Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

Tư tưởng triết học của hải thượng lãn ông lê hữu trác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 155 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--

***--

TRẦN THỊ BIÊN THÙY

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA
HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--

***--

TRẦN THỊ BIÊN THÙY

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA
HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. TRƯƠNG VĂN CHUNG

TP. HỒ CHÍ MINH – 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu là trung thực.
Người cam đoan

TRẦN THỊ BIÊN THÙY


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 7
Chương 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
LÊ HỮU TRÁC...............................................................................7
1.1. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI THỜI LÊ TRUNG HƯNG. ............................ 7
1.1.1. Điều kiện kinh tế .................................................................................. 7
1.1.2. Điều kiện chính trị - xã hội ................................................................. 14
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ Y HỌC......................................... 22
1.2.1. Học thuyết Âm dương – Ngũ hành ...................................................... 23
1.2.2. Lý luận y học của tác phẩm “Hoàng đế Nội kinh” ............................... 32
1.3. ĐÔI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM
CỦA LÊ HỮU TRÁC .............................................................................. 44
1.3.1. Đôi nét về cuộc đời Lê Hữu Trác ........................................................ 44

1.3.2. Đôi nét về tác phẩm “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” ............................ 49

Chương 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA
HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC ........................ 58
2.1. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN VÀ CON NGƯỜI.............................. 59

2.1.1. Quan điểm triết học về tự nhiên ........................................................... 60
2.1.2. Quan điểm triết học về con người .............................................................72
2.2. QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG TRONG Y PHÁP ............................................. 86

2.2.1. Quan điểm toàn diện ..................................................................................87
2.2.2. Quan điểm lịch sử - cụ thể .................................................................. 95
2.3.

QUAN ĐIỂM VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ NHÂN SINH ........................................ 102

2.3.1. Quan niệm về đức “Nhân” của người thầy thuốc .............................. 103
2.3.2. Quan niệm về cuộc sống hạnh phúc.................................................. 111


2.4. ĐÁNH GIÁ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LÊ HỮU TRÁC VÀ
Ý NGHĨA, VAI TRỊ CỦA NĨ ĐỐI VỚI Y HỌC CỔ TRUYỂN VIỆT NAM .. 122

2.4.1.Đánh giá tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác..................................... 122
2.4.2.Ý nghĩa, vai trò của tư tưởng triết học Lê Hữu Trác
đối với y học cổ truyền Việt Nam ..................................................... 128
KẾT LUẬN............................................................................................... 135
PHỤ LỤC.................................................................................................. 140
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 144



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trường kỳ lịch sử hơn bốn nghìn năm của dân tộc Việt Nam đã để lại cho
chúng ta những di sản văn hóa vơ cùng q giá. Trong các di sản văn hóa đó, tư
tưởng là bộ phận di sản tinh hoa nhất, là cốt lõi của một nền văn hóa. Để hình thành
nên hệ thống tư tưởng đó các thế hệ người Việt đã trải qua bao thăng trầm trong quá
trình đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh xã hội. Lịch sử tư tưởng Việt Nam là
một kho tàng tri thức sâu sắc mà chúng ta cần nghiêm túc giữ gìn, tìm hiểu, khai
thác và vận dụng. Do đó, việc nghiên cứu tư tưởng của dân tộc là một việc làm cần
thiết để chúng ta hiểu hơn về dân tộc mình. Đó cũng chính là bảo tồn bản sắc dân
tộc.
Trong lịch sử Việt Nam, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là nhân vật đã để
lại ấn tượng đặc biệt. Ông không chỉ là một người thầy thuốc xuất sắc trong y thuật,
mẫu mực trong y đức mà ơng cịn thể hiện vai trò là một nhà tư tưởng uyên bác.
Trước tác duy nhất mà Lê Hữu Trác để lại cho dân tộc ta là bộ sách “Hải Thượng y
tông tâm lĩnh”. Trong tác phẩm này, ngoài những giá trị y học chúng ta còn thấy
được những tư tưởng triết học và đạo đức rất có giá trị để khai thác, vận dụng trong
điều kiện hiện nay. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng triết học của Hải Thượng
Lãn Ông Lê Hữu Trác là một việc làm cần thiết để chúng ta có cái nhìn đa chiều hơn
về dấu ấn tư tưởng mà ông để lại.
Mặt khác, thực tiễn những năm gần đây ở nước ta cho thấy sự hiểu biết của
nhân dân về tính khoa học trong y học cổ truyền còn khá hạn chế. Điều này đã tạo
điều kiện cho những luận điệu mang tính chất thần bí, mê tín len lỏi vào niềm tin mà
nhân dân dành cho y học dân tộc. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và làm sáng tỏ cơ sở
lý luận nói chung và cơ sở triết học nói riêng của y học cổ truyền là vô cùng cần thiết
trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu lý luận y học cổ truyền cịn là hành động thiết

thực để góp phần thực hiện kế hoạch của Chính phủ về phát triển y dược cổ truyền
đến năm 2020 [84].


2

Xuất phát từ cách đặt vấn đề trên, tôi chọn đề tài luận văn: “Tư tưởng triết học
của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác” để nghiên cứu với mong muốn làm rõ thêm tư
tưởng triết học của Lê Hữu Trác. Qua đó, đóng góp kết quả chứng minh cho cơ sở triết
học của y học cổ truyền Việt Nam.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam
được đẩy mạnh và đã đạt được những thành tựu rõ nét. Bên cạnh đó, cơng tác
nghiên cứu lý luận y học cổ truyền cũng được quan tâm làm rõ. Có thể khái qt
tình hình nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và tư tưởng Lê Hữu Trác
nói riêng theo các nhóm cơng trình sau đây:
- Ở lĩnh vực nghiên cứu về lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam có các cơng
trình tiêu biểu như: “Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam” do Ủy ban
Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Triết học biên soạn (1984). Kết quả nghiên cứu từ
cơng trình này có giá trị tham khảo và định hướng nghiên cứu rất hữu ích. Đi sâu vào
nghiên cứu cụ thể tư tưởng của các nhà tư tưởng Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử
có các cơng trình như: “Tư tưởng triết học của thiền phái Trúc Lâm đời Trần” (1998)
của PTS. Trương Văn Chung, NXB. Chính trị quốc gia ; “Trần Nhân Tơng toàn tập”
(2000) của tác giả Lê Mạnh Thát, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh ; “Đại cương lịch
sử tư tưởng triết học Việt Nam” (2002) do PGS,TS. Nguyễn Hùng Hậu chủ biên (Tập
1 – Từ khởi nguyên đến năm 1858), NXB. Đại học quốc gia Hà Nội; “Tư tưởng Việt
Nam thời Lý – Trần”(2008) do PGS,TS. Trương Văn Chung – PGS,TS Dỗn Chính
(Đồng chủ biên), NXB. Chính trị quốc gia; “Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo

Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh” của tác giả Nguyễn Hồi Văn, NXB.
Chính trị quốc gia... Từ các cơng trình nghiên cứu này có thể kế thừa được nhiều tư
liệu về quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam, về đặc điểm trong lịch sử tư tưởng
Việt Nam qua những khía cạnh như: tơn giáo, chính trị, văn học. Trong đó, khi phân


3

tích lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, cơng trình “Đại cương lịch sử tư tưởng triết
học Việt Nam” đã trình bày khái quát những tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác qua
quan niệm về Âm dương – Ngũ Hành trong y pháp của ông.
- Riêng về việc nghiên cứu tư tưởng triết học trong y học cổ truyền thì có
cơng trình “Học thuyết Âm dương và phương dược cổ truyền” (2001) của tác giả
Hoàng Tuấn, NXB. Văn hóa – Thơng tin; luận văn thạc sỹ với đề tài “Học thuyết
Ngũ hành với việc giải thích chức năng sinh lý cơ thể người theo y học cổ truyền”
của Đoàn Ngọc Minh (Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thành phố Hồ
Chí Minh, năm 2009). Hai cơng trình nghiên cứu này đã phân tích tỉ mỉ những ảnh
hưởng của thuyết Âm dương – Ngũ Hành trong y lý của Đơng y và tính chất khoa
học của y học cổ truyền. Trong cơng trình nghiên cứu, các tác giả này đều có bàn
đến lý luận y học của Lê Hữu Trác.
- Nghiên cứu chuyên sâu về tư tưởng của Lê Hữu Trác thì đã có nhiều tác giả
nghiên cứu:
Năm 1970, Bộ y tế đã tổ chức Hội thảo nhân dịp kỷ niệm 250 năm ngày sinh
Hải Thượng Lãn Ông. Tại Hội thảo nhiều bài phát biểu, bài viết nghiên cứu về cuộc
đời và tư tưởng Hải Thượng Lãn Ơng đã được cơng bố. Năm 1971, nhà xuất bản Y
học đã tập hợp các kết quả nghiên cứu này để xuất bản thành sách tham khảo dưới
dạng tập chuyên đề. Tập chuyên đề này đã đem lại những phân tích sâu và rộng về
tư tưởng Lê Hữu Trác ở nhiều lĩnh vực như: triết học, y học, văn học, mỹ học [2].
Trong đó, các tác giả đã nêu ra nhiều ý kiến phân tích rất sắc sảo xen lẫn những ý
kiến đánh giá có phần khắt khe về tư tưởng của ông. Cùng năm này, nhà xuất bản Y

học và Thể dục thể thao đã xuất bản công trình nghiên cứu “Thân thế và sự nghiệp y
học của Hải Thượng Lãn Ông” do tác giả Lê Trần Đức (công tác tại Viện Y học dân
tộc Hà Nội) biên soạn; cơng trình này đã trình bày khái qt các vấn đề về thân thế,
cuộc đời, các tư tưởng y học và bố cục của tác phẩm “Hải Thượng y tơng tâm lĩnh”.
Cơng trình này nghiên cứu thiên về lý pháp, phương dược trong tác phẩm của Hải
Thượng Lãn Ông nhưng tác giả Lê Trần Đức cũng có nêu ra nhiều đánh giá về vai


4

trò của Lê Hữu Trác trong lịch sử y học cổ truyền và các quan điểm của Lê Hữu
Trác về vấn đề y đức.
Từ năm 1990 đến nay, nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về cơ sở triết
học trong lý luận y học của Lê Hữu Trác đã xuất hiện. Tiêu biểu như: cơng trình
nghiên cứu “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” (1993) của tác giả Nguyễn Tài Thư, NXB.
Khoa học xã hội, Hà Nội. Trong tập 1 của cơng trình nghiên cứu này, tác giả
Nguyễn Tài Thư đã dành hẳn chương XXII để bàn về tư tưởng Lê Hữu Trác. Bên
cạnh đó, cịn có các cơng trình như: “Hải Thượng Lãn Ông – nhà y học lớn, nhà văn
hóa lớn” (2001) của tác giả Nguyễn Văn Thang, NXB. Văn hóa – Thơng tin; “Bộ
Hải thượng y tơng tâm lĩnh với sự vận dụng những tư tưởng triết học thời cổ” của
Trần Văn Thụy (Luận án tiến sĩ triết học, năm 1996), “Tư tưởng triết học về con
người qua tác phẩm y học của Hải Thượng Lãn Ông” của Phạm Công Nhất (Luận
án tiến sĩ triết học, năm 2001), “Thuyết Âm dương – Ngũ hành với tác phẩm
“Hoàng đế nội kinh” và “Hải thượng y tông tâm lĩnh” của Trần Thị Huyền (Luận
án tiến sĩ triết học, năm 2002)...Các cơng trình nghiên cứu này đã phân tích sâu sắc
về cơ sở triết học trong lý luận y học của Lê Hữu Trác ở nhiều khía cạnh khác nhau;
đây là những đóng góp lớn cho việc nghiên cứu tính triết học trong tư tưởng y học
của Hải Thượng Lãn Ơng.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu chun sâu dưới dạng sách tham khảo, luận
án, luận văn, việc tìm hiểu về tư tưởng Lê Hữu Trác cịn được trình bày ở các bài

nghiên cứu, bài phân tích đăng trên tạp chí khoa học, trên website như: “Thuyết Âm
dương – Ngũ hành trong “Hải thượng y tông tâm lĩnh” của Lê Hữu Trác” của tác
giả Đồn Quang Thọ trên www.chungta.com (Nguồn: Tạp chí triết học, năm
2007); “Thuyết Âm dương – Ngũ hành trong “Hải thượng y tông tâm lĩnh” của Lê
Hữu Trác” của tác giả Trần Thị Huyền đăng trên Tạp chí Triết học, số 133 (Tháng
6/2002); “Quan điểm duy vật về tự nhiên của Lê Hữu Trác trong bộ “Hải Thượng y
tông tâm lĩnh” ” của tác giả Trần Văn Thụy đăng trên Tạp chí Triết học, số 90
(tháng 4/1996), “Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác” của tác giả Phan Vọng Húc


5

đăng trên Bách Khoa, số 41 (năm 1958)…Các bài nghiên cứu này đã đem lại những
tư liệu có giá trị tham khảo rất phong phú.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã làm sáng tỏ được nhiều
nội dung về thân thế, cuộc đời và tư tưởng của Lê Hữu Trác; qua đó các tác giả đã
chỉ ra những luận điểm mang tính triết học trong lý luận y học của ơng. Tuy nhiên,
ở các cơng trình này mỗi tác giả tập trung bàn về tư tưởng Lê Hữu Trác ở một góc
độ khác nhau do đó các luận điểm trong tư tưởng của Lê Hữu Trác chưa được các
tác giả nối kết lại thành một hệ thống chung. Vì vậy, để làm nổi bật lên giá trị tư
tưởng triết học của Lê Hữu Trác chúng ta cần phải có được sự kết nối này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trình bày tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác theo một hệ thống quan điểm triết
học về tự nhiên, con người, đạo đức, nhân sinh; qua đó làm rõ thêm giá trị triết học
trong hệ thống lý luận y học của Hải Thượng Lãn Ông.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên luận văn phải giải quyết các vấn đề sau:
- Thứ nhất, phân tích điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận hình thành
nên tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác.

- Thứ hai, phân tích nội dung tư tưởng trong tác phẩm của Lê Hữu Trác để
chỉ ra giá trị triết học trong tư tưởng của ông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng triết học của Hải Thượng Lãn
Ông Lê Hữu Trác trong tác phẩm “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” (bản dịch gồm 5
quyển của dịch giả Đinh Thụ Hồng Văn Hịe, năm 1992 và bản dịch của NXB. Y
học, năm 2005).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, tác giả dựa trên thế giới quan và phương
pháp luận của triết học Mác - Lênin. Đồng thời trong quá trình thực hiện, tác giả


6

còn sử dụng một số phương pháp khác như logic - lịch sử, phân tích, tổng hợp để
nghiên cứu và trình bày luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa khoa học
Luận văn làm rõ thêm tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác, góp phần vào lĩnh
vực nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Về ý nghĩa thực tiễn
- Giúp người đọc nhận thức rõ hơn về giá trị khoa học của y học cổ truyền
Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục
vụ công tác nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và nghiên cứu về tư
tưởng của Lê Hữu Trác nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 2 chương, 7 tiết.



7

Chương 1

ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG LÊ HỮU TRÁC
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của
đời sống xã hội, trong đó ý thức xã hội bao giờ cũng phản ánh tồn tại xã hội, phản
ánh những đặc điểm xã hội mà từ đó nó nảy sinh. Vì vậy, để thấy được quá trình
hình thành và đặc điểm tư tưởng của Lê Hữu Trác cần phải phân tích điều kiện kinh
tế - xã hội của thời đại mà ông sinh sống – thời Lê Trung Hưng.
1.1. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI THỜI LÊ TRUNG HƯNG

Sau giai đoạn ổn định và phát triển của chế độ phong kiến trung ương tập
quyền từ thời Lê Thái Tổ đến Lê Hiến Tơng thì chính quyền nhà Lê bắt đầu suy
thối. Triều đình phong kiến thống trị trong giai đoạn này tỏ ra khơng đủ khả năng
quản lí kinh tế và tổ chức các công tác xã hội; vua quan lao vào ăn chơi trụy lạc, các
phe phái quý tộc và các thế lực quan đại thần tranh giành quyền lực tạo ra một bối
cảnh triều chính rối ren. Tình hình kinh tế - xã hội Đại Việt bước vào giai đoạn
phân liệt: đầu tiên là nội chiến Nam triều – Bắc triều. Sau khi nhà Mạc bị lực lượng
họ Trịnh đánh bại thì nhà Lê được thế lực họ Trịnh ủng hộ trở lại ngôi vị, mở ra thời
Lê Trung Hưng với cấu trúc quyền lực theo chế độ “vua Lê – chúa Trịnh”. Sau đó
Đại Việt lại tiếp tục rơi vào sự phân liệt kinh tế - chính trị với cục diện cát cứ Đàng
ngồi, Đàng trong giữa họ Trịnh và họ Nguyễn.
Đến thế kỷ XVIII, sự khủng hoảng của của chế độ phong kiến đã trở nên
trầm trọng. Thời kỳ này được còn được gọi là thời Lê mạt khi mà tính tập quyền của
nhà nước phong kiến trung ương ngày càng giảm sút. Nguyên nhân gây nên sự
khủng hoảng toàn diện về kinh tế - chính trị - xã hội thời kỳ này bắt nguồn từ những
điều kiện của nền kinh tế.
1.1.1. Điều kiện kinh tế

Tình hình kinh tế Đại Việt thế kỷ XVII - XVIII (trước hết là ở Đàng ngoài)
vận động một cách khó khăn trong điều kiện nội chiến phong kiến triền miên và nền
sản xuất được tổ chức bằng những chính sách kinh tế bảo thủ của chính quyền Lê –


8

Trịnh. Từ đó, đưa đến kết quả tất yếu: nền kinh tế suy thoái, đời sống nhân dân (đặc
biệt là nông dân) ngày càng cực khổ.
Đặc điểm kinh tế thời kỳ này có thể khái quát trên các phương diện sau:
Thứ nhất, tình hình sản xuất nơng nghiệp dựa trên chính sách quân điền
ngày càng suy sụp
Đường lối kinh tế từ thời Lê sơ chủ trương trọng nơng vì vậy chính sách
ruộng đất có ý nghĩa rất quan trọng. Chính sách ruộng đất của nhà Lê chính là phép
quân điền. Chính sách quân điền đã phát huy tác dụng mạnh mẽ trong khoảng cuối
thế kỷ XV và tạo thành cơ sở kinh tế cho sự củng cố của chính quyền trung ương
quân chủ tập quyền. Phép quân điền thực chất là một chế độ sở hữu kép về ruộng
đất. Trong đó quyền sở hữu tối cao về ruộng đất thuộc về nhà nước chuyên chế và
quyền lực này được thiết lập thông qua các công xã nông thôn ở địa phương, quyền
chiếm dụng và phân phối lại ruộng đất được giao về cho các làng xã từng bước biến
làng xã thành người quản lý ruộng đất cho nhà nước. “Nhưng một khi những quan
hệ sản xuất phong kiến đã được xác lập, chúng không thể giữ nguyên cái khuôn khổ
cũ mà sẽ từng bước phát huy tác dụng, phá vỡ thế lực của chính quyền trung ương
cùng với cơ sở kinh tế của nó”[30, tr.40] do đó bắt đầu từ cuối thế kỷ XV, sự phát
triển của chế độ sở hữu và chiếm hữu tư nhân về ruộng đất đã làm cho chính sách
quân điền thất bại trong việc tổ chức nền sản xuất nơng nghiệp. Tình hình sản xuất
nơng nghiệp ngày càng suy sụp do nông dân không đủ ruộng đất khẩu phần để sản
xuất trong khi chế độ sưu thuế thì khơng hề giảm nhẹ.
Khuynh hướng phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất đã hình
thành từ trước đó rất lâu. Từ thời Lê Nhân Tông (1443 – 1459) pháp luật nhà Lê đã

bắt đầu quy định về việc mua bán, cầm cố và kế thừa ruộng đất; điều này chứng tỏ
ruộng đất tư hữu ở thời Lê sơ đã bắt đầu được pháp luật thừa nhận và nó trở thành
một bộ phận của chế độ sở hữu ruộng đất mặc dù ruộng tư hữu vẫn chiếm diện tích
nhỏ hơn ruộng cơng. Nhưng đến giai đoạn thế kỷ XVII – XVIII sự phát triển của tư
hữu ruộng đất trở nên mạnh mẽ bởi hai tác nhân chính là: Nạn kiêm tinh thổ địa và
chính sách ruộng đất được cải cách không triệt để. Biểu hiện rõ nét của sự phát


9

triển chế độ tư hữu ruộng đất trong thời kỳ này là diện tích ruộng đất cơng để chia
cho nơng dân sản xuất ngày càng bị thu hẹp.
Từ đầu thế kỷ XVI nạn kiêm tinh thổ địa phát triển mạnh. Ruộng công ở
làng xã dần dần bị bọn cường hào ở địa phương khai báo gian lận, lấn chiếm để
biến thành ruộng tư. Ở nhiều nơi, ruộng thờ các triều, các công thần triều đại trước,
ruộng của các công thần nhà Lê cũng bị lấn chiếm. Nạn kiêm tinh thổ địa này làm
cho diện tích ruộng đất cơng ở các địa phương ngày càng bị thu hẹp trong khi ruộng
đất tư hữu lại tăng lên đáng kể. Cho đến cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII ở Đàng
Ngoài đã hình thành hàng loạt địa chủ có trên 100 mẫu ruộng, nhiều người có trên
1000 mẫu; hình thành một số trang trại lớn của các nhà quyền thế. Vì vậy mà năm
Cảnh Trị thứ 5 (1667), chính quyền Lê – Trịnh ban hành điều lệnh về khai báo
ruộng công: “Các huyện xã ở hai xứ Thanh, Nghệ, xã nào có ruộng công mà ngoan
cố không chịu chỉ dẫn để đo đạc...khơng chịu chỉ dẫn khám xét thì cứ theo số ruộng
mà thu tiền thuế cộng thêm tiền phạt nặng” [30, tr. 49]; năm Cảnh Trị thứ 8 (1669),
chúa Trịnh ban hành lệ “Truyền về việc cày cấy ruộng công” quy định rõ: người
được hưởng ruộng phong thưởng chỉ được cày cấy khi được phép và số ruộng đó
khơng được q 10 mẫu; đối với ruộng thưởng nằm ở làng khác (khơng phải bản
qn của người được hưởng) thì chỉ được thu thuế; năm 1691 nhà nước trung ương
phải ban hành phép Tu tri bạ - đây là một đợt làm sổ ruộng đất làng xã rất quan
trọng nhằm ngăn chặn tình trạng xâm chiếm đất đai ở các địa phương. Sự xuất hiện

của nhiều chính sách quản lý ruộng đất trong thời kỳ này chứng tỏ sự phát triển của
tình trạng tư hữu ruộng đất đã vượt khỏi khả năng kiểm sốt của nhà nước.
Sự lạm dụng chính sách phong thưởng ruộng đất của triều đình trung ương
trở thành một tác nhân nữa khiến tư hữu ruộng đất phát triển mạnh. Các chính sách
ban thưởng ruộng đất có từ thời Lê sơ như: lộc điền, tế điền, phong nhiêu, phong
ấm... được thực hiện như một cách để triều đình trung ương duy trì quan hệ lợi ích
gắn bó giữa đội ngũ quan liêu, quý tộc với nhà nước quân chủ tập quyền. Chính
sách ban thưởng này làm cho diện tích ruộng đất công ở các làng xã ngày càng thu
hẹp đến mức nhà nước trung ương phải giải quyết vấn đề ban thưởng một cách rất


10

thô thiển: Năm Cảnh Trị thứ 1 (1663) ruộng đất thế nghiệp ban cho công thần
Nguyễn Trực được rút xuống còn 96 mẫu so với mức 370 mẫu được ban cách đó 2
năm, 100 mẫu ruộng tế dành thờ phụng cơng thần Nguyễn Trãi cũng bị rút xuống
cịn 40 mẫu [30, tr.57]. Điều này đã nói lên sự đối phó của chính quyền trung ương
trước tình trạng ruộng đất cơng khơng cịn đủ để đáp ứng cho nhu cầu phong thưởng
của nhà nước và nó cho thấy diện tích ruộng đất công đã bị thu hẹp đáng kể.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của tình trạng tư hữu ruộng đất, nhà nước trung
ương tiến hành cải cách chính sách quân điền vào năm 1711 để tăng cường số
lượng ruộng khẩu phần mà người dân phải cày cấy và nộp thuế - nguồn thu chính
của nhà nước từ ruộng đất cơng. Chính sách quân điền năm 1711 xác định lại cách
phân chia ruộng đất trong xã hội, cố gắng thu hồi các mảnh ruộng công bị ẩn lậu, bị
cầm cố, bán chác, các phần ruộng đất ban cấp theo chế độ phong thưởng được chia
bớt lại cho công xã để làm ruộng khẩu phần cho dân đinh các xã, mở rộng thêm các
đối tượng dân đinh được chia ruộng công. Tuy nhiên, chính sách quân điền lần này
lại tăng thêm số phần ruộng được chia cho các hạng quan lại nhà nước và qn sĩ
tức là nó “tấn cơng thêm một bước vào diện tích ruộng đất cơng cịn lại để chia cho
nhân dân”[30, 97]. Sự sai lầm trong chính sách ruộng đất mới này là việc nhà nước

cho phép người được chia ruộng bán hoặc cầm cố ruộng khẩu phần đã được chia.
Điều này lại tạo thêm cơ sở cho sự tấn công của chế độ tư hữu thông qua sự lũng
đoạn của thế lực cường hào ở địa phương đối với ruộng đất cơng. Từ đó có thể thấy
rằng chính sách qn điền được cải cách về mặt hình thức chứ về bản chất cũng
khơng có gì thay đổi nên chẳng những nó khơng hạn chế được tư hữu ruộng đất mà
còn gây thêm tác động khiến tư hữu phát triển.
Để đảm bảo thu nhập cho chính quyền phong kiến, trừ các loại ruộng công
thần, ruộng sứ thần, ruộng binh lính thì chúa Trịnh bắt tất cả các loại ruộng đất khác
đều phải nộp thuế. Năm 1664, nhà nước ban hành phép bình lệ, giao cho các địa
phương thống kê số đinh, số điền của các xã rồi tính toán tổng số tiền thuế phải nộp
cho nhà nước của từng xã; hàng năm nhà nước theo mức đó mà thu thuế không cần
biết đến sự thay đổi về dân đinh hay diện tích ruộng đất phải chịu thuế. Kết quả là


11

cuộc sống của người nơng dân càng khó khăn thêm bởi diện tích ruộng khẩu phần
chia cho người dân ngày càng ít đi nhưng sự ràng buộc về sưu thuế, lao dịch của
nhà nước trung ương đối với họ không hề giảm nhẹ. Người nông dân buộc phải cày
cấy một ít ruộng công khẩu phần để gánh chịu mọi nghĩa vụ đối với nhà nước.
Mâu thuẫn giữa xu hướng đang lên của quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất
với chính sách kinh tế bảo thủ của nhà nước - cố gắng duy trì quan hệ sản xuất cơng
xã không được giải quyết triệt để đã tạo ra những hệ quả xã hội trầm trọng: đói kém
thường xuyên xảy ra, nông dân thiếu đất để sản xuất mà chế độ tơ thuế thì nặng nề
nên họ bỏ đi phiêu tán, làng mạc tiêu điều, đất đai bỏ hoang. Năm 1741, hơn 1/3
tổng số làng xã ở Đàng ngoài người dân bỏ đi phiêu tán. Đời sống nhân dân đói
khổ, cơ cực: “Dân gian bỏ cả cấy cày, các thứ tích trữ ở xóm làng hầu như hết sạch.
Dân phiêu tán dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, một trăm đồng
không được một bữa no. Nhân dân phần nhiều phải ăn rau, ăn củ, đến nỗi ăn cả thịt
rắn, thịt chuột, chết đói chồng chất lên nhau...làng nào vốn có tiếng trù mật cũng chỉ

cịn lại độ 5 – 3 hộ mà thôi” [29, tr.399].
Thêm vào đó, nhà nước trung ương bất lực trong việc quản lý và bảo vệ các
cơng trình thủy lợi, khuyến nông; công tác này bỏ mặc cho quan lại địa phương thu
tiền của dân, thuê người làm. Nạn tham ô, vơ vét của công trong đội ngũ quan lại
địa phương khiến cho đê điều không đảm bảo chất lượng. Do đó, vào những năm
cuối thế kỷ XVII tình trạng vỡ đê, lụt lội mất mùa liên tục xảy ra khiến đời sống
nhân dân càng thêm cơ cực. Theo thống kê của tác giả Trương Hữu Quýnh thì từ
năm 1680 – 1740 đã xảy ra 24 lần thiên tai, trong đó có 14 nạn đói lớn, 7 lần thủy
tai [29, tr.356].
Như vậy, sự phát triển của tình trạng tư hữu ruộng đất trong thời kỳ này đã
làm cho chính sách quân điền – đường lối kinh tế cơ bản và quan trọng của nhà Lê
bị mất tác dụng. Phương thức sản xuất theo kiểu công xã nông thôn bị phá vỡ, tính
tư nhân trong quan hệ sản xuất ở các làng xã phát triển mạnh. Điều này dẫn đến sự
cát cứ của các thế lực phong kiến ở địa phương, thoát ly dần sự quản lý của nhà
nước làm cho tính tập quyền của nhà nước quân chủ bị suy yếu.


12

Thứ hai, sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp bị kìm hãm
Trong các thế kỷ XVI, XVII và những thập niên đầu của thế kỷ XVIII, ở
châu Âu thời kỳ này chủ nghĩa trọng thương phát triển mạnh mẽ nên một nền
thương mại quốc tế xuyên đại dương đã hình thành. Ở Trung Quốc, nhà Minh đã
ban hành chính sách bế môn toả cảng từ năm Hồng Vũ thứ 4 (1371), nghiêm cấm
người Hoa giao thương hàng hải với các nước khác. Lệnh cấm này đã khiến cho
một số mặt hàng thông thương truyền thống giữa Trung Hoa và Nhật Bản như tơ
lụa, gốm sứ... bị cấm vận [71]. Những điều kiện kinh tế thế giới và khu vực đã tạo
nên cơ hội cho ngoại thương Đại Việt phát triển.
Khi quan hệ giao thương giữa Đại Việt và các thương nhân nước ngồi được
mở ra thì nhu cầu về hàng hóa thủ cơng tăng lên mạnh mẽ. Điều này cũng mở ra cơ

hội cho người nông dân chuyển hướng sản xuất sang thủ công nghiệp để kiếm sống
bởi lẽ khi nền sản xuất nông nghiệp không đủ sức để ni sống người nơng dân, để
bảo vệ và duy trì cuộc sống cho mình họ phải khơng ngừng lao động sáng tạo. Họ
làm thêm các nghề thủ công hoặc buôn bán nhỏ để kiếm tiền mua lương thực, bù
vào chỗ thiếu hụt trong sản xuất nông nghiệp.
Ở các địa phương nhiều làng nghề thủ cơng được hình thành như: nghề rèn,
nghề mộc, thợ nề, nghề dệt lụa, kéo tơ, nghề chạm trổ, nghề làm đồ gốm, làm giấy,
nghề in bản gỗ...Hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa trong nước có bước phát
triển mới. Hầu như mỗi làng đều có chợ hoặc các cụm làng chia phiên trong tuần để
họp chợ. Mỗi huyện có khoảng 16 – 22 chợ làng, chợ chùa, chợ huyện, các làng
nghề thủ công như Vân Chàng, Xuân Cầu, Thổ Hà...đều có chợ riêng [29, tr.372].
Về ngoại thương, các đô thị chuyên buôn bán với thương nhân Bồ Đào Nha, Hà
Lan, Nhật Bản bắt đầu phồn thịnh, tiêu biểu như các đô thị Kẻ Chợ (hay còn gọi là
Kinh kỳ), Phố Hiến.
Nếu như ở thời Lê Thánh Tông chủ trương “bế quan tỏa cảng” với ngoại
thương để tránh âm mưu dị xét tình hình trong nước của ngoại bang và trọng nông
– cơ sở kinh tế chính của nhà nước tập quyền thì đến giai đoạn này, với sự sa sút
trong tình hình nơng nghiệp, tơ thuế từ ruộng đất của các làng xã bị hạn chế thì sự


13

phát triển của thương nghiệp đã trở thành nguồn bổ sung thu nhập từ thuế khóa cho
nhà nước phong kiến, như chúa Trịnh đã nhận xét “sau cơn binh lửa, tài lực của dân
thiếu thốn, chỉ cịn trơng vào các nhà giàu bn bán chuyển vận từ chỗ có đến chỗ
khơng” [29, tr. 373]. Chính vì vậy, nhà nước phong kiến tăng cường sự bóc lột tầng
lớp thợ thủ cơng và thương nhân bằng chính sách thuế khóa (gọi là thuế thổ sản).
Điều này làm cho sự phát triển kinh tế hàng hóa bị ức chế. Năm 1724, để có tiền
giải quyết các khó khăn của chính quyền trung ương, phủ Chúa cho “xét biên trong
dân gian ai có nghề gì cũng phải nộp thuế”. Kết quả là: “vì sự trưng thu quá mức,

vật lực kiệt đến nỗi người ta thành ra bần cùng và phải bỏ nghề nghiệp. Có người vì
thuế sơn sống mà phải chặt cây sơn, vì thuế vải lụa mà phải phá khung cửi, cũng có
kẻ vì phải nộp gỗ mà bỏ cả rìu búa, vì phải nộp cá tơm mà xé lưới chài, vì phải nộp
bơng chè mà bỏ hoang vườn tược. Làng xóm náo động” [29, tr.399]. Ngoài ra, sự
độc quyền của nhà nước trong việc tập trung hàng hóa do các phường hội sản xuất
để bán cho thương nhân nước ngoài, sự nhũng nhiễu, cướp đoạt tùy tiện của đội ngũ
quan lại phụ trách thuế quan, tàu vụ đã vắt kiệt sức sản xuất của nhân dân, nó kìm
hãm sự phát triển của thương nghiệp [29, tr.379].
Từ đó có thể thấy, trong khi cơ sở kinh tế chính của xã hội là sản xuất nơng
nghiệp ở các làng xã đã suy sụp, chính quyền Lê – Trịnh đã khơng cải cách được
tình hình này. Đến khi nền kinh tế có xu hướng vận động chuyển sang cơng thương
nghiệp thì lại bị chính sách thuế khóa ức chế. Do đó, sự chuyển biến kinh tế từ nền
kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa ở Đại Việt thời kỳ này diễn ra hết sức chậm
chạp. Nền kinh tế khơng thể chuyển mình, đời sống nhân dân vẫn không được cải
thiện đáng kể.
Sự phát triển của thương nghiệp đã làm cho quan hệ hàng hóa – tiền tệ trở
nên phổ biến trong xã hội đương thời. Nhà nước phong kiến cũng bắt đầu thay thế
một phần hoặc tồn bộ thuế ruộng từ hình thức thu thuế hiện vật (đóng bằng thóc)
sang thu thuế tiền. Theo lệ thời bấy giờ, công điền, công thổ là loại ruộng đất phải
chịu thuế, chia làm 3 hạng: hạng nhất, mỗi mẫu đóng 1 quan, hạng nhì đóng 8 tiền,
hạng ba đóng 6 tiền [29, tr.358]. Quan hệ tiền tệ đã len lỏi cả vào quan trường và


14

khoa cử. Chúa Trịnh thực hiện việc cho dân nộp thóc hoặc tiền để được bổ dụng tri
phủ, tri huyện; như sử cũ nhận định: “Bấy giờ quan chức nhũng lạm, phức tạp, một
lúc cất nhắc bổ dụng đến hơn 1000 người, làm quan cầu may, viên chức thừa thãi,
không cịn phân biệt gì cả” [29, tr.346]. Việc nhũng nhiễu nhân dân để đòi tiền bạc
từ các vụ xử kiện biến thành giá trị chủ yếu của các chức quan phủ, quan huyện mà

nhà nước đem bán. Điều này tác động đáng kể đến đời sống xã hội, nó làm đảo lộn
các giá trị đạo đức truyền thống theo quan điểm Nho giáo thời bấy giờ. Chẳng hạn,
theo nhận xét của Lê Q Đơn thì đây là thời kỳ mà sĩ hỏng nát không thời nào
bằng, nhân cách của họ sa đọa, khơng cịn nghĩ đến nước, đến dân chỉ biết luồn cúi,
bon chen vì lợi danh [6, tr. 316].
Từ các vấn đề nêu trên, có thể khái quát lại: chính sự khủng hoảng từ nền sản
xuất đã dẫn đến sự khủng hoảng của tình hình chính trị - xã hội Đại Việt thế kỷ
XVII – XVIII. Mâu thuẫn kinh tế cơ bản của thời kỳ này là mâu thuẫn giữa quan hệ
tư hữu về tư liệu sản xuất đang trên đà phát triển với chính sách kinh tế bảo thủ của
nhà nước trung ương. Mâu thuẫn kinh tế này không được giải quyết hợp quy luật vận
động của nền sản xuất nên nó khiến cho sức sản xuất trong nhân dân bị kìm hãm, lực
lượng sản xuất khơng phát triển được. Nền sản xuất lâm vào trạng thái trì trệ.
Điều kiện kinh tế này đã tạo ra mâu thuẫn trong quan hệ sản xuất, biểu hiện
về mặt xã hội thành hai mâu thuẫn cơ bản: Một là, sự phát triển của quan hệ tư hữu
về tư liệu sản xuất đã tạo nên xu hướng nâng cao quyền hành cá nhân của các thế lực
phong kiến địa phương, điều này dẫn đến sự suy yếu của chính quyền trung ương.
Khi xu hướng cát cứ hình thành thì tất yếu sẽ đưa đến sự tranh chấp lợi ích và quyền
hành giữa các thế lực phong kiến với nhau. Từ đó gây ra mâu thuẫn trong nội bộ giai
cấp thống trị, gây ra xung đột về mặt chính trị. Hai là, mâu thuẫn này biểu hiện thành
mâu thuẫn giữa người nông dân và giai cấp phong kiến thống trị. Khi mâu thuẫn kinh
tế lên đến đỉnh cao, các cuộc khởi nghĩa của người nơng dân tất yếu nổ ra.
1.1.2. Điều kiện chính trị - xã hội
Xét theo quan điểm duy vật lịch sử, trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội thì
cơ sở kinh tế giữ vai trị quyết định đối với đời sống chính trị - xã hội. Vì vậy một


15

khi cơ sở kinh tế thay đổi nó sẽ tạo nên những chuyển biến trong đời sống xã hội,
như C.Mác đã nhận định “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng

tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” [3, tr.15].
Bắt đầu vào khoảng cuối thế kỷ XV, từ những thay đổi trong quan hệ sản
xuất của xã hội Đại Việt đã đưa đến nhiều biến đổi trong đời sống chính trị - xã hội
thời kỳ sau đó. Biến động chính trị - xã hội cuối thời Lê đã tạo nên một bối cảnh xã
hội rối ren, bất ổn. Có thể khái quát diễn biến chính trị - xã hội của giai đoạn lịch sử
đặc biệt này qua các điểm sau đây:
Thứ nhất, sự tranh giành quyền lực của các phe phái phong kiến
Ở triều đại của Lê Thánh Tơng chính sách độc tôn Nho giáo với nguyên tắc
đề cao lễ pháp, coi trọng đẳng cấp, tôn ty trật tự xã hội đã đem lại hiệu quả tích cực
cho sự nghiệp củng cố sức mạnh tập quyền của nhà nước trung ương. Theo thuyết
“chính danh” của Khổng Tử, mọi việc chính trị hay hoặc dở đều do người cầm
quyền, vì thế người người trên phải giữ cho mình ngay chính và làm việc gì cũng
cần phải giữ chính danh. Một khi danh phận đã định rõ thì thì người nào có vị trí
chính đáng của người đó, vua – tơi trật tự phân minh.
Tuy nhiên, từ thế kỷ XVI thì mối quan hệ qn – thần, nhà nước và nhân dân
khơng cịn được giữ đúng theo trật tự của chính danh nữa: về phía triều đình nhà Lê
sự chia rẽ sâu sắc xảy ra ngay trong hồng tộc. Năm 1504, Lê Hiến Tơng “vì ham
nữ sắc quá nhiều” chết sớm. Lê Uy Mục được tơn lên làm vua nhưng sao nhãng
việc triều chính, “đêm cùng cung nhân uống rượu vô độ, ai say thì giết”, tính tình
hung hãn, giết hại các cơng thần, tơn thất có ý khơng ủng hộ mình. Uy Mục tàn bạo
đến nỗi một sứ thần Trung Quốc đã phải gọi y là “vua quỷ”[29, tr.338]. Uy Mục
làm vua được 5 năm thì người trong hồng tộc đã hợp qn giết Uy Mục, lập vua
mới là Tương Dực. Lê Tương Dực lên ngôi cũng sa đọa không kém Uy Mục, y lại
“hoang dâm vô độ”, về điều này một sứ thần Trung Quốc nhận xét: “nhà vua tính
hiếu dâm như tướng lợn, loạn vong khơng cịn lâu nữa”[29, tr.338]. Các quan đại
thần trong triều như Trịnh Duy Sản, Lê Quảng Độ lập mưu giết Tương Dực (năm
1516) rồi lập vua Quảng Trị mới 8 tuổi lên ngôi để dễ bề thao túng. Quần thần nhà


16


Lê lại giết Quảng Trị và thay bằng vua Lê Chiêu Tông mới 11 tuổi [57, tr.169]. Vua
Lê trên thực tế đã trở thành con rối trong tay các thế lực quý tộc và quan đại thần
trong triều đình. Đạo lý quân – thần của Nho giáo bị vi phạm nghiêm trọng, điều
này cũng chứng tỏ sự bạc nhược về quyền lực của nhà nước phong kiến trung ương.
Mặt khác, sự tha hóa nhân cách, đạo đức và bất tài của những người mang danh
“thiên tử” như Lê Uy Mục, Lê Tương Dực đã khiến cho vị thế của vua bị xem
thường, các quan đại thần thừa thế lũng đoạn quyền hành. Theo nhận xét của tác giả
Nguyễn Hoài Văn thì: “Sự thất đức của những ơng vua như Uy Mục, Tương Dực
cũng như sự nhu nhược, bất tài của Chiêu Tơng đã chứng tỏ rằng các tín điều của
Nho giáo đã bị chính các con cháu của nhà vua thời Hồng Đức vi phạm một cách
nghiêm trọng” [57, tr.171]. Nội bộ hoàng tộc chia rẽ sâu sắc, quyền hành của triều
đình bị các thế lực quan đại thần thao túng. Điều này tất yếu tạo nên mâu thuẫn
quyền lực trong nội bộ giai cấp thống trị mà cụ thể là giữa các thế lực phong kiến
với nhau.
Trong lúc chính quyền trung ương sa đọa thì các thế lực phong kiến ngày
càng mạnh lên, sự tranh chấp trong triều là điều kiện cho họ vùng dậy. Thế lực các
quan đại thần như Nguyễn Văn Lang, nhóm hoạn quan Nguyễn Khắc Hài, các võ
tướng như Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ, Mạc Đăng Dung... lũng đoạn quyền
hành, xung đột và tiến hành thanh toán lẫn nhau, vua Lê lúc bấy giờ chỉ như một
chiêu bài để các thế lực này nhân danh mà làm loạn. Năm 1522, Mạc Đăng Dung
đánh bại các thế lực khác và cướp ngôi vua Lê, lập ra nhà Mạc. Mâu thuẫn lại nảy
sinh giữa chính quyền nhà Mạc và các thế lực quan lại cũ của nhà Lê như Lê Ý, Lê
Công Uyên. Năm 1532, An Thành hầu Nguyễn Kim (con của quan đại thần Nguyễn
Hoằng Dụ) đã tôn một người con của Chiêu Tông lên làm vua nhằm lập ra một triều
đình nhà Lê ở Thanh Hóa (gọi là Nam triều). Sự phân liệt và chiến tranh Nam – Bắc
triều bùng nổ.
Sau khi Nguyễn Kim bị đầu độc chết. Con rể của Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm
nắm giữ binh quyền và tiếp tục tấn công nhà Mạc với khẩu hiệu “Phù Lê diệt Mạc”.



17

Đến năm 1592, Trịnh Tùng (con trai Trịnh Kiểm) tiêu diệt nhà Mạc, trung hưng nhà
Lê nhưng lại mở ra chế độ lưỡng phân về quyền lực là: chế độ vua Lê – chúa Trịnh.
Tình trạng Nam – Bắc triều chấm dứt chưa được bao lâu thì mâu thuẫn giữa
hai dịng họ cơng thần là Trịnh và Nguyễn lại xuất hiện. Trước sự chuyên chế của
thế lực họ Trịnh, họ Nguyễn tìm cách bảo tồn lợi ích và tránh nguy hiểm bằng cách
thoát ly dần ảnh hưởng của họ Trịnh. Sau khi vào trấn thủ đất Thuận Hóa, họ
Nguyễn đã âm thầm xây dựng cơ sở kinh tế và tổ chức quân đội của mình để chuẩn
bị thành lập một chính quyền riêng. Năm 1627, cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn
bắt đầu, trong nửa thế kỷ hai bên đánh nhau 7 lần. Cuối cùng, năm 1672, hai bên
đều tổn thất khá nặng nề nên quyết định ngừng chiến, lấy sông Gianh làm giới
tuyến chia cắt lãnh thổ của đôi bên. Kết quả của cuộc chiến giữa hai thế lực phong
kiến lớn thời đó là họ Trịnh – họ Nguyễn đã tạo nên sự phân liệt đất nước thành
Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Như vậy, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, giai cấp phong kiến thống trị tìm
cách giải quyết mâu thuẫn nội bộ bằng các cuộc chiến tranh phong kiến đã liên tục
nổ ra và kéo dài trên dưới 150 năm. Mâu thuẫn nội bộ của giai cấp phong kiến
thống trị vẫn chưa giải quyết được triệt để thì mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và
nhân dân lại nổ ra. Những cuộc nội chiến này đã gây ra hậu quả nặng nề cho xã hội:
chính quyền trung ương buông lơi trách nhiệm tổ chức sản xuất, quản lý nền kinh tế
nên các thế lực phong kiến địa phương mặc sức hồnh hành, người nơng dân mất
đất đai khiến đời sống của họ trở nên cơ cực. Công tác trị thủy bị lãng quên nên lụt
lội, mất mùa thường xuyên xảy ra khiến dịch bệnh tràn lan, nông dân chết đói rất
nhiều. Ngồi ra, nội chiến phong kiến khiến xã hội luôn náo loạn, đời sống nhân
dân phiêu tán. Nền sản xuất vì thế càng đình đốn. Tình hình này đã khiến cho nhân
dân mất lòng tin với triều đình, mâu thuẫn giữa nhân dân và giai cấp thống trị càng
trở nên gay gắt và tất yếu sẽ dẫn đến những cuộc nổi dậy của nông dân.
Thứ hai, các cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra thường xuyên

Từ cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII nhiều cuộc nổi dậy của nông dân đã
nổ ra ở nhiều nơi tại miền xuôi cũng như miền núi, đến khoảng chục năm đầu thế kỷ


18

XVIII, nền sản xuất nơng nghiệp của Đàng Ngồi khủng hoảng trầm trọng, chính
quyền Lê – Trịnh khơng giải quyết nổi khó khăn của tình hình ruộng đất. Vì thế đời
sống người nơng dân ngày một khó khăn hơn, trong khi đó chính sách sưu thuế, lao
dịch đè nặng lên cuộc sống của họ. Do đó, đến thế kỷ XVIII các cuộc nổi dậy của
nông dân lan rộng và nổ ra liên tiếp khắp Đàng Ngoài. Từ cuối năm 1739, phong
trào nơng dân khởi nghĩa ở Đàng Ngồi bước vào giai đoạn cao trào. Hàng loạt
cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình bùng lên ở nhiều nơi, tập trung nhất là ở Hải
Dương, Sơn Nam (Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình ngày nay) là những nơi bị nạn
đói tàn phá dữ dội nhất. Các cuộc khởi nghĩa qui mô lớn và diễn ra liên tục đến
những thập niên 60, 70 của thế kỷ XVIII tiêu biểu như: khởi nghĩa của Nguyễn
Tuyển, Nguyễn Cừ, Hồng Cơng Chất, Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Hữu Cầu,
Lê Duy Mật... đã khiến cho chính quyền của chúa Trịnh phải lao đao, hao tổn rất
nhiều binh lực mới dập tắt được các cuộc khởi nghĩa. Trong đó, cuộc khởi nghĩa
kéo dài nhất của phong trào nông dân thế kỷ XVIII là của hoàng thân Lê Duy Mật
(diễn ra trong suốt 32 năm). Với sự bùng nổ dữ dội và kéo dài của phong trào nông
dân như vậy nên thế kỷ XVIII vẫn được các nhà sử học đánh giá là “thế kỷ của
nơng dân khởi nghĩa”[23, tr.183].
Vì tính tự phát, phân tán của các cuộc khởi nghĩa, vì mục tiêu đấu tranh cịn
khá thiển cận (thỏa mãn lợi ích kinh tế trước mắt, trút xả ốn hờn với giai cấp thống
trị là chính) và hơn cả là thiếu đường lối đấu tranh đúng đắn nên phong trào đấu
tranh của nơng dân ở Đàng Ngồi trong thế kỷ XVIII dù có phát triển lớn mạnh vẫn
khơng thể tạo nên một cuộc cách mạng xã hội. Mặc dù vậy, phong trào nơng dân ở
Đàng Ngồi đã tạo nên một tiền đề xã hội quan trọng để phong trào nông dân Tây
Sơn ở Đàng Trong sau đó có thể phát triển thành một cuộc đấu tranh quy mô lớn

của nông dân trên phạm vi cả nước.
Từ phong trào nông dân ở Đàng Ngồi thế kỷ XVIII, có thể nhận thấy một
điểm đáng chú ý đó là: đa số các thủ lĩnh nghĩa quân đều thuộc tầng lớp Nho sĩ bất
mãn hoặc quý tộc họ Lê và các quan lại cấp thấp bị đè nén. Chẳng hạn như: Nguyễn
Tuyển vốn là một trí thức Nho học từng làm một viên quan nhỏ ở kinh thành,


19

Nguyễn Danh Phương cũng là một trí thức Nho học, Lê Duy Mật là một hoàng thân
(con vua Lê Dụ Tơng). Điều này cho thấy: từ tình hình chính trị - xã hội của Đàng
Ngoài vào thế kỷ XVIII đã suy thối nghiêm trọng; triều đình bạc nhược, quan lại
lộng hành, chế độ khoa cử thối nát và sự lũng đoạn của đồng tiền đã gạt một phần
đông đảo các sĩ phu chân chính ra khỏi lý tưởng “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”,
làm lung lay ý thức “tơn quân quyền” trong họ. Họ trở thành một lớp người thất cơ
lỡ vận, sống bất đắc chí. Chính vì vậy, họ có xu hướng đứng về phía nơng dân – đại
biểu cho lợi ích xã hội để đấu tranh chống lại giai cấp thống trị, khi trở thành thủ lĩnh
của phong trào nông dân họ khai thác sức mạnh của lực lượng xã hội này để thực
hiện lý tưởng của mình. Như vậy, trong phong trào nơng dân của thế kỷ XVIII phản
ánh đồng thời hai mâu thuẫn xã hội: trước hết là mâu thuẫn kinh tế giữa người nông
dân với giai cấp thống trị, ẩn sâu trong đó là mâu thuẫn về lý tưởng xã hội giữa tầng
lớp kẻ sĩ thất thế với bộ máy quan liêu lộng quyền và triều đình bạc nhược.
Thứ ba, sự chuyển biến trong lĩnh vực tư tưởng
Trong thời kỳ Hồng Đức vàng son của nhà Lê, Nho giáo đã được Lê Thánh
Tông sử dụng triệt để với tư cách là một học thuyết chính trị để bảo vệ cho chế độ
quân chủ tập quyền, Nho giáo không những được coi là hệ tư tưởng chính thống của
tồn xã hội mà nó cịn được thể chế hóa thành pháp luật (tiêu biểu nhất cho việc thể
chế hóa Nho giáo là sự ra đời của Bộ luật Hồng Đức). Nho giáo đã trở thành bệ đỡ
về mặt ý thức xã hội, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính quyền
thời Lê Thánh Tông.

Đến thời Lê Trung Hưng, nối tiếp tinh thần của thế kỷ XV, giai cấp thống trị
ở các thế kỷ XVI – XVIII ở Đàng Ngoài cũng như ở Đàng Trong, tuy mức độ khác
nhau, đều xem Nho giáo là nền tảng tư tưởng của mọi thiết chế chính trị xã hội, Nho
giáo vẫn là khuôn mẫu, là nội dung chủ yếu của giáo dục, thi cử. Tuy nhiên, đến
giai đoạn này thì ảnh hưởng của Nho giáo trong ý thức của giai cấp thống trị khơng
cịn mạnh mẽ nữa. Biểu hiện về sự suy vi của Nho giáo là tư tưởng “trung quân”, ý
thức “tôn quân quyền” và chuẩn mực của thuyết “chính danh” bị vi phạm nghiêm
trọng, việc lật đổ nhà Lê của Mạc Đăng Dung hay hình thức lưỡng đầu chế về


20

quyền lực nhà nước của chế độ vua Lê – chúa Trịnh là những biểu hiện rõ nét cho
sự vi phạm đạo Qn – Thần.
Mặc dù Nho giáo khơng cịn phát huy mạnh mẽ vai trị của nó trong việc ổn
định xã hội, các huấn điều của Nho giáo bị vi phạm nên Nho giáo đã mất dần tính
thuyết phục của nó, nhưng trong thế kỷ XVI – XVIII Nho giáo vẫn được xã hội
chấp nhận là vì tại thời điểm đó trong tồn tại xã hội của Đại Việt về mặt kinh tế vẫn
là một nền kinh tế tiểu nông, về mặt kết cấu giai cấp – xã hội vẫn chưa có một lực
lượng xã hội mới nào xuất hiện. Chính vì lẽ đó, chưa có một học thuyết mới nào
khác hơn Nho giáo để tổ chức xã hội, dù là nhà Mạc, là chính quyền Lê – Trịnh ở
Đàng ngồi hay là chính quyền họ Nguyễn ở Đàng trong sau khi đã vi phạm Nho
giáo để tranh đoạt quyền lực thì cuối cùng vẫn phải dựa vào Nho giáo để bảo vệ
quyền lực và tổ chức chính quyền của mình.
Như vậy, trong thời Lê Trung Hưng Nho giáo vẫn được xem là hệ tư tưởng
chính thống nhưng nó đã khơng được sử dụng một cách chân chính để phát huy
những mặt tích cực trong việc ổn định xã hội. Trái lại, giai cấp thống trị ở Đàng
ngoài đã dùng Nho giáo để dựng lên chiêu bài “tôn phù Lê thất” ngụy trang cho sự
lộng quyền với chế độ vua Lê – chúa Trịnh nhằm tránh được sự phản đối của xã
hội.

Chính vì Nho giáo chỉ được sử dụng một cách hình thức nên giá trị tư tưởng
của Nho giáo bị xem nhẹ, việc giáo dục Nho giáo trong xã hội cũng mang tính sáo
rỗng. Ở Đàng Ngồi, nhà Lê – Trịnh vẫn mở đều các khoa thi nhưng chất lượng
ngày càng sa sút. Nếu như ở thời Lê sơ phương pháp giáo dục theo lối “văn bát cổ”
đòi hỏi tầng lớp sĩ phu khả năng thuộc lòng tất cả các kinh sách trong chương trình
cử nghiệp thì đến thời chúa Trịnh, sĩ tử chỉ cần học thuộc lòng một ít bài vở sáo
rỗng, Nhà nước lại thả lỏng cho các quan chấm thi ở trường thi Hương soạn sẵn 4 –
5 đề thi, ra đi ra lại, các thầy đồ giỏi nhân đó soạn sẵn bài đem bán mà quan trường
thì cứ theo văn lấy đỗ, “trùng kiến cũng mặc” [29, 384]. Chúa Trịnh cịn sai Bùi
Huy Bích soạn những sách Ngũ kinh, Tứ thư và Tính lý tốt yếu để thay cho những
sách đại tồn thời Lê sơ, các bộ Tứ thư, Ngũ kinh này là dạng sách tóm tắt, những


×