Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Mối quan hệ biện chứng giữa phát triển văn hóa và phát triển du lịch ở khánh hòa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.47 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------

NGUYỄN THỊ KIM HOA

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Ở KHÁNH HÒA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------

NGUYỄN THỊ KIM HOA

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Ở KHÁNH HÒA HIỆN NAY

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:


TS. HỒ ANH DŨNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là kết quả cơng trình nghiên cứu của tơi.
Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công
bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào.
Tác giả
Nguyễn Thị Kim Hoa


MỤC LỤC
MỤC LỤC ......................................................................................................... 2
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài .................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn....................... 4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ......................... 5
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn............................................ 5
6. Kết cấu của luận văn............................................................................... 6
CHƯƠNG 1 ....................................................................................................... 7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH ........................ 7
1.1. Quan niệm về văn hóa, phát triển văn hóa và vai trị của văn hóa trong xã
hội
7
1.1.1. Quan niệm về văn hóa ......................................................................... 7
1.1.2. Các loại hình văn hóa ....................................................................... 16

1.1.3. Quan niệm về phát triển văn hóa ...................................................... 18
1.1.4. Vai trị của văn hóa trong đời sống xã hội ........................................ 22
1.2. Quan niệm về du lịch và phát triển du lịch bền vững, những tiêu chí đánh
giá sự phát triển du lịch bền vững ................................................................. 33
1.2.1. Quan niệm về du lịch và phát triển du lịch bền vững......................... 33
1.2.2. Những tiêu chí đánh giá sự phát triển du lịch bền vững..................... 38
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa phát triển văn hóa và phát triển du lịch .. 42
1.3.1. Vai trị của văn hóa đối với sự phát triển du lịch ............................... 42
1.3.2. Vai trò của du lịch đối với sự phát triển văn hóa ............................... 46
Kết luận chương 1 ........................................................................................ 51
CHƯƠNG 2 ..................................................................................................... 54
THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KẾT HỢP GIỮA PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở TỈNH KHÁNH HÒA HIỆN
NAY................................................................................................................. 54
2.1. Khái quát điều kiện địa lý, tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự
phát triển văn hóa và phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hịa ......................... 54
2.1.1. Vị trí địa lý, tự nhiên tỉnh Khánh Hòa ............................................... 54
2.1.2. Khái quát điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội tỉnh Khánh Hịa ............. 55
2.2. Thực trạng kết hợp giữa phát triển văn hóa và phát triển du lịch ở Khánh
Hòa hiện nay ................................................................................................ 62
2.2.1. Những thành tựu đạt được trong việc kết hợp giữa phát triển văn hóa
và du lịch ...................................................................................................... 62
2.2.2. Những tồn tại và hạn chế trong việc kết hợp giữa phát triển văn hóa
và du lịch ..................................................................................................... 72
2.2.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế .................................. 75


2.3. Phương hướng và một số giải pháp nhằm kết hợp giữa phát triển văn hóa
và phát triển du lịch ở Khánh Hòa hiện nay .................................................. 80
2.3.1. Phương hướng kết hợp phát triển văn hóa và phát triển du lịch ở

Khánh Hòa hiện nay ..................................................................................... 80
2.3.2. Một số giải pháp kết hợp phát triển văn hóa và phát triển du lịch một
cách có hiệu quả ở Khánh Hịa hiện nay ....................................................... 84
Kết luận chương 2 ........................................................................................ 97
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 104


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, du
lịch Việt Nam trong những năm gần đây đã có bước tiến mạnh mẽ. Hàng năm,
số lượng khách quốc tế đến nước ta không ngừng tăng, khách du lịch nội địa
cũng tăng nhanh. Thực tế này đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ cho sự phát triển
văn hoá và mối quan hệ biện chứng giữa phát triển văn hoá và phát triển du lịch.
Giữa văn hoá và du lịch có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Văn hoá và bản
sắc văn hoá dân tộc là nguồn lực cho hoạt động du lịch. Du lịch là một hình thức
của hoạt động giao lưu văn hố đang ngày càng được đẩy mạnh hiện nay. Du
lịch là cầu nối giữa các bộ phận dân cư thuộc các nền văn hoá khác nhau trên thế
giới, đồng thời tạo lập mối quan hệ trong cuộc sống giữa quá khứ hiện tại và
tương lai của mỗi dân tộc.
Kinh tế càng phát triển thì nhu cầu du lịch của con người ngày càng được
nâng cao. Đồng thời, khoa học công nghệ phát mạnh mẽ, trình độ dân trí ngày
càng cao, nhu cầu du lịch của con người cũng phát triển cao hơn về chất. Người
ta đi du lịch không dừng lại ở việc vui chơi giải trí, mà cịn nâng cao hiểu biết về
văn hóa, vì mục đích giao lưu, tìm hiểu, tiếp thu các giá trị văn hóa tốt đẹp của
dân tộc mình và các dân tộc khác. Tình hình đó tất yếu đặt ra yêu cầu kết hợp
chặt chẽ giữa văn hóa và du lịch.

Khánh Hịa là một tỉnh có tiềm năng phát triển du lịch lớn, đồng thời là
tỉnh có tính đa dạng về dân tộc và văn hóa. Trong quá trình đổi mới và hội nhập
quốc tế, Đảng bộ và chính quyền của tỉnh đã quan tâm kết hợp giữa phát triển
văn hóa và phát triển du lịch. Tuy vậy những nỗ lực, cố gắng của tỉnh cũng chưa
tương xứng với tiềm năng và yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển kinh tế xã hội. Chọn, nghiên cứu đề tài: "Mối quan hệ biện chứng giữa phát triển văn
hoá và phát triển du lịch ở tỉnh Khánh Hịa hiện nay", tơi muốn góp phần làm rõ
hơn về phương diện lý luận mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và du lịch, về


2
thực tiễn vấn đề phát triển du lịch dựa trên nền tảng kế thừa, phát huy di sản và
bản sắc văn hố tại tỉnh Khánh Hịa - Xứ trầm hương.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề về mối quan hệ giữa phát triển văn hóa và phát triển du lịch là một
trong những vấn đề luôn thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà
khoa học, các học giả. Có khơng ít những cơng trình nghiên cứu, những bài viết,
những tác phẩm của các tác giả, các nhà khoa học bàn luận và nêu lên những quan
điểm của mình về vấn đề phát triển văn hóa và phát triển du lịch dưới nhiều góc độ
khác nhau. Có thể khái quát các hướng nghiên cứu chủ yếu như sau:
Hướng thứ nhất, nghiên cứu chuyên về văn hóa: chúng ta có thể kể đến
cơng trình nghiên cứu tiêu biểu về văn hóa. Đó là những cơng trình và những
tác phẩm sau: “Bản sắc văn hóa Việt Nam”, Nxb. Văn học, 2002 của PGS.
Phan Ngọc;“ Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc - vai trò của
nghiên cứu và giáo dục” Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999; “Văn hóa và
con người” Nxb. Văn hóa thơng tin, 2006 của Nguyễn Trần Bạt; “Sự biến đổi
các giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay” Nxb. Từ điển bách khoa và Viện văn hóa, 2008 do PGS.TS.Nguyễn
Duy Bắc (chủ biên); “Văn hóa, mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội”,
Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2006 do GS. TS. Nguyễn Văn Hun (chủ
biên); “Văn hóa vì sự phát triển xã hội”, Viện Văn hóa, Nxb. Văn hóa - Thơng

tin Hà Nội, 2002 của PGS. TS. Lê Như Hoa; “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền
thống trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb. Chính trị quốc gia
Hà Nội, 2001 do GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, TS. Phạm Văn Đức, TS. Hồ Sĩ
Quý (đồng chủ biên); …Thông qua các tác phẩm, các tác giả giúp cho người
đọc hiểu rõ hơn khái niệm về văn hóa, sự phát triển văn hóa; vai trị của văn
hóa với phát triển kinh tế - xã hội, những giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc nhằm giúp mỗi người có nhận thức sâu sắc hơn về việc bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc ta, góp phần phát triển văn hóa nước nhà.


3
Hướng thứ hai là những cơng trình nghiên cứu, những tác phẩm viết về du
lịch gồm những cơng trình và những tác phẩm sau:“Nhập môn khoa học du
lịch”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000 của Trần Đức Thanh;“Du lịch và
kinh doanh du lịch” Nxb. Văn hóa Thơng tin, Hà Nội, 1995 của Trần Nhạn ;
“Thị trường du lịch” Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998 của Nguyễn Văn
Lưu; “Một số vấn đề về du lịch Việt Nam” Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004
của Đinh Trung Kiên; “Du lịch bền vững”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
2001 của Nguyễn Đình Hịe; “Việt Nam cảnh đẹp và di tích”, Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh, 1989 của Phạm Lê Hoàn;…Qua các tác phẩm, các tác giả giúp
người đọc hiểu rõ hơn khái niệm về du lịch, sự phát triển du lịch bền vững; vai
trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; hiện trạng khai thác tài
nguyên du lịch ở nước ta nói chung và ở các địa phương nói riêng từ đó đưa ra
những định hướng, giải pháp nhằm phát triển du lịch Việt Nam trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Hướng thứ ba là những tác phẩm viết về mối quan hệ giữa văn hóa và du
lịch, nói về vấn đề du lịch văn hóa, vai trị của văn hóa, cũng như giữ gìn bản
sắc văn hóa trong kinh doanh du lịch Chẳng hạn như “Văn hóa du lịch”, Nxb.
Văn hóa Thơng Tin, 2010 của TS. Trần Diễm Thúy; “Du lịch văn hóa ở Việt
Nam”, Nxb.Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2001 của Thu Trang, Cơng Nghĩa;

“Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong kinh doanh du lịch”, Nxb.Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh, 2000 của Đặng Quang Thành; “Văn hóa trong phát triển du
lịch bền vững ở Việt Nam”, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2004 của TS.
Nguyễn Thị Chiến…
Đặc biệt, vấn đề phát triển văn hóa và phát triển du lịch được đề cập rất
nhiều qua các tạp chí như: “Quan hệ du lịch - văn hoá và triển vọng ngành du
lịch Việt Nam” của Thạc sĩ Ngô Kim Anh, Tạp chí Văn hố nghệ thuật, Số
2/2000; “Về hiệu quả kinh tế - xã hội của văn hoá qua hoạt động du lịch” của
Tiến sĩ Trần Nhỗn, Tạp chí Văn hố nghệ thuật, Số 4/2002…và đây cũng là
vấn đề được thông qua tại các cuộc hội thảo; được đăng trên báo, Internet,…


4
Riêng ở Khánh Hịa, vấn đề văn hóa, du lịch, mối quan hệ phát triển
văn hóa và du lịch có nhiều cơng trình nghiên cứu và bài viết của tập thể và
các tác giả như: “Địa chí Khánh Hịa”, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội,
2003 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hịa; bộ Diện mạo văn hóa một vùng
đất (3 tập), Nxb. Văn hóa Thơng tin Khánh Hịa, 2001 do tập thể tác giả;
“Diện mạo văn hóa Khánh Hịa” Nxb. Chính trị Quốc gia, 2003 do Nguyễn
văn Khánh (Chủ biên); “Tìm hiểu giá trị lịch sử và văn hóa Khánh Hịa ”,
Nxb. Văn hóa Thơng tin Khánh Hịa, 2007 của Nguyễn Cơng Bằng; “Văn hóa
dân gian Khánh Hịa”, Nxb.Văn hóa Thơng tin, 2006; của Trần Việt Kỉnh;
“Khánh Hịa địa chỉ văn hóa và danh thắng”, Nxb. Văn hóa Thơng tin Khánh
Hịa, 2007; “Văn hóa phi vật thể Khánh Hịa”, Nxb. Văn hóa dân tộc, 1999
của Nguyễn Văn Khánh; “Xứ Trầm Hương”, Nxb. Hội văn học nghệ thuật
Khánh Hòa, 2002 của Quách Tấn; “Du lịch Khánh Hòa từ cuối thế kỷ XIX
đến nay”, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2006 của Nguyễn Thị Kim Hoa; Thực
trạng văn hóa tỉnh Khánh Hịa 1990 - 2002.
Nhìn chung, vấn đề phát triển văn hóa và phát triển du lịch đã và đang
được nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu. Mặc dù đã có một số lượng lớn các

bài viết trên về vấn đề này nhưng vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đi
sâu nghiên cứu vấn đề về “mối quan hệ biện chứng giữa phát triển văn hóa và
phát triển du lịch ở Khánh Hòa hiện nay”. Tuy nhiên, những cơng trình nghiên
cứu và những bài viết trên là nguồn tài liệu tham khảo vơ cùng thiết thực và q
báu giúp tơi hồn thành tốt luận văn này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là nhằm làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa phát
triển văn hóa và phát triển du lịch về mặt lý luận, đồng thời làm rõ thực trạng
việc kết hợp giữa phát triển văn hóa và phát triển du lịch ở tỉnh Khánh Hịa;
Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát triển văn hóa và du
lịch của tỉnh Khánh Hòa hiện nay.


5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Trình bày, phân tích lý luận về văn hoá, du lịch, về mối quan hệ biện
chứng giữa phát triển văn hoá và phát triển du lịch.
- Phân tích thực trạng việc kết hợp giữa phát triển văn hoá và phát triển du
lịch trong thời kỳ đổi mới ở tỉnh Khánh Hòa.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp phù hợp nhằm giải quyết tốt
mối quan hệ biện chứng giữa việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá dân
tộc với phát triển du lịch ở Khánh Hòa hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn giải quyết
mối quan hệ biện chứng giữa phát triển văn hoá và sự phát triển du lịch ở tỉnh
Khánh Hòa trong những năm gần đây, chủ yếu là từ năm 2000 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được tiến hành trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển văn hoá và du lịch.
Luận văn sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như
phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, thống kê, so sánh, đối chiếu, đồng thời
có sử dụng kết quả điều tra của các cơng trình đã cơng bố.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa phát triển
văn hoá và phát triển du lịch trên bình diện lý luận và thực tiễn, qua đó đóng góp
vào việc nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân tỉnh Khánh Hịa về tính tất
yếu và tầm quan trọng của việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển văn hóa với phát
triển du lịch
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên và học
viên cao học các chuyên ngành triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học và văn
hóa học


6
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


7

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN
HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VÀ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1. Quan niệm về văn hóa, phát triển văn hóa và vai trị của văn
hóa trong xã hội

1.1.1. Quan niệm về văn hóa
Trong lịch sử nhận thức của tất cả các dân tộc trên thế giới hiện nay, văn
hóa là khái niệm có một nội hàm ngữ nghĩa khá phong phú và phức tạp được
hiểu theo nhiều cách khác nhau. Người ta có thể hiểu văn hóa như một hoạt
động sáng tạo của con người, nhưng cũng có thể hiểu văn hóa như là lối sống,
thái độ ứng xử, lại cũng có thể hiểu văn hóa như trình độ học vấn.
Ở phương Tây, từ văn hóa xuất hiện sớm trong đời sống của con người.
Dựa theo sự nghiên cứu của nhà ngơn ngữ học người Đức Wun (W.Wundt), thì
từ văn hóa bắt nguồn từ một động từ tiếng Latinh ‘Colere” sau chuyển thành
“cultura”, có nghĩa là cày cấy, vun trồng. Từ nghĩa ban đầu này về sau dẫn đến
nghĩa rộng hơn là sự hồn thiện, vun trồng tinh thần, trí tuệ. Thế kỷ thứ nhất
trước công nguyên, Xi-xơ-ron (Ciceron), nhà hùng biện La Mã từng có câu nói
nổi tiếng: Triết học là văn hóa (sự vun trồng) tinh thần, nghĩa là quá trình giáo
dục, bồi dưỡng về mặt tinh thần, trí tuệ cho con người. Suốt trong thời kỳ Phục
Hưng, từ văn hóa áp dụng vào nghệ thuật và văn chương trong các thành ngữ
“cultura banarum artium” và “cultura litteratum humanionum” (văn hóa nghệ
thuật và văn hóa văn chương nhân đạo).
Ở Trung Quốc, từ văn hóa đã có ngay từ thời Tây Hán (206TCN - 25
SCN). Sách Thuyết Uyển Chỉ Vũ của Lưu Hướng thời Tây Hán có câu: Thánh
nhân cai trị thiên hạ, trước hết dùng văn đức, sau mới dùng vũ lực. Phàm khi đã
thiên về dùng vũ lực, thì khơng khuất phục nổi, văn hóa khơng sửa đổi được,


8
cuối cùng sẽ bị suy kiệt. Chữ văn hóa ở đây là chỉ sự “giáo hóa”, đặt đối trọng
với vũ lực.
Mặc dù có mặt sớm trong đời sống ngơn ngữ phương Tây, cũng như ở
phương Đông, nhưng phải đến thế kỷ XVIII, từ văn hóa mới được đưa vào khoa
học, sử dụng như thuật ngữ khoa học. Năm 1774, từ này mới được xuất hiện
trong thư tịch và ghi vào từ điển năm 1783 ở Đức. Người đầu tiên sử dụng từ

văn hóa trong khoa học là Pu-ten-đơ (Pufendorf), người Đức. Ơng cho rằng văn
hóa là tồn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội, nghĩa là văn hóa đối
lập với trạng thái tự nhiên. Sau ơng, nhà triết học Hê-đê (Herder) (1744 - 1803)
cho rằng: văn hóa là sự hình thành lần thứ hai của con người. Theo ông, lần thứ
nhất, con người xuất hiện với tư cách là một thực thể sinh vật tự nhiên; lần thứ
hai con người hình thành như một thực thể xã hội, tức là một nhân cách văn hóa,
theo nghĩa toàn vẹn của từ này.
Đến giữa thế kỷ XIX, các nhà nhân loại học, dân tộc học phát triển mạnh
ở Châu Âu và trên cơ sở đó học thuyết văn hóa, khoa học văn hóa ra đời. Nhà
nhân chủng học nước Anh Tây-Lơ (E.B.Taylor) là người đầu tiên xem văn hóa
là một đối tượng nghiên cứu khoa học. Trong cuốn Văn hóa nguyên thủy
(Primitive Culture) xuất bản năm 1871 ở Ln Đơn, ơng định nghĩa “văn hóa là
một phức thể bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập
quán, mọi khả năng và thói quen mà con người, với tư cách là thành viên xã hội,
đạt được” [130, 27] phát triển văn hóa phát triển con người. Năm 1885, thuật
ngữ văn hóa được đề cập trong cơng trình Khoa học chung về văn hóa (2 tập)
của Klemn người Đức. Ơng trình bày sự phát sinh, phát triển toàn diện của loài
người như một lịch sử văn hóa thì văn hóa mới trở thành một khoa học riêng
biệt. Năm 1949, thuật ngữ Văn hóa học (Kulturkunder tiếng Đức, Culturology
tiếng Anh) xuất hiện khá phổ biến sau công trình nghiên cứu khoa học về văn
hóa (The Science of Culture) ở Mỹ.
Vào nửa đầu thế kỷ XX, các nhà văn hóa học người Mỹ đã có nhiều cống
hiến trong việc mở rộng đối tượng và quy mô của văn hóa học. Năm 1952, hai nhà


9
dân tộc học người Mỹ Kro-ê-bê (A.L.Kroeber) và KLuc-hon (C.L.Kluckhohn) đã
dẫn ra và phân tích 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa mà các tác giả của
nhiều nước đã từng nêu ra trong một cuốn sách chuyên bàn về định nghĩa văn
hóa nhan đề: Văn hóa - tổng luận phê phán các quan niệm và định nghĩa

(Culture: a critical review of concepts and definitions). Trong lần xuất bản lần
thứ hai của cuốn sách này, số định nghĩa đã tăng lên đến trên 200. Năm 1958,
Clevis - Strauss thông qua cuốn Anthropologie Structural xuất bản tại Paris đã
vận dụng phương pháp cấu trúc trong ngôn ngữ học vào việc nghiên cứu văn
hóa. Đến năm 1967, nhà văn hóa người Pháp là Môlesơ đưa ra 250 định nghĩa
khác nhau về văn hóa. Từ năm 1970 trở đi, cách hiểu phổ biến nhất về văn hóa
là tất cả những gì làm cho một dân tộc này khác với một dân tộc kia như tín
ngưỡng, lối sống, hoạt động sản xuất và hoạt động tinh thần. Hiện nay thì số
lượng định nghĩa văn hóa khó biết chính xác: có người cho là 400, có người nói
là 500, có người cho rằng chúng lên con số nghìn… [131, 2]. Văn hóa là một
thuật ngữ đa nghĩa nên phải được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc
độ triết học, văn hóa là đặc trưng của loài người, là cái phân định ranh giới giữa
con người với các loài động vật khác, “là thiên nhiên thứ hai” (M.Gorki) của con
người. Về phương diện xã hội học, văn hóa là phương thức sống chung của con
người trong một xã hội nào đó. Fit-tơ (J.Fichter) viết: “Văn hóa là hình thái tồn
diện của hệ thống thể chế (kinh tế, chính trị, gia đình, giáo dục, tín ngưỡng và
giải trí) mà con người cùng có chung trong xã hội” [62, 162]. Nhà triết học
người Nga L.N. Kôgan và P.Visnhexki dùng phạm trù “hoạt động” để định
nghĩa văn hóa: “văn hóa - là hoạt động sáng tạo của con người nhằm tìm hiểu
thế giới. Nó chịu sự quy định của phương thức sản xuất vật chất” [70, 23].
Trong lĩnh vực tâm lý học, L. White đã xem “văn hóa là cơ chế của các
hiện tượng, sự vật, hành động, tư tưởng, cảm xúc. Cơ chế này được tạo ra nhờ
việc sử dụng các biểu trưng hoặc phụ thuộc vào các biểu trưng đó” [88, 29].
Trong Từ điển triết học, Rơdentan quan niệm, văn hóa là tồn bộ những
giá trị về vật chất và tinh thần mà loài người đã và đang sáng tạo ra trong quá


10
trình hoạt động thực tiễn xã hội - lịch sử, những giá trị ấy xác định mức độ đạt
được về mặt lịch sử của sự phát triển xã hội [98, 198]. Trong Bách khoa tồn

thư của Pháp, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng là tập tục, tín ngưỡng, ngơn
ngữ, tư tưởng, thị hiếu thẩm mỹ, những hiểu biết kinh tế, kể cả tổ chức con
người. Đây chính là văn hóa vật chất, bao gồm cơng cụ, nhà ở, sản phẩm cơng
nghiệp. Văn hóa dùng để điều tiết những quan hệ giữa con người với nhau và
xác định thái độ ứng xử của con người với tự nhiên.
Thấy được vai trị quan trọng của văn hóa nên năm 1982, tại Mêhicô
UNESCO đã tổ chức Hội nghị quốc tế về văn hóa với sự tham dự của hơn 100
nước và trên 1.000 đại biểu và đưa ra tuyên bố về chính sách văn hóa, lấy thập
kỷ 90 là thập kỷ phát triển văn hóa, đưa ra khái niệm về văn hóa đó là: “văn hóa
là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết
định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao
gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống giá trị suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng
ta trở thành sinh vật đặc biệt, nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân
một cách có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà chúng ta xét đốn được những giá trị
và thực thi những lựa chọn. Chính nhờ có văn hóa mà con người tự thể hiện, tự
ý thức được bản thân, tìm tịi khơng biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo
nên những cơng trình vượt trội bản thân mình” [121, 5-6]. Trong dịp phát động
Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa (tại Paris ngày 21/1/1988), Tổng giám đốc
UNESCO, Federco Mayor đã phát biểu: “Văn hóa là tổng thể sống động các
hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động
sáng tạo ấy hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu
- những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [121, 5 - 6].
Ở Việt Nam, khái niệm văn hóa được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu.
Năm 1938, lần đầu tiên, học giả Đào Duy Anh đã định nghĩa “văn hóa là văn vật
và giáo hóa, văn hóa là giáo hóa con người trở nên đẹp đẽ” [2, 13].


11
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực đa dạng, phong

phú. Không nên coi văn hóa là một hoạt động riêng biệt có tính ngành nghề, phải
xem văn hóa là hoạt động tạo ra những giá trị, những chuẩn mực xã hội - là môi
trường thứ hai, cái nơi ni dưỡng sự hình thành nhân cách con người. Cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng
phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì khơng phải là thiên nhiên mà có
liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con
người làm nên lịch sử… cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao
quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm,
đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ
bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng
và sức chiến đấu để bảo vệ mình khơng ngừng lớn mạnh” [41, 16].
Năm 1994, GS. Phan Ngọc trong cơng trình nghiên cứu Văn hóa Việt
Nam và cách tiếp cận mới đã đưa ra tư liệu cho rằng một nhà dân tộc học người
Mỹ đã thống kê được gần 400 định nghĩa về văn hóa. GS. Phan Ngọc cho rằng:
“Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một
tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này
mô hình hóa theo cái mơ hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất
chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện
thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn
của các cá nhân hay các tộc người khác”[90, 19 - 20]. GS. Trần Quốc Vượng
cho rằng: cái văn hóa là sự biến đổi cái tự nhiên của từng cộng đồng người nhất
định. Văn hóa là sự phản ứng, sự chế ngự, sự trả lời của một cộng đồng người
trước những thách đố của mọi cái gì tự nhiên (kể cả mơi trường tự nhiên lẫn cái
được gọi là bản năng tự nhiên của con người). Văn hóa là lối sống (way of life)
của một cộng đồng người, là thế ứng xử tập thể (hay công thể) (comportment
collectif) của một cộng đồng người, của một xã hội, là tổng số những đồng nhất
thể (identités) của các thành viên về các phương diện nhận thức, quan niệm,
chuẩn mực, biểu tượng và hệ thống các giá trị… Văn hóa, hiểu như vậy thì vừa



12
có mặt bao la (tồn bộ các thành tựu của con người) vừa có mặt chặt chẽ (phản
ứng tập thể của từng cộng đồng người, do đó có nhiều loại hình văn hóa khác
nhau) [132, 151 - 159]. Cụ thể hơn về tính đa dạng của văn hóa, GS. Trần Văn
Giàu quan niệm văn hóa khơng chỉ bao gồm kiến thức cơ bản, kiến thức chuyên
môn, kiến thức nghiệp vụ, ngoại ngữ, năng lực sử dụng thiết bị tin học,… mà
phải bao gồm cả đạo đức, tâm lý, triết học, nếp sống, sức khỏe,… [100, 28].
Khái niệm văn hóa có thể được hiểu ở nhiều khía cạnh. Theo nghĩa rộng, “văn
hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [131, 25]. Từ điển Bách
khoa Việt Nam, đã rút ra khái niệm văn hóa như sau: “văn hóa gồm những gì
làm cho dân tộc này khác dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất
đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động” [58, 798].
Hiện nay có khơng ít người nhầm lẫn giữa khái niệm văn hóa và văn
minh, văn vật và văn hiến. Do vậy, chúng ta cũng cần phân biệt và hiểu rõ các
khái niệm này. Văn minh là biểu hiện đỉnh cao của văn hóa nhân loại trong một
giai đoạn lịch sử nhất định. Thời cổ đại, tất cả các quốc gia đều có nền văn hóa,
nhưng nổi lên các nền văn minh: Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Hoa, Hy
Lạp. Văn minh về bản chất là văn hóa nhưng là văn hóa ở đỉnh cao của nhân loại
trong một giai đoạn lịch sử. Ngày nay, nhân loại đang bước vào nền văn minh trí
tuệ, văn minh tin học chính là đang tiến đến trình độ cao của nền văn hóa đương
đại. Một số nhà nghiên cứu phân biệt văn minh với văn hóa ở chỗ: văn minh chủ
yếu là những giá trị sáng tạo của con người về mặt kỹ thuật; cịn văn hóa là giá
trị sáng tạo của con người trên tất cả các lĩnh vực.
Bên cạnh sự khác nhau giữa hai khái niệm văn hóa và văn minh thì khái
niệm văn hóa cũng có sự khác biệt cơ bản giữa hai khái niệm văn vật và văn
hiến. Nếu văn vật là những truyền thống văn hóa vật chất, biểu hiện ở nhiều
nhân tài và di tích lịch sử, hiện vật; thì văn hiến là những truyền thống văn hóa
tinh thần lâu đời của quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, cả văn hiến và văn vật đều là



13
một bộ phận của văn hóa và có bề dày lịch sử của quốc gia, dân tộc. Như vậy,
văn hóa, văn vật và văn hiến là ba khái niệm giống nhau về nguồn gốc, tính lịch
sử và tính dân tộc, nhưng khác nhau về tính giá trị. Khái niệm văn hóa rộng hơn,
bao hàm khái niệm văn vật và văn hiến, vì văn hóa gồm tồn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần còn văn vật chỉ thiên về những giá trị vật chất và văn hiến
thiên về những giá trị tinh thần.
Xuất phát từ những quan niệm khác nhau về văn hóa trong lịch sử tư
tưởng nhân loại, các nhà triết học mác - xít, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
cũng đưa ra những nhận định về văn hóa. Cách đây hơn 150 năm, trong Bản
thảo kinh tế - Triết học năm 1884, C. Mác viết: “Việc tạo một cách thực tiễn ra
thế giới vật thể, việc cải tạo giới tự nhiên vô cơ là sự tự khẳng định của con
người với tư cách là một sinh vật có tính lồi, có ý thức, nghĩa là sinh vật đối xử
với lồi như với bản chất của chính mình, hoặc đối xử với bản thân mình như
với một sinh vật có tính lồi… Sự sản xuất đó là đời sống có tính lồi tích cực
của con người. Nhờ sự sản xuất đó, giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm của nó
(con người) và thực tại của nó” [22, 136 - 137]. Với tư cách là “giới tự nhiên
thứ hai” của con người, văn hóa đã được C. Mác đồng nhất với phương thức
hoạt động sống đặc thù, riêng có của con người - phương thức mà con người
thường sử dụng lao động sáng tạo, hoạt động sản xuất vật chất của mình để biến
đổi và cải tạo giới tự nhiên, cải tạo và “xây dựng” hiện thực khách quan (“thực
tại”) cho mình, “tái sản xuất ra tồn bộ giới tự nhiên”cho mình “theo quy luật
của cái đẹp” [23, 137].
Như vậy, C.Mác đã xem văn hóa là cái phản ánh tính đặc thù của hoạt
động con người. Văn hóa chỉ xuất hiện khi con người có ý thức rõ ràng về đời
sống xã hội, về hoạt động lao động sáng tạo, sản xuất vật chất để cải tạo và biến
đổi tự nhiên vì sự tồn tại và phát triển của mình. Văn hóa phản ánh việc con
người tự ý thức về vai trò độc lập, về khả năng và năng lực sáng tạo của mình

trong việc cải tạo và biến đổi tự nhiên. Tiếp bước quan điểm của C.Mác,
Ph.Ăngghen cho rằng muốn tìm hiểu cội nguồn của văn hóa thì phải đặt nó trong


14
q trình hình thành lồi người. Quan điểm của Ph.Ăngghen về nguồn gốc lồi
người, so sánh q trình lao động sáng tạo của con người và phương thức kiếm
sống của lồi vượn được trình bày trong bài Tác dụng của lao động trong quá
trình chuyển biến từ vượn thành người, một phần trong tác phẩm Biện chứng
của tự nhiên: “Đàn vượn chỉ biết ăn hết sạch lương thực sẵn có trong khu vực
mà điều kiện địa lý hoặc là sự kháng cự của các đàn vượn bên cạnh hạn định cho
chúng” [20, 647]. Ph.Ăngghen gọi phương thức kiếm ăn của lồi vượn là “kinh
tế cướp đoạt”. Chính lao động sáng tạo là quá trình chuyển biến từ vượn thành
người và đó cũng là cội nguồn của văn hóa, là bản chất của văn hóa.
Như vậy, dù C.Mác và Ph.Ăngghen khơng dành riêng một tác phẩm nào
trình bày hệ thống các quan điểm của mình về văn hóa, nhưng tồn bộ tư tưởng
của các ông về vấn đề này được thể hiện rất sâu sắc thông qua hệ thống các quan
điểm duy vật biện chứng về con người và xã hội.
Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về văn hóa và vai trị
của văn hóa trong cơng cuộc xây dựng xã hội mới, từ thực tiễn công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển và hình
thành hệ thống lý luận nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, ngay sau
khi giành chính quyền cần tập trung xây dựng nền kinh tế mới và xây dựng một
nền văn hóa mới song song bằng cách chủ động, tích cực tiến hành cơng việc
giáo dục, khơng ngừng nâng cao trình độ học vấn, trình độ văn hóa, văn minh
cho quần chúng lao động. Khi “Chính sách Cộng sản thời chiến” được thay
bằng “Chính sách kinh tế mới” (NEP) và trong bối cảnh “buộc phải thừa nhận
là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản”,
V.I.Lênin chỉ rõ: “Sự thay đổi căn bản đó là ở chỗ: Trước đây chúng ta đã đặt
và không thể không đặt trọng tâm công tác của chúng ta vào đấu tranh chính trị,

vào cách mạng, vào việc giành lấy chính quyền… Ngày nay, trọng tâm ấy đã
chuyển sang cơng tác hịa bình tổ chức “văn hóa” [22, 428]. Nhìn chung, văn
hóa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là phương thức bộc lộ, phát huy


15
những năng lực bản chất con người gắn với những hoạt động sống của họ, làm
cho con người trở nên hoàn thiện hơn, tốt đẹp hơn.
Lý giải định nghĩa văn hóa, Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, lồi người ở sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tơn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn” [79, 431]. Hồ
Chí Minh xem văn hóa là lối sống, là “phương thức” sống của nhân loại được
biểu hiện ở mỗi cộng đồng nhằm “thích ứng” với “yêu cầu đời sống”, yêu cầu
sinh tồn của con người; văn hóa là kết quả sáng tạo của quần chúng nhân dân,
“dứt khoát quần chúng là người sáng tạo văn hóa”. Văn hóa là lĩnh vực của các
giá trị nhân văn, là trình độ phát triển nhân cách ở con người. Quan điểm trên của
Hồ Chí Minh rất phù hợp với quan niệm của UNESCO về văn hóa, là hồn thiện
và tơn vinh con người, giúp con người vươn tới cái chân - thiện - mỹ.
Kế thừa và tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới, đặc biệt là những
quan điểm về văn hóa của chủ nghĩa Mác và phương pháp xây dựng nền văn hóa
xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, năm 1943, trong
“Đề cương văn hóa”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: nền văn hóa
nước ta mang tính dân tộc, khoa học và đại chúng - đó là nền văn hóa vừa kế
thừa, phát huy bản sắc dân tộc, vừa làm giàu cho mình bằng những tinh hoa văn
hóa của nhân loại. Trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
nay, Đảng ta xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục

tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [35, 110 - 111]. Vì
thế, chúng ta cần tập trung mọi nguồn lực để “xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư
tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng mơi trường văn hóa lành
mạnh cho sự phát triển xã hội” [35, 112]. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ


16
X, Đảng ta nhấn mạnh: “Phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội” [38,
212]; “làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng
người, hồn thiện giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền
thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của lồi người, tăng sức đề kháng
chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân…” [38, 212 - 213].
Nhìn chung, khái niệm văn hóa được rất nhiều học giả quan tâm nghiên
cứu dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Theo tơi, văn hóa là tồn bộ
những giá trị vật chất và tinh thần bao gồm trình độ sản xuất, khoa học, văn hóa
nghệ thuật, đạo đức, phong tục tập quán... mà con người sáng tạo ra nhằm phục
vụ nhu cầu của mình trong lịch sử. Văn hóa là những thành quả lao động sáng
tạo của con người, thể hiện năng lực và trí tuệ của con người, thể hiện được bản
sắc của dân tộc và sự tiến bộ của xã hội.
Trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, nền văn hóa đang
dần có nguy cơ xuống cấp, suy thối, những giá trị văn hóa tốt đẹp đang dần dần
suy giảm. Vì thế, chúng ta cần phải khơng ngừng phát triển văn hóa nhằm xây
dựng một nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
1.1.2. Các loại hình văn hóa
Trong đời sống xã hội, văn hóa tích lũy vào mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng,
thấm sâu vào các dạng hoạt động xã hội. Vì vậy, người ta nói đến: văn hóa sản
xuất, văn hóa lao động, văn hóa lối sống, văn hóa quản lý…Trong mỗi lĩnh vực
hoạt động thực tiễn của xã hội, văn hóa biểu thị trình độ phát triển sức sáng tạo

của con người trong một dạng hoạt động xã hội nào đó. Tồn bộ hoạt động sản
xuất xã hội có thể phân chia thành hai dạng: sản xuất vật chất và sản xuất tinh
thần, tương ứng với hai nhu cầu cơ bản của con người là nhu cầu vật chất và nhu
cầu tinh thần. Phù hợp với sự phân chia trên, người ta chấp nhận sự phân xuất
văn hóa ra hai lĩnh vực: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Gắn với văn hóa vật chất là tồn bộ những gì do con người sản xuất ra
nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất như: ăn, mặc, ở, sinh hoạt, đi lại, công cụ


17
sản xuất, phương tiện chiến đấu…, những vật thể ấy nói lên mức độ biểu hiện và
trình độ phát triển các lực lượng bản chất của con người trong lĩnh vực sản xuất
và đời sống vật chất.
Bên cạnh đó, những thành tựu về khoa học, các giá trị đạo đức, thẩm mỹ,
các tín ngưỡng, tơn giáo, lễ hội; phong tục, ngơn ngữ…được quy vào văn hóa
tinh thần, bởi chúng nói lên mức độ biểu hiện và trình độ phát triển các lực
lượng bản chất người trong sản xuất tinh thần.
Nếu văn hóa vật chất, trong tính cụ thể của nó, thể hiện trình độ chiếm lĩnh
và khai thác những vật thể trong tự nhiên, thì văn hóa tinh thần nói lên sự phong
phú bên trong của ý thức, là trình độ phát triển của bản thân con người.
Tuy nhiên, sự phân chia văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chỉ mang tính
chất quy ước, bởi trong đời sống thực tiễn khơng có cái gì là thuần túy vật chất
hoặc thuần túy tinh thần. Một vật thể không thể được ghi nhận vào thực tiễn
nhân loại, nếu như trong đó khơng chứa đựng các phẩm chất tinh thần như của
con người như: tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Mặt khác, các hiện tượng văn hóa tinh
thần như: tư tưởng, lý luận, khoa học…chỉ có thể tồn tại và được phổ biến thơng
qua hình thái vật thể của chúng. Sự củng cố và truyền đạt tin tức cũng cần phải
vật chất hóa những thơng báo dưới dạng sách, vở, tranh, tượng, phim,
ảnh…Trong văn hóa, vật chất biểu hiện dưới dạng đã được cải tạo, còn những
tài năng cũng như các lực lượng bản chất người thì đã được vật thể hóa.

Mối quan hệ giữa các mặt vật chất và tinh thần trong văn hóa khơng
phải là tĩnh trạng, là xếp cạnh nhau, mà chúng được biểu hiện, chuyển hóa từ cái
nọ thông qua cái kia trong hoạt động sống của con người.
Sự khác biệt giữa văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần dù chỉ là quy
ước tương đối, song nó vẫn là sự thật, cho phép xem xét mỗi lĩnh vực như một
hệ thống tương đối độc lập.
Văn hóa khơng chỉ là vật thể - kết quả lao động sáng tạo của con người,
mà còn bao hàm cả bản thân hoạt động ấy. Như vậy, văn hóa vật chất không chỉ
đơn giản là phương tiện sản xuất và tiêu dùng, mà còn là những hoạt động thực


18
tiễn sáng tạo ra và sử dụng các phương tiện ấy. Trong q trình hoạt động, tri
thức, thói quen, kinh nghiệm, nghề nghiệp, và những thuộc tính cá nhân khác
được vật thể hóa, trở thành những vật thể của văn hóa vật chất. Hoạt động này
do nhiều người có quan hệ qua lại với nhau thực hiện, giữa họ đã xác lập nên
những quan hệ sản xuất khách quan. Các quan hệ sản xuất này cũng là bộ phận
sở thuộc vào văn hóa vật chất.
Trong hoạt động thực tiễn - xã hội, con người không chỉ sản xuất ra những
điều kiện vật chất và phương tiện sinh hoạt, mà còn sản xuất ra ý thức dưới
nhiều thể loại khác nhau như: ý thức tôn giáo, ý thức khoa học, ý thức nghệ
thuật, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật…
Ý thức xã hội bao gồm toàn bộ những khái niệm, tư tưởng, lý luận, học thuyết
khác nhau, hợp thành tài sản tinh thần của xã hội - hình thái vật thể của văn hóa
tinh thần. Trong hình thái này, văn hóa tinh thần tồn tại dưới dạng những sản
phẩm tinh thần đã tạo thành như: tri thức khoa học, tác phẩm nghệ thuật, các
chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Nhờ khả năng con người biết biến đổi kết quả
hoạt động tinh thần thành những vật thể, tức là quá trình vật thể hóa những sản
phẩm lao động trí óc của mình, mà vốn kinh nghiệm tinh thần được tích lũy, bảo
quản và truyền đạt từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Cũng giống như văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần khơng chỉ biểu hiện
bằng tồn bộ sản phẩm của hoạt động tinh thần, mà còn bằng nội dung sáng tạo,
cùng với các mối quan hệ người, được xác lập trong quá trình hoạt động ấy.
1.1.3. Quan niệm về phát triển văn hóa
Văn hóa ln đi cùng với sự tiến hóa của lồi người và nó là sản phẩm
của con người. Trong quá trình phát triển, tác động sinh học hay bản năng dần
dần giảm bớt khi loài người đạt được trí thơng minh để buộc tự nhiên phải phục
vụ cho chính mình. Đến lúc này, bản tính con người khơng cịn mang tính bản
năng mà ngày càng có văn hóa. Khả năng sáng tạo của con người trong việc cải
tạo thế giới hơn hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ có con người mới có
văn hóa và dựa vào văn hóa để khơng ngừng nâng cao đời sống của mình. Con


19
người có khả năng hình thành văn hóa và với tư cách là thành viên của một xã
hội, con người tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Việc cùng có chung một văn hóa giúp xác định nhóm người
hay xã hội mà các cá thể là thành viên.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển đã thúc đẩy văn hóa phát triển
theo. Các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng và đạt đến độ tinh xảo cao nhằm
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thực tại cuộc sống. Tuy nhiên, văn
hóa thường mang đậm dấu ấn của một dân tộc, một cộng đồng người. Do vậy
Đảng Cộng Sản Việt Nam đề ra đường lối: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Như vậy văn hóa là sản phẩm của lồi người, văn hóa được tạo ra và phát
triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại
tham gia vào việc cải tạo con người, trở thành nền tảng cho sự phát triển bền
vững của xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thơng qua
q trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hoạt
động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa biểu hiện trình độ phát triển

của con người và của xã hội, được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức
đời sống và hoạt động của con người, cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần
do con người tạo ra.
Nếu nói văn hố là một hệ điều tiết phát triển, thì cái "màng lọc" của hệ
điều tiết đó chính là hệ giá trị của văn hố. Điều đó hàm chứa ý nghĩa rằng: hệ
giá trị không thể tồn tại và phát huy tác dụng nếu nó khơng tồn tại trong một nền
văn hoá cụ thể hay ngược lại, hệ giá trị bao giờ cũng thuộc về một nền văn hố
nào đó. Nói cách khác, văn hố, bản sắc văn hố bao giờ cũng thông qua hệ giá
trị để điều tiết sự biến đổi của xã hội.
Mỗi dân tộc, mỗi nền văn hố trong mơi trường tự nhiên và hồn cảnh
lịch sử - xã hội cụ thể bao giờ cũng tạo nên một hệ giá trị cho riêng mình. Do
vậy, nó là kết tinh của mỗi nền văn hoá, thường được biểu hiện, tiềm ẩn trong


20
các biểu tượng và tới lượt nó, hệ giá trị và biểu tượng ấy định hướng, chi phối
hoạt động của con người trong mỗi cộng đồng.
Trong văn hoá truyền thống Việt Nam, tinh thần cởi mở trong học hỏi,
tiếp biến các giá trị văn hố từ bên ngồi du nhập vào là một đặc trưng cơ bản,
khiến văn hoá dân tộc Việt Nam có sức sống trường tồn, vượt qua nhiều thử
thách khắc nghiệt của lịch sử. Đặc trưng này đã và đang là sức mạnh giúp chúng
ta học tập, đi tắt, đón đầu các trào lưu tiến bộ của nhân loại trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quy luật quan trọng nhất là: Quy luật kế thừa trong sự phát triển văn hóa..
“Kế thừa là thừa hưởng, giữ gìn và tiếp tục phát huy. Kế thừa những di sản văn
hóa dân tộc”. Kế thừa văn hóa là một quy luật cơ bản của sự phát triển và tiến bộ
xã hội. Nó thể hiện mối liên hệ tất yếu của cái cũ và cái mới, xét theo thời điểm
ra đời giữa giai đoạn trước và giai đoạn sau trong q trình phát triển văn hóa
của một cộng đồng, của một dân tộc và của nhân loại.
Bản chất của kế thừa văn hóa: là sự chuyển hố cái cũ tích cực thành các

nhân tố của cái mới, thể hiện mối liên hệ giữa các giai đoạn của sự phát triển;
giai đoạn sau không cắt đứt, không đoạn tuyệt với giai đoạn trước và cũng
khơng lặp lại hồn tồn như giai đoạn trước, cho phép giai đoạn sau chỉ giữ
những yếu tố tích cực, cịn phù hợp của giai đoạn trước, trên cơ sở đó tiếp tục
biến đổi và sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới. Qua một nghìn năm Bắc
thuộc, dân tộc ta khơng bị đồng hố mà lại lại lớn lên, Việt hoá các yếu tố của
văn hóa Hán. Điều đó chứng tỏ chúng ta có một nền văn hóa riêng với nội lực
mạnh. Ơng cha chúng ta phải dùng chữ Hán, nhưng việt hoá chữ Hán, đọc chữ
Hán theo tiếng của người Việt, sau phát triển thành chữ Nơm.
Đặc điểm của kế thừa văn hóa và nghệ thuật: kế thừa văn hóa; chỉ kế thừa
yếu tố không kế thừa cấu trúc, cấu trúc cũ được giải thể. Giai đoạn sau sẽ xây
dựng cấu trúc mới, lựa chọn những yếu tố của cấu trúc cũ để kế thừa. Khoa học
tự nhiên nói riêng, tất cả các khoa học nói chung đều là thành tố quan trọng của
văn hóa. Phát minh sau cũng khơng phủ định hồn tồn ( không bác bỏ) các phát


×