Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Thực trạng sử dụng thẻ bảo hiểm y tế người nghèo và chi của bảo hiểm y tế cho người nghèo năm 2007 tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (933.22 KB, 105 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương trình xóa đói giảm nghèo thành phố Hồ Chí Minh (TP.Hồ
Chí Minh) kết thúc giai đoạn 1 (1992-2003) đã đạt những thành tựu to lớn
trên nhiều mặt[8]. Từ đầu năm 2004, thành phố đã khởi động thực hiện
chương trình xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2 (2004-2010), nâng mức chuẩn
nghèo theo tiêu chí thu nhập bình qn đầu người trong hộ dưới 6 triệu đồng
năm, với mục tiêu phấn đấu đến cuối năm 2010 thành phố cơ bản khơng cịn
hộ nghèo theo mức chuẩn nghèo này [71]. Để thực hiện đựợc mục tiêu trên
đây đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực của toàn xã hội cùng tham gia
thực hiện.
Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm là một chương
trình tổng hợp có tính chất liên ngành trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Mục đích là tạo các điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ
người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, tiếp cận
các dịch vụ xã hội nhằm xóa đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc
sống người dân.
Được sự chỉ đạo xuyên suốt của Thành Ủy [26],[27],[28],[29],[30]
ngay từ năm 1992 Ủy ban nhân dân thành phố đã thành lập Ban chỉ đạo
chương trình xóa đói giảm nghèo thành phố để tổ chức thực hiện và thúc
đẩy chương trình xóa đói giảm nghèo ở TP. Hồ Chí Minh [68]. Hàng lọat
các giải pháp đã được thực hiện để hỗ trợ người nghèo như: vay vốn để lao
động sản xuất, tạo công ăn việc làm, giáo dục dạy nghề…[4],[5],[6].
Song song các giải pháp về kinh tế xã hội, từ năm 1992 thành phố đã
có chủ trương cấp sổ khám chữa bệnh miễn phí, sau đó là thẻ khám chữa
bệnh miễn phí cho người nghèo [43],[44][70] và thực hiện hỗ trợ một phần
viện phí cho các trường hợp gặp khó khăn đột xuất nhưng không thuộc đối
tượng được hưởng chế độ khám chữa bệnh cho người nghèo do mắc các
bệnh nặng, chi phí cao khi điều trị ở bệnh viện nhà nước, người lang thang,
cơ nhỡ. Đến năm 2001, thành phố chuyển sang thực hiện mua thẻ bảo
1



hiểm y tế cho người nghèo, hộ nghèo và kể cả người già yếu, neo đơn
hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội bằng nguồn ngân sách thành phố và nguồn
vận động xã hội hóa. Bình qn cấp khoảng 250.000 sổ, thẻ/năm, mỗi năm
thành phố đều dành khoảng 2 tỷ đồng cho các trung tâm y tế quận - huyện
và trạm y tế (TYT) phường - xã cấp phát thuốc và thực hiện các xét nghiệm
cơ bản miễn phí cho dân nghèo; đồng thời, tại các bệnh viện chuyên khoa
của thành phố đều dành 20% số giường để khám chữa bệnh và thực hiện
miễn, giảm viện phí cho bệnh nhân nghèo. Riêng năm 2007, thành phố đã
mua 244.565 thẻ bảo hiểm y tế

cho người nghèo với tổng số tiền là

19.565.200.000 đồng.[8]
Đây là những chủ trương và việc làm hết sức phù hợp với quan điểm
của đảng ta về chăm sóc sức khoẻ là xây dựng hệ thống y tế theo hướng
công bằng, hiệu quả và phát triển, nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho mọi ngươì
dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ với chất lượng ngày càng
cao…[33],[42],[60]. Tuy nhiên, qua nhiều năm thực hiện, hiệu quả của việc
sử dụng thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo chưa được đánh giá bằng những
đề tài khoa học thực sự. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm trả lời câu
hỏi: Ở người nghèo tại TP Hồ Chí Minh được cấp thẻ bảo hiểm y tế năm
2007 có những đặc điểm dân số học gì, tỉ lệ sử dụng là bao nhiêu, những
loại bệnh tật nào người nghèo hay mắc, những yếu tố nào ảnh hưởng đến
việc không sử dụng thẻ và số tiền chi trung bình của BHYT cho một lượt
người nghèo đi khám chữa bệnh năm 2007 là bao nhiêu?

2



MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Xác định tỉ lệ đặc điểm dân số học của người nghèo được cấp thẻ bảo
hiểm y tế nghèo: giới, tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng
lao động.
2. Xác định tỉ lệ người nghèo có thẻ bảo hiểm y tế đã sử dụng khi bị
bệnh.
3. Xác định tỉ lệ các nhóm bệnh người nghèo mắc phải đã sử dụng
BHYT.
4. Xác định những yếu tố có liên quan đến khả năng người nghèo khơng
sử dụng thẻ bảo hiểm y tế khi bị bệnh.
5. Xác định số tiền chi trung bình của BHYT cho một lượt người nghèo
khám chữa bệnh tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2007.

3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm về chuẩn nghèo
Là một khái niệm động , nó biến động theo khơng gian và thời gian
Về khơng gian, nó biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội của từng
vùng hay từng quốc gia. Ví dụ như ở Việt Nam, chuẩn nghèo biến động theo
3 vùng sinh thái khác nhau, đó là vùng đơ thị, vùng nơng thơn đồng bằng và
vùng nông thôn miền núi.
Về thời gian, chuẩn nghèo cũng có sự biến động lớn và nó được thay đổi
theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội và nhu cầu của con người theo từng
giai đoạn lịch sử, kinh tế-xã hội phát triển thì đời sống của con người cũng
được cải thiện tốt hơn và chuẩn nghèo cũng được điều chỉnh theo.
1.1.1. Chuẩn nghèo quốc gia
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã 3 lần cơng bố chuẩn nghèo tính
theo thu nhập bình quân đầu người cho các giai đoạn cụ thể khác nhau: giai

đoạn 1993-1995, giai đoạn 1996-2000 và giai đoạn 2001-2005.
Giai đoạn 2001-2005: Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg ngày 27/9/2001 về
chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2001-2005 [61]:
Vùng đô thị : 150.000 đồng/tháng/người (1,8 triệu/năm/người)
Vùng nông thôn đồng bằng:100.000 đồng/tháng/người (1,2triệu/năm/người)
Vùng nông thôn miền núi: 80.000 đồng/tháng/người (0,96triệu/năm/người)
Giai đoạn 2006-2010: Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005 về
chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 như sau: [62]
Khu vực nơng thơn, những hộ có thu nhập bình qn đầu người một tháng
từ 200.000 đồng trở xuống (2.400.000 đ/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Khu vực thành thị, những hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng từ
260.000 đồng trở xuống (3.120.000 đ/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
1.1.2. Chuẩn nghèo và hộ nghèo TP.Hồ Chí Minh
Xây dựng chuẩn nghèo dựa trên 2 tiêu chí [7]: Tiêu chí mức thu nhập bình
quân đầu người dựa vào trình độ phát triển kinh tế và mức sống trung bình
4


của người dân được chấp nhận trong từng thời điểm để tính chuẩn nghèo
(thơng thường đó là những người có mức thu nhập dưới 1/3 mức thu nhập
trung bình của xã hội) và khả năng tiếp cận, hưởng thụ các dịch vụ xã hội,
cụ thể như sau:
Trong giai đoạn 1 (1992-2003) thành phố đã 5 lần điều chỉnh chuẩn nghèo:
Vào đầu tháng 2 năm 1992, chương trình xóa đói giảm nghèo mới triển khai
thí điểm ở các huyện ngoại thành và các phường có nơng nghiệp của 4 quận:
quận 8, Bình Thạnh, Gị Vấp, và Tân Bình, đã xác định ngay diện hộ nghèo
đói là những hộ thiếu đói (thường bị đứt bữa ăn nhiều tháng) có trong danh
sách trợ cấp xã hội hàng năm ở nông thôn ngoại thành. Số hộ này thực sự có
mức thu nhập bình qn đầu người dưới 500.000 đ/năm (40.000đ/tháng,
tương đương 13 kg gạo)

Vào tháng 10/1992, chương trình được sơ kết và mở rộng ra tồn thành phố,
chuẩn nghèo được điều chỉnh và có phân loại riêng ra chuẩn nghèo ở các
huyện nông thôn ngoại thành và ở các quận nội thành do điều kiện và mức
sống của 2 khu vực này có chênh lệch nhau, cụ thể là mức thu nhập bình
quân hàng năm của hộ nghèo đói ở ngoại thành là 700.000đ/người và ở nội
thành là 1 triệu đ/người.
Năm 1995, tiếp tục điều chỉnh chuẩn nghèo là 1 triệu/người/năm ở ngoại
thành và 1,5 triệu/người/năm ở nội thành
Năm 1996 chuẩn nghèo là 2 triệu/người/năm ở ngoại thành và 2,5
triệu/người/năm ở nội thành.
Năm 1997 đến 2003 chuẩn nghèo là 3 triệu/người/năm đối với các quận nội
thành gồm quận 1,3,4,5,6,8,10,11, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gị vấp, Tân
Bình; 2,5 triệu/người/năm đối với các huyện ngoại thành và quận mới gồm
quận 2, 7, 9, 12, Thủ Đức, huyện Bình Chánh, Hóc Mơn, Củ Chi, Nhà Bè,
Cần Giờ.
Bắt đầu giai đoạn 2 (2004-2010), chương trình xóa đói giảm nghèo thành
phố đã điều chỉnh nâng chuẩn nghèo theo tiêu chí thu nhập bình qn đầu
5


người 6 triệu đồng/người/năm trở xuống (không phân biệt quận nội thành và
huyện ngoại thành); được phân kỳ thực hiện như sau:
Bước 1: trong thời gian 2 năm 2004-2005: phấn đấu thực hiện cơ bản khơng
cịn hộ nghèo có mức thu nhập 4 triệu đồng/người/năm trở xuống.
Bước 2: trong thời gian 5 năm từ 2006-2010; phấn đấu thực hiện đạt mục
tiêu cơ bản khơng cịn hộ nghèo có mức thu nhập 6 triệu đồng/người/năm
trở xuống.
1.2. Cơng bằng trong chăm sóc sức khỏe (CSSK).
Luật Bảo Vệ Sức Khỏe Nhân Dân [54] ghi rõ: “Sức khoẻ là vốn quý nhất
của con người, là một trong những điều cơ bản để con người sống hạnh

phúc, là mục tiêu và là nhân tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy, tất cả mọi cơng dân đều “có
quyền được bảo vệ sức khoẻ, nghỉ ngơi, giải trí, rèn luyện thân thể; được
bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường
sống và được phục vụ về chuyên môn y tế”. Công bằng trong CSSK là một
loại công bằng xã hội. Cơng bằng trong CSSK có những điểm khơng giống
như công bằng trong các dịch vụ xã hội khác (giáo dục, du lịch, thể dục thể
thao...). Tính phổ biến của nhu cầu CSSK cao hơn nhiều so với công bằng
trong các dịch vụ xã hội khác. Bởi vì tất cả mọi người đều có nhu cầu
CSSK, trong khi đối với các dịch vụ khác chỉ có một số người có nhu cầu.
So với các loại hình dịch vụ văn hố xã hội khác, nhu cầu về CSSK có tính
phổ biến rộng nhất trong xã hội [42].
Xét về tính đối xử theo nhu cầu, để có cơng bằng trong CSSK cần thực hiện
sự chia sẻ từ người khoẻ cho người ốm, từ người đang ở độ tuổi lao động
(tức là người tạo của cải vật chất nhiều hơn) cho trẻ em và người già (tức là
người tạo ra của cải vật chất ít hơn), từ người giàu cho người nghèo nhằm
tạo ra cách đối xử theo nhu cầu (chứ không phải là đối xử ngang nhau) về
sức khoẻ. Đó là những cơng việc xã hội mang đầy tính phức tạp, khơng chỉ
giải quyết bằng luật pháp mà còn cần các giải pháp thuộc phạm trù đạo đức,
6


tinh thần. Công bằng trong CSSK đôi khi không thể áp dụng khái niệm công
bằng giữa cống hiến và hưởng thụ như trong các loại hình dịch vụ khác.
Những người bị bệnh bẩm sinh, khả năng lao động kém không thể cống hiến
cho xã hội như những người bình thường, nhưng xã hội vẫn phải dành một
khoản kinh phí lớn để CSSK cho họ. Những người mắc bệnh xã hội, bệnh
mạn tính khơng có nhiều cống hiến cho xã hội, nhưng xã hội vẫn phải dành
một nguồn tài chính đáng kể để chăm sóc cho họ.
Tuỳ thuộc vào trình độ kinh tế, người ta chọn tiêu chí cho cơng bằng trong

CSSK một cách khác nhau. Có hai loại tiêu chí: Tiêu chí ‘tiếp cận” và tiêu
chí ‘sàn”[42].
Tiêu chí "tiếp cận" lấy khả năng đáp ứng nhu cầu tiếp cận của dân với hệ
thống y tế là tiêu chí đánh giá cơng bằng trong CSSK. Theo tiêu chí này,
một hệ thống y tế mà người dân càng dễ tiếp cận bao nhiêu (không phân biệt
giữa giàu nghèo, sự xa cách về địa lý....) thì tính chất cơng bằng càng được
thể hiện bấy nhiêu. Trái lại nếu người dân càng không dễ tiếp cận với hệ
thống y tế khi họ có nhu cầu về CSSK thì tính chất cơng bằng càng hạn chế
bấy nhiêu.
Tiêu chí "sàn" quy định những dịch vụ thiết yếu và công bằng được đánh
giá ở chỗ không một người dân nào được đáp ứng thấp hơn những dịch vụ
thiết yếu đó.
Tuy chúng ta chưa quan tâm nhiều việc nghiên cứu về tiêu chí của cơng
bằng trong CSSK, nhưng trên thực tế chúng ta theo đuổi cách áp dụng tiêu
chí "tiếp cận". Điều này thể hiện rõ nhất ở chỗ chúng ta phấn đấu xây dựng
một nền y tế sao cho mọi người dân, không phân biệt giàu nghèo, không
phân biệt dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số, không phân biệt sống ở nông
thôn hay thành thị, miền xuôi hay miền ngược, đều được tiếp cận với các
dịch vụ CSSK kể cả phòng bệnh lẫn chữa bệnh và phục hồi chức năng. Khi
xác định mục tiêu của nền y tế Việt Nam từ 2001 đến 2010, Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ (số 35/2001/QĐ-TTg ngày 19 tháng 3 năm 2001) đã
7


chỉ rõ: "Mục tiêu chung: Phấn đấu để mọi người dân được hưởng các dịch
vụ CSSK ban đầu, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất
lượng. Mọi người đều được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về
thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ
và phát triển giống nòi" [60]. Khi đề cập đến công tác CSSK, văn kiện đại
hội IX đã nhấn mạnh:" Nâng cao tính cơng bằng và hiệu quả trong tiếp cận

và sử dụng các dịch vụ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân"[32]. Nghị
quyết số 46/NQ-TW ngày 23 tháng 2 năm 2005 về "Công tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới" đã nêu rõ một trong
năm quan điểm của đảng ta về CSSK là:"Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y
tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, nhằm tạo cơ hội thuận lợi
cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ với chất
lượng ngày càng cao, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Phát triển BHYT tồn dân, nhằm từng bước đạt tới cơng bằng trong
CSSK, thực hiện việc chia sẻ giữa người khoẻ với người ốm, người giàu
với người nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già; công
bằng trong đãi ngộ đối với cán bộ y tế."[33]
Bảo hiểm y tế (BHYT) chính là biện pháp thực hiện cơng bằng trong CSSK
nhằm xố đi sự bất cơng giữa người giàu và người nghèo, để mọi người có
bệnh đều được điều trị với điều kiện họ có tham gia BHYT. Với BHYT,
mọi người sẽ được bình đẳng hơn, được điều trị theo bệnh, đây là một đặc
trưng ưu việt của BHYT. BHYT mang tính nhân đạo cao cả và được xã hội
hố theo ngun tắc “Số đơng bù số ít”. Số đơng người tham gia để hình
thành quỹ và quỹ này được dùng để chi trả chi phí khám chữa bệnh cho một
số ít người khơng may gặp phải rủi ro bệnh tật. Tham gia BHYT vừa có lợi
cho mình, vừa có lợi cho xã hội. Sự đóng góp của mọi người chỉ là đóng
góp phần nhỏ so với chi phí khám chữa bệnh khi họ gặp phải rủi ro ốm đau,
thậm chí sự đóng góp của cả một đời người cũng khơng đủ cho một lần chi
phí khi mắc bệnh hiểm nghèo. Do vậy sự đóng góp của cộng đồng xã hội để
8


hình thành nên quỹ BHYT là tối cần thiết và được thực hiện theo phương
châm: “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”, khi khoẻ thì để hỗ trợ
người ốm đau, khi khơng may ốm đau thì ta lại nhận được sự đóng góp của
cộng đồng, điều này đã thực sự mang lại sự công bằng trong khám chữa

bệnh.

BHYT giúp cho người tham gia khắc phục khó khăn cũng như ổn

định về mặt tài chính khi khơng may gặp phải rủi ro ốm đau [1],[58],[73].
Nhờ có BHYT, người dân sẽ an tâm được phần nào về sức khoẻ cũng như
kinh tế, bởi vì họ đã có một phần như là quỹ dự phịng của mình giành riêng
cho vấn đề chăm sóc sức khoẻ [50],[57],[59],[89],[91], đặc biệt với những
người nghèo chẳng may mắc bệnh.
Vì những lý do trên đây, BHYT được xem là một bộ phận của chính sách xã
hội đã được chính phủ các nước quan tâm và người dân nhiệt tình hưởng
ứng [50],[58] Cho đến nay hàng trăm nước trên thế giới đã thực hiện BHYT
với nhiều hình thức, mức độ, phạm vi hoạt động khác nhau. Mặc dù ở mỗi
nước khác nhau thì sẽ có các hình thức tổ chức khác nhau, có nước tổ chức
độc lập với loại hình bảo hiểm khác, có nước lại coi đây là một trong những
chế độ của bảo hiểm xã hội (BHXH) [1],[50],[76]. Nhưng mục đích triển
khai, BHYT là tương đối thống nhất, đó là: nhằm chăm sóc và bảo vệ sức
khoẻ ban đầu cho mọi người dân trong cộng đồng và giảm bớt phần nào khó
khăn đối với những gia đình nghèo khó, thu nhập thấp trên cơ sở tham gia
BHYT cộng đồng đóng góp [50].
1.3. Tổ chức BHYT chăm lo sức khỏe cho người nghèo ở một số quốc
gia trên thế giới.
1.3.1 Ở Đức
Trước khi có hệ thống BHYT theo luật định (cịn gọi là BHYT cơng), ở
Đức tồn tại nhiều nhóm tương trợ lẫn nhau mang tính chất tự nguyện, họ
đóng góp một khoản tiền nào đó để hỗ trợ nhau khi gặp rủi ro, ốm đau. Đặc
biệt, trong thời kỳ cách mạng công nghiệp, số lượng người lao động làm
công ăn lương tăng nhanh, nguồn sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu
9



nhập do nghề nghiệp mang lại và vào sự đối xử của các ông chủ. Những rủi
ro, tai nạn trong hoạt động công nghiệp xảy ra đã làm thu nhập của họ bị
giảm hoặc mất hẳn. Vì vậy, bên cạnh sự giúp đỡ lẫn nhau, giai cấp cơng
nhân cịn đấu tranh, buộc giới chủ phải có biện pháp bảo đảm thu nhập cho
họ trong những trường hợp ốm đau, tai nạn, tuổi già...v.v.. [58].
Năm 1883, nước Đức dưới thời Thủ tướng Bismark đã ban hành đạo luật
BHYT. Đạo luật này phát triển dần theo đà phát triển của xã hội.
Theo quy định của luật pháp, hai loại hình BHYT cơng và BHYT tư nhân
đang tồn tại và phát triển. BHYT cơng, là hình thức bảo hiểm mang tính
chất nghĩa vụ bắt buộc, hoạt động theo nguyên tắc tương trợ cộng đồng:
người giàu hỗ trợ tài chính cho người nghèo, người khơng có con hoặc ít
con hỗ trợ tài chính cho người có con, nhiều con. BHYT tư nhân, là bảo
hiểm thương mại, bảo hiểm căn cứ vào rủi ro của cá nhân. Nếu tính cả
BHYT cơng và BHYT tư nhân gần 100% người dân Đức đã được
BHYT[48].
Đối tượng chủ yếu của BHYT công là người làm công ăn lương và thân
nhân của họ. Trước hết là những người làm công ăn lương với ngưỡng thu
nhập nhất định (năm 2005 có ngưỡng quy định là 3.900 Euro/tháng). Người
có thu nhập trên 3.900 Euro/tháng được tự lựa chọn tham gia hoặc không
tham gia. Thân nhân của người làm công ăn lương gồm con, vợ hoặc chồng,
bạn đời khơng có nguồn thu nhập, được tham gia BHYT kèm theo với
người lao động (được miễn đóng phí BHYT). Người về hưu là đối tượng
thực hiện BHYT công theo luật định. Những đối tượng khác tham gia
BHYT tự nguyện. Người tham gia BHYT tự nguyện có mức đóng tối thiểu
bằng ngưỡng quy định là 3.900 Euro/ tháng nhân với tỷ lệ mức thu do quỹ
BHYT quy định. Những người có thu nhập vượt ngưỡng quy định khơng có
nghĩa vụ bắt buộc tham gia BHYT cơng, được nhà nước đài thọ 50% chi phí
khám chữa bệnh, được lựa chọn tham gia loại hình bảo hiểm bổ sung của
BHYT tư nhân để được khám chữa bệnh theo nhu cầu và khả năng tài chính

10


của mình [50],[48].
1.3.2. Ở Pháp
Từ giữa thế kỷ 19, phát triển các công ty hỗ trợ tương hỗ, tiền thân của các
công ty “tương hỗ”. Vào thời kỳ này đây chính là một hình thức tổ chức
khơng chính thống của nghiệp đồn, một hình thái tổ chức đồn kết giữa các
thành viên để đối mặt với rủi ro về bệnh tật.
Những năm 1945 – 1946, hệ thống an sinh xã hội của Pháp được xây dựng
ngay sau khi Chiến tranh Thế giới thứ II kết thúc. Mục đích của hệ thống
này là bảo đảm cho người dân trong mọi hoàn cảnh đều có thể có những
phương tiện cần thiết để tồn tại trong những điều kiện chấp nhận được. Hệ
thống an sinh xã hội của Pháp bao gồm các quỹ BHYT (bệnh tật thông
thường, bệnh nghề nghiệp và cả trường hợp tai nạn lao động), quỹ dành cho
người già, quỹ dành cho trợ cấp gia đình và quỹ cho trợ cấp thất nghiệp.
Nghĩa là xã hội đặt ra một mức sống tối thiểu nào đó, nếu khả năng của
người dân khơng đạt được mức đó thì Nhà nước sẽ hỗ trợ để họ có quyền
được sống với đúng phẩm giá con người và không phải quá lo sợ về một
tương lai bấp bênh, mờ mịt [50]. BHYT tế toàn dân ra đời năm 1999, quy
định quyền được hưởng BHYT cho toàn bộ cá nhân thường trú tại đất
nước[76]. Luật mang tính đồn kết phổ cập giữa người ốm đau và người
khoẻ mạnh, thể hiện ở chỗ các khoản đóng góp chỉ phụ thuộc vào thu nhập
mà không phụ thuộc vào số người được bảo hiểm (hoặc độ tuổi hay giới
tính…). Hệ thống này mang tính gia đình: chồng/vợ và con cái của người
lao động có quyền đầy đủ và trọn vẹn mặc dù mức đóng góp thu nhập của
cá nhân này bằng mức đóng góp của một người sống độc thân và khơng có
con cái [76],[89].
1.3.3. Ở Canada
Canada là một nước lớn ở Bắc Mỹ, với diện tích 9,98 triệu km2 (lớn thứ hai

thế giới sau Nga) và dân số hơn 32 triệu người. Canada là nước rất giàu tài
nguyên thiên nhiên, 90% dân số sống tập trung ở ven biển Thái Bình
11


Dương, Đại Tây Dương và trong phạm vi 200 km dọc biên giới với Mỹ.
Canada là quốc gia liên bang với 10 tỉnh và 3 vùng lãnh thổ. Mỗi tỉnh có
nghị viện, chính phủ và tồ án riêng. Về pháp luật, có luật liên bang và luật
tỉnh (ở Canada khơng gọi là bang mà gọi là tỉnh). Về mặt an sinh xã hội,
Canada thực hiện đầy đủ các chế độ về BHXH, bảo trợ xã hội và phúc lợi xã
hội mà Tổ chức Lao động quốc tế khuyến nghị. Các chế độ BHXH thực
hiện theo nguyên tắc có đóng có hưởng, các chế độ bảo trợ xã hội và phúc
lợi xã hội cũng rất cao [65],[77]. Do đặc thù là chi phí khám chữa bệnh hồn
tồn do ngân sách nhà nước cấp hàng năm nên khơng có quỹ BHYT, do đó
cũng khơng có bộ phận làm nhiệm vụ quản lý quỹ.
Về điều kiện tham gia Chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, tất cả
người dân có quốc tịch Canada đều là đối tượng được BHYT. Các tỉnh ở
Canada đều có luật BHYT khác nhau, nhưng đối tượng đi khám chữa bệnh
ở tỉnh khác trong những trường hợp theo pháp luật quy định thì cũng được
thanh tốn, thậm chí khám chữa bệnh ở nước ngoài nếu đủ điều kiện cũng
được thanh toán. Người dân Canada được hưởng nhiều chế độ BHYT mà ít
nơi có, như chữa bệnh tâm thần, chữa răng, vật lý trị liệu… Mọi người dân
được hưởng miễn phí các dịch vụ khám chữa bệnh và các chi phí về thuốc.
Nhìn tồn cảnh bức tranh về BHYT của Canada, ta thấy rằng chế độ BHYT
ở Canada là rất hoàn hảo. Như vậy là Canada đã đạt đến đỉnh cao của
BHYT, đó cũng là cái đích mà nhiều nước khác mơ ước tới [50],[65].
1.3.4. Ở Mỹ
Bảo hiểm tai nạn lần đầu tiên được cung cấp tại Hoa Kỳ do Công ty Bảo
hiểm Y tế Franklin của tiểu bang Massachusetts thành lập năm 1850, bảo
hiểm thương tật phát sinh từ tai nạn đường sắt và tàu hơi nước. Đến khoảng

năm 1950 và 1960 các chương trình BHYT của Chính phủ mới bắt đầu mở
rộng. Năm 1965, Tổng thống Lyndon Johnson ký ban hành chương trình
Medicare và Medicaid[94]. Theo trang web Centers for Medicare and
Medicaid Services [78], Medicare là một chương trình BHYT, tài trợ hồn
12


toàn ở cấp liên bang và tập trung chủ yếu vào số dân 65 tuổi trở lên, những
người tàn tật và những bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối. Medicaid là một
chương trình khơng chỉ được tài trợ ở cấp liên bang mà cịn nhận được đóng
góp kinh phí từ các tiểu bang. Medicaid là một chương trình bảo trợ xã hội
đúng hơn là một chương trình BHXH. Điều kiện được hưởng chủ yếu dựa
trên thu nhập. Chương trình cung cấp bảo hiểm sức khỏe cho một số cá
nhân có thu nhập thấp, kể cả trẻ em, phụ nữ mang thai… để họ có thể "trả
tiền cho một số hoặc tất cả các hóa đơn y tế của họ". Mỗi tiểu bang có thể
có tên riêng của mình cho chương trình Medicaid. Ví dụ như " Medi-Cal "ở
California," MassHealth "tại Massachusetts," Oregon Health Plan "ở
Oregon… [78],[94].
BHYT ở Mỹ chủ yếu là do các công ty tư nhân đảm trách và tất cả các hãng
bảo hiểm ở Mỹ đều thuộc loại doanh nghiệp có mục đích kiếm lời, mục tiêu
của các hãng bảo hiểm là lợi nhuận, chứ khơng phải vì sức khoẻ của người
dân, Mỹ khơng có chương trình BHYT toàn dân [75],[90],[94], [95]. Theo
số liệu báo cáo của US Census Bureau 2007, ít nhất 15,3% dân số là hồn
tồn khơng có bảo hiểm và 35% có BHYT khơng hồn tồn hoặc khơng có
khả năng trang trải các chi phí cho nhu cầu y tế của họ [95]. tiền phải trả
thêm của người dân cho chăm sóc sức khỏe tại Hoa Kỳ lớn hơn bất kỳ quốc
gia nào khác trên thế giới [87],[97].
1.3.5. Ở Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia có hệ thống pháp luật về BHYT từ rất sớm và có bề
dày phát triển. Luật BHYT được ban hành lần đầu tiên vào năm 1922, sau

đó lần lượt các Luật BHYT quy định riêng cho từng đối tượng được hình
thành như: Luật BHYT cộng đồng năm 1938, Luật BHYT cho người lao
động, Luật BHYT cho ngư dân năm 1939. Đến năm 1961, Nhật Bản hoàn
thành việc thực hiện BHYT toàn dân [45],[46].
Đối tượng tham gia BHYT theo quy định của pháp luật Nhật Bản rất rộng,
bao gồm những người làm công ăn lương, lao động tự do, nông dân và
13


người khơng có nghề nghiệp. Luật BHYT Nhật Bản xác định riêng hai loại
quỹ cho các đối tượng để có sự hỗ trợ cho những đối tượng có thu nhập
thấp. Quỹ BHYT cộng đồng, áp dụng cho lao động tự do, nơng dân và
người khơng có nghề nghiệp. Nhà nước bảo trợ nhiều hơn cho loại quỹ này,
vì đối tượng của quỹ thường có thu nhập thấp và khơng ổn định. Quỹ BHYT
của người làm công ăn lương, đây là đối tượng có thu nhập thường xuyên và
ổn định [46].
Đối với BHYT cộng đồng, Chính phủ tài trợ 50% chi phí dịch vụ y tế cho
quỹ BHYT của chính quyền địa phương, 47% quỹ BHYT của hiệp hội. Số
tiền giảm phí đóng góp cho một số đối tượng của quỹ BHYT cộng đồng
được hỗ trợ 50% từ ngân sách nhà nước, 25% từ ngân sách địa phương và
25% từ ngân sách của thành phố.
Người tham gia BHYT và người phụ thuộc được hưởng tại các dịch vụ y tế
bao gồm: khám bệnh, cung cấp thuốc và vật tư y tế, điều trị trong các trường
hợp cấp cứu, phẫu thuật và các điều trị y khoa khác, chăm sóc y tế tại nhà,
nằm viện và điều dưỡng. Người tham gia BHYT được tự do lựa chọn nơi
khám chữa bệnh và phải thực hiện cùng chi trả chi phí cho các dịch vụ y tế
nhận được. Mức cùng chi trả hiện nay là 30% và có áp dụng mức thấp hơn
cho một số đối tượng như: 20% đối với trẻ em dưới 3 tuổi, với hộ gia đình
có mức thu nhập nhất định theo quy định, 10% đối với người già từ 70 tuổi
trở lên [46],[88].

1.3.6. Ở Hàn Quốc

Tháng 12/1963, Luật BHYT có hiệu lực và bắt đầu được thực thi tại Hàn
Quốc, đến tháng 12 năm 1976 Luật BHYT đã được sửa đổi gần như hồn
tồn. Đầu tiên thí điểm BHYT cho những người lao động tự do ở khu vực
nông thơn, sau đó đến năm 1989, triển khai đến tất cả người lao động tự do
ở khu vực thành thị. Quá trình mở rộng đối tượng tham gia BHYT cũng bị
tác động bởi các yếu tố về chính trị và kinh tế. Năm 1963, quân đội Hàn
Quốc lên nắm chính quyền, Luật BHYT đã nhanh chóng được xây dựng và
14


đưa vào thực thi ngay trong năm đó[38]. Năm 1987 là năm mở rộng BHYT
đến người lao động tự do thì cũng là lúc Hàn Quốc bầu cử Tổng thống mới.
Về khía cạnh kinh tế, năm 1977 là năm đầu tiên thực hiện Luật BHYT sửa
đổi cũng là thời điểm mà kinh tế Hàn Quốc phát triển nhanh thơng qua
chính sách xuất khẩu công nghiệp, lúc này các phúc lợi xã hội như là phần
thặng dư của phát triển kinh tế. Từ năm 1986 - 1988 là thời gian mở rộng
BHYT đến người lao động tự do, tại thời điểm này Hàn Quốc bùng nổ về
kinh tế, tăng trưởng hàng năm đạt đến 12%. Bên cạnh đó, các vấn đề về
công bằng đã nảy sinh. Trước khi triển khai BHYT tồn dân, khoảng cách
giữa chi phí chăm sóc y tế theo quy định cho người có BHYT với những
người khơng có BHYT tăng cao. Tuy nhiên, có chương trình trợ giúp y tế
cho người nghèo. Trong đó tài chính được cấp từ thu thuế hàng năm của
Chính phủ và do cơ quan BHYT quốc gia Hàn Quốc (NHI) quản lý. Có sự
chia sẻ đóng góp giữa chính quyền Trung ương và địa phương theo tỷ lệ
(80:20) không kể ở Seoul. Người được hưởng lợi khơng phải đóng tiền.
Chương trình này BHYT cho khoảng 3 - 4 % dân số và không áp dụng đồng
chi trả hoặc nếu đồng chi trả thì có sự miễn giảm. Quỹ trợ giúp y tế nhằm
giúp ngăn ngừa sự bần cùng hoá của một số gia đình do bị ốm đau [38],[53].

1.3.7. Ở Thái Lan
Từ năm 1975, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện BHYT cho nhóm người
nghèo và nhóm người bị thiệt thịi. Đến năm 1981, Chính phủ triển khai
chương trình cấp thẻ cho người có thu nhập thấp. Năm 1983, chương trình
mở rộng đến những người già trên 60 tuổi. Vào năm 1993, được mở rộng
đến trẻ em dưới 12 tuổi và các lãnh đạo tôn giáo. Thái Lan bắt đầu triển khai
BHYT tồn dân từ năm 1996, đến năm 2001 chương trình BHYT tồn dân
được thực hiện thành cơng. Hệ thống BHYT Thái Lan được coi là một trong
những hệ thống BHYT phức tạp trong khu vực. Để quản lý BHYT có sự
tham gia của bốn Bộ. Bộ Tài chính thực hiện BHYT cho công chức, viên
chức và công nhân làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước. Bộ Lao động
15


và Phúc lợi Xã hội thực hiện BHYT thông qua cơ quan bảo hiểm xã hội
(BHXH) cho công nhân làm việc trong các đơn vị ngoài quốc doanh. Bộ Y
tế thực hiện BHYT toàn dân và BHYT cho người nghèo. Bộ Thương mại
thực hiện bảo hiểm tai nạn giao thông [1],[74]. BHYT toàn dân được thực
hiện theo nguyên tắc mỗi người được cấp một thẻ BHYT. Người có thẻ mỗi
lần đi khám bệnh hoặc vào nằm viện thì nộp 30 baht (khoảng 0,7 USD)
trước khi khám hoặc trước khi vào nằm viện (ngoại trừ bệnh nhân có thẻ thu
nhập thấp được miễn), chi phí cịn lại của lần điều trị đó được cơ quan
BHYT thanh tốn tồn bộ (theo quy định của danh mục kỹ thuật và danh
mục thuốc). Thẻ BHYT có màu vàng nên được gọi là "Thẻ vàng 30 baht",
chương trình BHYT này cũng được gọi là "Chương trình 30 baht" hay
chương trình BHYT tồn dân[66],[86].
1.3.8. Ở Singapore
Hệ thống y tế của Singapore là sự kết hợp giữa sự trợ giá của chính phủ và
trách nhiệm của cá nhân. Nhà nước đảm bảo các dịch vụ y tế thiết yếu, cá
nhân đóng góp chi phí dịch vụ y tế cao. Để giúp cho người dân có thể chi trả

cho chi phí y tế cá nhân, chính phủ sử dụng hệ thống “3M” bao gồm 3 công
cụ Medisave, Medishield and Medifund, qua đó kết hợp trách nhiệm của cá
nhân và chính phủ để hỗ trợ cho nhu cầu CSSK của những người thu nhập
thấp[91]. Medisave, Singapore áp dụng chương trình tiết kiệm y tế bắt buộc
từ năm 1984, nhằm giúp cá nhân tiết kiệm tiền cho chi phí y tế. Tuy nhiên,
tài khoản y tế cá nhân không thể đủ trang trải chi phí y tế lớn do khơng có
sự san sẻ rủi ro theo nguyên lý bảo hiểm. Do đó 1990, Chính phủ Singapore
triển khai chương trình BHYT mang tên Medishield, là chương trình bảo
hiểm quốc gia để sử dụng trong trường hợp các bệnh hiểm nghèo. Nó sẽ chi
trả cho phần lớn các chi phí trị liệu của các bệnh kéo dài hoặc nghiêm trọng
mà quỹ Medisave khơng chi trả. Như vậy, chương trình BHYT bán tự
nguyện Medishield là sự bổ sung không thể thiếu cho chương trình tiết kiệm
y tế Medisave. Bên cạnh đó Medifund là quỹ được chính phủ thành lập từ
16


năm 1993 để hỗ trợ hỗ trợ cuối cùng cho những bệnh nhân nghèo trong
trường hợp họ không đủ tiền thanh tốn các chi phí y tế mặc dù họ đã sử
dụng quỹ Medisave và Medishield [50],[64],[91].
1.3.9. Ở Trung Quốc
Trung Quốc là nước đất rộng (hơn 9,6 triệu km vuông) người đông (1,36 tỷ
người, 60% sống ở nông thôn), đa sắc tộc, đa văn hóa, có sự khác biệt rất
lớn giữa các vùng, giữa các tỉnh, thành phố. Có tỉnh, thành phố rất phát triển
nhưng cũng có vùng cịn rất nghèo nàn, lạc hậu; sự rất khác biệt giữa thành
phố và nông thôn là rất lớn, mức chênh lệch giàu nghèo là rất cao. Năm
2002, chênh lệnh thu nhập giữa thành phố và nông thôn là 13 lần và đã giảm
còn 3,2 lần năm 2005 [79]. Về phát triển kinh tế, hiện Trung quốc vừa song
song tồn tại những thành phố công nghiệp rất hiện đại với những vùng nông
nghiệp truyền thống.
Đây là một đặc thù mà rất ít nước có. Đặc điểm này làm cho Trung quốc

khó có thể xây dựng được một hệ thống an sinh xã hội thống nhất, phù hợp
chung với tất cả các vùng. Vì vậy, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương hay khu tự trị với tính chất phân cấp, phân quyền cao đều được
khuyến khích hình thành hệ thống an sinh xã hội phù hợp với điều kiện từng
địa phương. Ngay từ những ngày đầu Trung Quốc giành độc lập, các chính
sách, chế độ về an sinh xã hội đã được ban hành. Năm 1951, chính sách, chế
độ bảo hiểm về hưu trí, tàn tật, tử tuất, ốm đau, chăm sóc y tế, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thai sản đã được đưa ra. Sau đó Trung Quốc đã ban
hành một loạt các chính sách, chế độ về an sinh xã hội bao gồm cả cứu tế xã
hội, chế độ đối xử và chăm sóc đặc biệt nhằm khơng ngừng đẩy mạnh và
điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu nâng cao của xã hội. Trung Quốc hiện
có 2 chương trình BHYT khác nhau: BHYT cho khu vực thành thị và
BHYT cho khu vực nông thôn. BHYT thành thị gồm 2 chương trình: BHYT
cho cán bộ, nhân viên nhà nước và BHYT cho người lao động, được tổ chức
thực hiện ở Trung quốc từ những năm 50. BHYT cho cán bộ, nhân viên nhà
17


nước: bao phủ cho các đối tượng là cán bộ nhà nước, thương binh, nhân
viên các cơ sở nhà nước nhưng khơng bao gồm người ăn theo. Kinh phí
đóng BHYT do ngân sách nhà nước các cấp chi trả. Chương trình này cịn
gọi là Chương trình chăm sóc y tế miễn phí vì do nhà nước bao cấp để đáp
ứng nhu cầu cơ bản về y tế trong điều kiện khả năng ngân sách nhà nước và
điều kiện thực tế của hệ thống y tế hiện tại. BHYT cho người lao động: quy
mô lớn hơn, bao phủ cho các đối tượng gồm: cơng nhân các nhà máy, xí
nghiệp của nhà nước và của các hợp tác, hưu trí và người ăn theo. Mức phí
và đóng góp: hầu hết do chủ lao động đóng (vì vậy, cịn gọi là quỹ phúc lợi
của cơng nhân). BHYT nơng thơn, áp dụng Mơ hình y tế hợp tác
(Cooperative Medical Schemes) trong chăm sóc y tế ở nơng thơn được hình
thành và trở lên phổ biến từ những năm 60-70 nhưng không ổn định và sụp

đổ hoàn toàn khi hệ thống hợp tác xã, hệ thống kinh tế kế hoạch tập trung
khơng cịn tồn tại ở Trung quốc [83],[96]. Để giải quyết vấn đề nghèo đói
của nơng dân do phải chi trả chi phí khám chữa bệnh, từ năm 1993, chính
phủ Trung quốc quyết định phục hồi mơ hình y tế hợp tác và nhiều dự án thí
điểm đã được thực hiện với sự giúp đỡ về kỹ thuật của các tổ chức quốc tế.
Năm 2002, mơ hình y tế hợp tác mới được hình thành và sau 5 năm thí điểm
với các nghiên cứu, đánh giá và điều chỉnh, mơ hình được chính thức triển
khai trên cả nước bắt đầu từ 2007. Tính đến tháng 6/2007, số huyện thực
hiện mơ hình y tế hợp tác mới là 2429, chiếm khoảng 85% tổng số huyện cả
nước và bao phủ khoảng 720 triệu người [96]. Hiện nay, mơ hình y tế hợp
tác mới được đánh giá là giải pháp tài chính hữu hiệu đầu tiên trong lịch sử
Trung quốc để bảo đảm chăm sóc sức khỏe cơ bản cho nhân dân nông thôn.
Đặc điểm của mô hình y tế hợp tác mới là đối tượng bao phủ tồn bộ các
thành viên trong hộ gia đình và dựa trên cơ sở tự nguyện. Mức đóng được
xác định hàng năm dựa trên tỷ lệ thu nhập của người dân, khoảng 1-2% và
có sự chia sẻ giữa ngân sách Trung ương, địa phương và người dân, trong
đó người dân đóng khoảng 30% mức phí; phần cịn lại do ngân sách hỗ trợ.
18


Với các đặc điểm trên có thể coi mơ hình y tế hợp tác mới là hình thức
BHYT dựa vào cộng đồng có sự hỗ trợ một phần kinh phí từ Chính phủ và
hợp tác xã. Trên cơ sở định hướng của nhà nước, Bộ Y tế phối hợp với Bộ
Tài chính và Nội vụ đã ban hành hướng dẫn chính thức về mơ hình y tế hợp
tác mới và mục tiêu đến 2010 sẽ bao phủ tồn bộ nơng dân với cam kết hỗ
trợ ngân sách của nhà nước các cấp để đảm bảo thực hiện. [24],[85],[98].
1.3.10. Ở Philippines
Từ năm 1969 Philippines đã triển khai Chương trình chăm sóc y tế thông
qua phương thức BHYT. Năm 1995 Philippines đã ban hành Luật số 7875 cơ sở pháp lý hoàn chỉnh đầu tiên cho việc thực hiện chính sách BHYT.
Mục tiêu được đặt ra là: sau 15 năm tổ chức thực hiện Luật 7875 sẽ thực

hiện được BHYT cho toàn dân[36]. Trước mắt, luật quy định bắt buộc thực
hiện BHYT với một số đối tượng làm công ăn lương và hưu trí và thực hiện
BHYT tự nguyện với các đối tượng lao động tự do. Theo Luật 7875, chính
sách BHYT ở Philippines có một số nội dung cơ bản sau: đối tượng tham
gia BHYT được chia theo nhóm, với trách nhiệm và mức đóng khác nhau
chẳng hạn nhóm đối tượng là những người làm công ăn lương: là những cán
bộ, viên chức nhà nước; người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có
thu nhập ổn định hàng tháng. Đối với những người nghỉ hưu: quỹ BHXH
đóng BHYT cho họ. Nhóm đối tượng người nghèo: mức đóng BHYT của
đối tượng này là 1.200 Peso/hộ/năm. Trong đó ngân sách trung ương đảm
bảo 70%; ngân sách địa phương 30%. Nhóm đối tượng là người lao động tự
do: mức đóng của đối tượng này là đồng nhất 1.200 Peso/người/năm, người
tham gia phải tự đóng 100%. Tuy nhiên số người nghèo được Nhà nước
mua thẻ BHYT không nhiều và chỉ sau 1 - 2 năm số này sẽ khơng cịn thuộc
diện nghèo, lúc đó họ là đối tượng của BHYT tự nguyện. Do phụ thuộc vào
kinh phí (của Trung ương và địa phương) để mua BHYT cho người nghèo,
đến thời điểm hiện tại mới có khoảng 5 triệu người nghèo được mua BHYT
trong số gần 35 triệu người nghèo của Philippines (chiếm khoảng 1/7). Do
19


vậy, số người nghèo còn lại cùng với các bộ phận dân cư khác phải tham gia
BHYT tự nguyện để được chăm sóc sức khỏe [36],[59].
1.3.11. Ở Việt Nam
Ngày 25/08/1992, căn cứ vào luật tổ chức HĐBH ngày 04/07/1981 và căn
cứ vào Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ
y tế, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 299/HĐBT chính thức
cơng bố sự ra đời của BHYT tại nước CHXHCN Việt Nam, và có hiệu lực
từ ngày 01/10/1992 [36]. Trong giai đoạn đầu thực hiện Nghị Định
299/HĐBT, Bộ y tế giao cho BHYT Việt Nam chịu trách nhiệm tổ chức

thực hiện trong phạm vi toàn quốc. Ngoài chức năng quản lý về chuyên môn
nghiệp vụ đối với BHYT các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương và các
ngành đặc thù trong cả nước, BHYT Việt Nam còn trực tiếp khai thác và
quản lý các cơ quan xí nghiệp thuộc Trung ương đóng trên địa bàn thành
phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Để phù hợp với điều kiện kinh tế xã
hội và khắc phục những điểm chưa phù hợp trong cơ chế tổ chức quản lý
BHYT, tạo điều kiện cho BHYT hoạt động có hiệu quả và ngày càng lớn
mạnh, ngày 13/08/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/1998/NĐCP kèm theo Điều lệ BHYT [15]. Tuy nhiên, Điều lệ BHYT này chưa xếp
người nghèo vào đối tượng BHYT bắt buộc, người nghèo muốn tham gia
BHYT phải mua BHYT tự nguyện. Do đó nếu khơng có khả năng mua
BHYT thì người nghèo sẽ rất khó khăn khi mắc những bệnh nặng, chi phí
điều trị cao. Để tháo gỡ vấn đề này ngày 15/10/2002, thủ tướng chính phủ
đã ban hành Quyết định 139/2002/QĐ-TTg về khám chữa bệnh cho người
nghèo. Qua đó các địa phương bắt đầu thành lập các quỹ khám chữa bệnh
cho người nghèo, cấp thẻ/ sổ khám chữa bệnh cho người nghèo và mua
BHYT cho người nghèo. Đến năm 2005 Nghị định 58/1998/NĐ-CP được
thay bằng NĐ 63/2005/NĐ-CP [16], với nghị định này đối tượng tham gia
BHYT được mở rộng ra rất nhiều và người nghèo đã được xếp vào đối
tượng BHYT bắt buộc, được ngân sách nhà nước đóng BHYT. Thực hiện
20



×