của nhân dân ta. Trên thế giới, hệ thống XHCN ngày càng lớn mạnh, phong
trào đấu tranh vì hịa bình phát triển, làn sóng dư luận thế giới ủng hộ cuộc
đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Việt Nam ngày càng lên cao… Ở trong
nước, công cuộc xây dựng CNXH của miền Bắc đạt được nhiều thành quả
tích cực góp phần chi viện cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Ở miền Nam,
những thắng lợi của quân và dân ta trên tất cả các mặt trận đã làm cho chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ thất bại hoàn toàn. Mỹ buộc phải chuyển
sang kế hoạch “Chiến tranh cục bộ” ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và các nước

16



đồng minh của Mỹ vào Miền Nam Việt Nam đồng thời mở rộng cuộc chiến
tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc nước ta. Đồng
thời với việc đẩy mạnh tiến công quân sự xâm lược nước ta, đế quốc Mỹ thực
hiện kế hoạch ngoại giao nhằm che dấu âm mưu xâm lược. Với những luân
điệu “Hịa bình trong tầm tay”, “chiến tranh hạn chế”, “thực hiện can kết với
ngụy quyền Sài Gòn”; đồng thời Mỹ cịn thơng qua đại diện Chính phủ Liên
Xơ đề nghị Việt Nam đàm phán”.
Đây là những thuận lợi và khó khăn cơ bản cho sự phát triển của cách
mạng nước ta trong giai đoạn mới.
1.3.2. Đường lối đấu tranh của Đảng.
Để chống lại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã họp các Hội nghị lần thứ 11(3/1965) và 12 (12/1965) để
nghiên cứu một cách sâu sắc và tồn diện tình hình do âm mưu và hành động
chiến tranh mới của đế quốc Mỹ gây ra và đề ra nhiệm vụ mới để lãnh đạo
toàn dân đoàn kết chặt chẽ, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Đảng ta
nhận định rằng, đến cuối năm 1964 với chiến thắng Bình Giã của quân dân
miền Nam, rõ ràng là ngụy qn khơng cịn đủ sức chống đỡ nổi trước sức
tiến cơng của qn giải phóng miền Nam và đế quốc Mỹ cũng bắt đầu thấy
rằng chúng có thể thua trong chiến tranh đặc biệt.
Đầu năm 1965, đế quốc Mỹ liều lĩnh tiến hành chiến tranh phá hoại đối
với miền Bắc nước ta, chủ yếu là để cứu vãn sự thất bại của chúng ở miền
Nam; cuộc chiến tranh bằng bộ binh vẫn còn hạn chế ở chiến trường miền
Nam là chính, phương hướng chiến lược của địch về cơ bản vẫn chưa thay
đổi.
Trước tình thế bị động, lúng túng ấy, đế quốc Mỹ phải ồ ạt đưa quân
chiến đấu Mỹ vào miền Nam. Điều đó chứng tỏ rằng chiến lược chiến tranh
đặc biệt đã bị phá sản. Đảng ta cũng nhận định trong cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam nước ta, về tính chất và mục đích vẫn là

17



cuộc chiến tranh xâm lược nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, song cuộc
chiến tranh đó từ chỗ dựa vào lực lượng quân ngụy là chủ yếu, đã phát triển
thành một cuộc chiến tranh của Mỹ, dựa vào hai lực lượng chiến lược là quân
đội viễn chinh Mỹ và quân Ngụy do đó cuộc chiến tranh sẽ diễn ra gay go, ác
liệt hơn. Nhưng đế quốc Mỹ tăng cường và mở rộng chiến tranh trong thế
thua, thế bị động theo một chiến lược đầy mâu thuẫn và bế tắc. Trước hết,
chiến lược của Mỹ phản ánh mâu thuẫn sâu sắc giữa mục đích chính trị là cứu
vãn chế độ thực dân kiểu mới và biện pháp đưa quân đội viễn chinh vào xâm
lược theo lối thực dân kiểu cũ. Thứ hai là do tính chất phi nghĩa của chiến
tranh xâm lược, quân đội viễn chinh Mỹ chiến đấu không có lý tưởng, bị nhân
dân Việt Nam, nhân dân tiến bộ Mỹ và nhân dân thế giới lên án, tinh thần
chiến đấu của chúng ngày càng sút kém. Dù có trang bị hiện đại đến đâu
chúng cũng không thể đương đầu nổi với sức mạnh đoàn kết, chiến đấu của
quân và dân ta. Thứ ba là tuy đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế và quân sự
mạnh nhất trong phe đế quốc, nhưng tình hình thế giới cũng như tình hình
nước Mỹ khơng cho phép chúng sử dụng hết tiềm lực ấy. Chúng không thể
tăng quân vào miền Nam với bất kể số lượng nào mà khơng tính đến những
khó khăn về mọi mặt trên chiến trường Việt Nam, trên thế giới cũng như
trong nước Mỹ.
Hơn nữa, đế quốc Mỹ tăng quân vào miền Nam đúng vào lúc chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” của chúng bị phá sản về căn bản, chiến tranh
nhân dân của ta đang phát triển mạnh mẽ và rộng khắp; ngụy quân, ngụy
quyền bị thất bại nghiêm trọng cả về chính trị và quân sự, vùng chiếm đóng
của chúng bị thu hẹp cịn lực lượng của ta thì đang lớn mạnh nhanh chóng về
mọi mặt. Đặc biệt trong mấy tháng đầu năm 1965 Mỹ tăng quân ồ ạt vào miền
Nam đã liên tiếp bị những thất bại nặng nề, lúng túng, bị động. Trong khi đó
cuộc chiến tranh phá hoại của địch ở miền Bắc cũng thất bại nặng. Vì vậy,
Đảng ta khẳng định: “Dù đế quốc Mỹ có đưa vào mấy chục vạn quân, về


18


chiến lược chúng cũng buộc phải phân tán lực lượng trên khắp các chiến
trường và ngày càng lâm vào thế bị động, càng sa lầy và thất bại. Quân đội
viễn chinh Mỹ cũng không thể nào cứu vãn được ngụy quân, ngụy quyền khỏi
sự sụp đổ tất yếu” [19, 700]. Trong khi đó, lực lượng cách mạng của Việt
Nam đã lớn mạnh về mọi mặt và đang ở vào thế thuận lợi.
Ở miền Nam, Mặt trận giải phóng đã có cơ sở rộng rãi và vững chắc
trong công nhân, nông dân, tập hợp được các giai cấp trong nhân dân, các
nhân sỹ yêu nước, nắm vững và dương cao ngọn cờ độc lập, dân chủ. Lực
lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã lớn mạnh vượt bậc, có tinh thần
chiến đấu cao, có chiến thuật, kỹ thuật tốt, đánh du kích giỏi, đánh vận động
giỏi lại triển khai và đứng vững trên hầu hết các địa bàn chiến lược quan trọng
ở khắp nơng thơn và rừng núi. Vùng giải phóng tuy chưa hoàn chỉnh nhưng
đã bao gồm phần lớn dân số, ngày càng được củng cố và phát huy ưu thế của
chế độ độc lập và dân chủ. Đảng bộ miền Nam có cơ sở rộng rãi và vững
chắc…
Ở miền Bắc, công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội cũng đã giành được
nhiều thành quả quan trọng, cao trào “chống Mỹ, cứu nước” được phát động
và thực hiện rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Ngoài ra, trên thế giới,
cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam ở cả hai miền được sự
ủng hộ tích cực và giúp đỡ mạnh mẽ của các nước XHCN anh em, được sự
đồng tình và ủng hộ rộng rãi của các nước dân tộc chủ nghĩa và của nhân dân
yêu chuộng hịa bình kể cả nhân dân Mỹ.
Trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế và trong nước, so sánh lực lượng
giữa ta và địch Trung ương Đảng đã khẳng định chúng ta có đủ điều kiện để
đánh Mỹ và thắng Mỹ và nêu rõ quyết tâm: Chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ
thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc. “Chúng ta phải động viên lực

lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ trong bất kỳ tình huống nào nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền

19


Nam, hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực
hiện hịa bình, thống nhất nước nhà. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
cần cố gắng vượt bậc, tập trung lực lượng của cả nước, kiên quyết đẩy mạnh
đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, đánh bại đế quốc Mỹ và tay sai trên
chiến trường chính là miền Nam” [19, 705].
Phương châm chiến lược chung trong cuộc chiến tranh giải phóng
chống Mỹ cứu nước là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Chúng ta phải
nắm vững phương châm đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh thì mới khoét sâu
được nhược điểm về chính trị và quân sự của Mỹ, tiêu diệt một phần quan
trọng sinh lực quân Mỹ, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân ngụy, đè bẹp
ý chí xâm lược của Mỹ và giành thắng lợi cuối cùng. Trong hoàn cảnh cụ thể
hiện nay, trên cơ sở tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu
dài, chúng ta cần phải cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng cả hai miền để
tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn
trên chiến trường miền Nam. Quân và dân ta cần ra sức tăng cường lực lượng
về mọi mặt, tiếp tục phát triển thế chủ động, liên tiếp tấn công địch, kiên
quyết phấn đấu để giành những thắng lợi ngày càng to lớn. Đó là phương
châm chỉ đạo chiến lược đúng đắn duy nhất.
Về phương châm đấu tranh, Trung ương Đảng khẳng định: Cần phải
tiếp tục duy trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính
trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp cơng. Trong đó Đảng ta khẳng định, trong
giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ
một vị trí ngày càng quan trọng. Nhưng đấu tranh quân sự chỉ thu được kết
quả lớn nhất nếu nó được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị; đấu tranh

quân sự và đấu tranh chính trị tiếp tục phối hợp với nhau, thúc đẩy nhau. Điều
quan trọng là phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể mới mà vận dụng phương
châm cho linh hoạt và thích hợp, triệt để phối hợp các mặt trận quân sự, chính

20


trị, binh vận từ phạm vi nhỏ đến phạm vi lớn, từ hình thức thấp đến hình thức
cao.
Ngồi ra, Đảng ta cũng khẳng định trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu
nước, chúng ta cần nắm vững phương châm dựa vào sức mình là chính nhưng
đồng thời chúng ta cần hết sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và viện trợ quốc
tế vì đó là một nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của nhân dân ta.
Ở miền Bắc, Mỹ dựng lên cái gọi là sự kiện Vịnh Bắc Bộ để huy động
không quân và hải quân đánh phá miền Bắc nước ta với ý đồ đưa miền Bắc
trở về thời kỳ đồ đá. Trước tình hình đó, Nghị quyết lần thứ 11 và 12 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa III đã đề ra nhiệm vụ đối với miền Bắc là:
“Tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều
kiện có chiến tranh, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN, động viên sức người, sức của
ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng
thời tích cực đề phịng địch mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước” [19,
715].
Bên cạnh những mục tiêu về chính trị và qn sự thì đấu tranh ngoại
giao cũng được Đảng ta hết sức quan tâm. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 11, một trong những nhiệm vụ cụ thể của miền Bắc được Đảng
và Nhà nước ta đề ra là đẩy mạnh cơng tác ngoại giao cho phù hợp với tình
hình mới. Trong đó trên cơ sở thực hiện quyết tâm của ta là đánh bại địch ở
miền Nam, bảo vệ miền Bắc và đẩy lùi âm mưu mở rộng chiến tranh của địch,
Đảng ta khẳng định phương hướng đấu tranh ngoại giao của ta cần phải đạt

được những yêu cầu:
Về miền Nam: Làm rõ chính sách và hành động của đế quốc Mỹ là xâm
lược, và chính quyền miền Nam chỉ là tay sai của đế quốc Mỹ; làm rõ chính
đế quốc Mỹ và tay sai đã phá hoại hiệp định Gienever năm 1954; làm rõ cuộc
đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam là chính nghĩa, nhân dân miền

21


Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ vì độc lập dân tộc và hịa bình; làm rõ cuộc
đấu tranh u nước của nhân dân miền Nam là một đóng góp to lớn vào sự
nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc do Mỹ cầm
đầu, vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Bởi vì, đế quốc Mỹ
dùng miền Nam làm nơi thí nghiệm cho cuộc chiến tranh đặc biệt của chúng,
nhằm dập tắt cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước, đặc biệt là
nhân dân các nước Á, Phi và Mỹ Latinh, thực hiện chính sách thực dân kiểu
mới, với tham vọng làm bá chủ thế giới; đấu tranh ngoại giao trong thời kỳ
này còn phải tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ ngày càng mạnh mẽ và đầy đủ
hơn của phe XHCN và của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh chính
nghĩa của ta ở miền Nam.
Về miền Bắc: Làm rõ đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc là
hòng gỡ thế chúng thất bại trong “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam nhưng
chúng càng mở rộng chiến tranh càng thất bại nặng nề hơn; làm rõ đế quốc
Mỹ đã xâm phạm chủ quyền độc lập của Việt Nam; làm rõ đế quốc Mỹ đã
phá hoại hiệp định Gienever năm 1954.
Khi nhận được ý kiến của Liên Xô về việc Mỹ đề nghị chúng ta đàm
phám, chúng ta cũng tỏ rõ thiện chí của mình bằng việc khẳng định: Mỹ chấm
dứt mọi hành động chống phá Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa thì chúng ta
có thể đàm phán với Mỹ ở bất cứ nơi nào trên thế giới.
Trong phát hiểu tại Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (12- 1965) đồng

chí Lê Duẩn cũng đã giành một phần nói về kết hợp giữa đấu tranh quân sự
với đấu tranh ngoại giao. Đồng chí nhận định: Vấn đề đánh và đàm không
phải là vấn đề hoàn toàn mới. Trong lịch sử nước ta Nguyễn Trãi cũng đã
thực hiện chiến lược lấy yếu thắng mạnh, có đánh, có đàm để chống quân
phong kiến nhà Minh. Các đồng chí Trung Quốc cũng đã từng chủ trương vùa
đánh, vừa đàm khi đánh nhau với Mỹ Tưởng…

22


Ở Việt Nam lúc này, đồng chí Lê Duẩn cũng khẳng định: về chiến lược
chính trị, chúng ta chủ trương cách mạng miền Nam phải trải qua những bước
quá độ trước khi tiến tới thống nhất nước nhà và đưa cả nước lên CNXH. Về
mặt quân sự chúng ta không chủ trương đánh và tiêu diệt đến tên lính Mỹ cuối
cùng ở miền Nam và bắt đế quốc Mỹ phải đầu hàng không điều kiện, mà
chúng ta chủ trương đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào. Như vậy, vấn đề có đánh
có đàm- đánh thắng đến mức độ nhất định lại tiếp tục đàm phán. Vừa đánh
vừa đàm là một sách lược gắn liền với đường lối chính trị và quân sự nói trên.
Ngồi ra đồng chí cũng khẳng định rằng: “Trong tình hình của chúng ta có lẽ
khơng cần đợi phải giành thắng lợi một cách căn bản rồi mới đàm mà đến
một lúc nào đó trong những điều kiện nhất định sẽ có thể vừa đánh vừa đàm
nhằm hạn chế những hành động quân sự của đối phương, tranh thủ sự đồng
tình và ủng hộ rộng rãi hơn nữa trên thế giới cũng để giấu bớt ý đồ chiến
lược của chúng ta” [19, 660].
Như vậy, trong quan điểm chỉ đạo của mình Đảng ta rất coi trọng sự kết
hợp giữa mặt trận quân sự và mặt trận ngoại giao, giữa đánh và đàm. Bởi vậy
trong giai đoạn này Đảng ta liên tục tổ chức các hoạt động ngoại giao, lên kế
hoạch tuyên truyền những ngày lễ lớn nhằm tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của
các nước trong phe XHCN, các nước tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hịa
bình trên thế giới chẳng hạn như các đợt vận động tuyên truyền trong ngày

20/7 hằng năm- Ngày quốc tế ủng hộ nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ
xâm lược với những hoạt động cụ thể như: 20/7/1965 Đại hội đoàn kết nhân
dân Á- Phi lần thứ 4 họp tại Uynnơba đa quyết định tổ chức “Tuần lễ ủng hộ
nhân dân Việt Nam chống xâm lược Mỹ”. Đảng ta đã lên kế hoạch tuyên
truyền, vận động nhân dân ta và nhân dân thế giới nhằm gây căm thù và kịch
liệt lên án đế quốc Mỹ và tay sai, đập tan luận điệu “hịa bình” lừa bịp của
chúng. Ngày 20/7/1966, Đảng ta cũng phát động một cuộc tuyên truyền rộng
rãi nhằm: phát động dư luận thế giới tố cáo và lên án mạnh mẽ âm mưu của

23


Mỹ tăng cường chiến tranh xâm lược ở miền Nam và “leo thang” trong chiến
tranh phá hoại miền Bắc; tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong cán bộ và
nhân dân ta, làm cho mọi người nhận rõ âm mưu, tội ác của đế quốc Mỹ, nhận
rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của địch và của ta… nhằm nâng cao cảnh giác đối với
âm mưu của địch cũng như tin tưởng vào đường lối chống Mỹ của ta; động
viên nhân dân thế giới có những hành động thiết thực, mạnh mẽ chặn tay bọn
xâm lược Mỹ mở rộng chiến tranh…
Thời gian này, để tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của bạn bè thế giới,
Đảng ta tổ chức “Cuộc họp mặt những nhà khoa học, văn hóa thế giới ủng hộ
nhân dân Việt Nam chống cuộc chiến tranh xâm lược Mỹ” nhằm tạo tiếng
vang và gây ảnh hưởng quốc tế rộng lớn góp phần động viên thêm nhiều lực
lượng ủng hộ ta và cơ lập đế quốc Mỹ. Ngồi ra, nhận thức rõ rằng trong tình
thế sa lầy ngày càng nguy ngập ở miền Nam Việt Nam đế quốc Mỹ đã dùng
thủ đoạn đấu tranh tàn bạo nhất, phạm những tội ác tày trời ở cả hai miền
Nam- Bắc nước ta. Những tội ác đó của địch cần được đưa ra ánh sáng một
cách rõ ràng, liên tục để góp phần khơi sâu lòng căm thù của nhân dân ta,
động viên lòng căm thù của nhân dân thế giới đối với đế quốc Mỹ xâm lược,
Đảng ta đã quyết định thành lập tổ chức “Điều tra tội ác chiến tranh của đế

quốc Mỹ ở Việt Nam”.
Đầu năm 1967, khi thế và lực của ta đã mạnh trên chiến trường, Đảng
ta tiếp tục đưa ra chủ trương mở mặt trận ngoại giao để phối hợp với hai mặt
trận chính trị và quân sự, vận dụng sách lược vừa đánh vừa đàm với mục
đích: Tranh thủ hơn nữa dư luận thế giới, tỏ thiện chí của ta, vạch mặt hịa
bình bịp bợm của đế quốc Mỹ, gây thêm sức ép đòi Mỹ phải chấm dứt ném
bom miền Bắc, nói chuyện với mặt trận, rút quân khỏi miền Nam; khoét sâu
những khó khăn của địch trong nội bộ chúng và trên thế giới, kiềm chế bớt
việc mở rộng chiến tranh ở miền Nam, leo thang ở miền Bắc đồng thời tranh
thủ thời gian tăng cường lực lượng quốc phòng miền Bắc và tăng cường giúp

24


đỡ miền Nam; góp phần làm tan rã ngụy quân và đẩy mạnh phong trào đô thị
ở miền Nam, làm cho ngụy quyền lung lay khó duy trì được ách thống trị của
chúng.
Trong Nghị quyết lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương ngày
27/1/1967 Đảng ta khẳng định: “Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của nhân dân ta hiện nay đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền
Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho
thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn
hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên
đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên
chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, đối với tính chất cuộc đấu
tranh của ta và địch cuộc đấu tranh ngoại giao vẫn giữ một vai trị tích cực,
chủ động” [20, 197]. Đảng ta cũng khẳng định phương châm của đấu tranh
ngoại giao là: phát huy thế mạnh, thế thắng của ta; chủ động tiến công địch;
giữ vững tính độc lập đồng thời phối hợp chặt chẽ với các nước XHCN anh
em. Mục đích của đấu tranh ngoại giao được Đảng ta xác định là nhằm tố cáo

mạnh hơn nữa những tội ác đã man của bọn xâm lược Mỹ, vạch trần thủ đoạn
hịa bình bịp bợm của chúng; đề cao lập trường 4 điểm của chính phủ ta và
bản tuyên bố 5 điều của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam;
làm sáng tỏ lập trường chính nghĩa và thế tất thắng của ta; tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ và giúp đỡ mạnh mẽ hơn nữa bằng nhiều hình thức của nhân dân
các nước XHCN anh em, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và
mọi lực lượng u chuộng hịa bình và công lý trên thế giới, lập một mặt trận
thống nhất của nhân dân thế giới chống đế quốc Mỹ xâm lược. Như vậy, từ
đây mặt trận ngoại giao chính thức được mở và trở thành một mặt trận đấu
tranh chính, gay go, ác liệt khơng kém cuộc đấu tranh trên chiến trường.
Bước sang năm 1968, trên cơ sở những thắng lợi mà quân dân ta đã
giành được về chính trị, quân sự và ngoại giao, Đảng ta đã họp Hội nghị lần

25


×