Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Pushkin và sứ mệnh hoà giải của nước Nga -2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.93 KB, 5 trang )

Pushkin và sứ mệnh hoà giải của nước Nga
2
TS. Phạm Thị Phương
Khoa Ngữ văn - Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh

Như vậy, phương Đơng trong cảm quan của nhà tư tưởng Pushkin từ những năm
30 trở đi có sự thay đổi căn bản. Chuyến đi Arzrum là sự hiện thực hoá những
xung động nội tại, khẳng định sự chiếm lĩnh của chủ nghĩa hiện thực trong mắt
xích chủ chốt nhất của văn học – đó là văn xi. Tuy nhiên, thể loại không phải là
vấn đề mấu chốt duy nhất, mà chính là sự thay đổi quan niệm đáp ứng nhu cầu
thẩm mĩ mới: đi sâu tối đa vào thực chất của thế giới phương Đông, không chỉ ở
cấu trúc xã hội mà cả trong tâm lí mang dấu ấn văn hố và tơn giáo của con người
phương Đông. Nhớ lại những sự kiện xảy ra trong hai chuyến đi trước, Pushkin
ghi nhận sự căm ghét của người Cherkes đối với người Nga, sự bất hợp tác của các
nước láng giềng Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư cũng như các bộ tộc ở Kavcaz với dân tộc
Nga. Một trong những ngun nhân sâu xa dẫn đến tình trạng đó, theo Pushkin, là
vấn đề cưỡng bức tơn giáo. Ơng khơng tán thành việc Chính thống giáo hố bằng
vũ lực đối với các nước phong kiến gia trưởng mà phần đông dân số theo đạo Hồi,
lí giải rằng mọi sự tiếp nhận hình thức mới của văn hố – xã hội, nhất là vấn đề
đức tin, cần phải xuất phát từ thực trạng và nhu cầu nội tại của đối tượng.
Trở lên trên cho thấy đề tài phương Đông của Pushkin gắn bó chặt chẽ và có
sự chuyển biến với quá trình nhận thức và suy ngẫm về lịch sử, đưa đến một định


hướng mới về quan điểm nghệ thuật cũng như tư tưởng triết học của ông vào
những năm cuối đời: một mặt, ơng bác bỏ cái nhìn lãng mạn hố hiện thực phương
Đơng, đề nghị một cái nhìn chân thực và thiết thực trong vẻ đẹp thẩm mĩ ở chiều
cao mới; mặt khác, nhân danh sự khải hồn của những tình cảm thánh thiện nhân
loại, ơng địi hỏi sự cần thiết những nguyên tắc nhân đạo mới trong mối quan hệ
của nước Nga trung tâm với các dân tộc phương Đông, đồng thời yêu cầu sự cải
tạo xã hội để những vùng đất đó tiến kịp với nền khai minh châu Âu.



Nếu như Pushkin từng nhiều lần viễn du về phương Đơng thì cả đời chưa bao
giờ ơng có dịp vượt biên giới Nga sang các nước Tây Âu. Tuy nhiên nền văn hố
và tư tưởng châu Âu khơng hề xa lạ với ơng, bởi ngay từ khi cịn rất trẻ ông đã
lĩnh hội một nền học vấn Tây Âu sâu sắc, chịu ảnh hưởng Vonte, Byron,
Shakespeare, Gothe,… Ơng khơng phải là kẻ quan sát Tây Âu từ bên ngoài, mà
đứng ở bên trong nó để nhìn nhận mọi khía cạnh của lịch sử và văn hóa.
Trong quan hệ của nước Nga với châu Âu, trước hết là Tây Âu, Pushkin ghi
nhận sự khác biệt giữa hai đối tượng – sự khác biệt được hình thành từ trong lịch
sử mà rõ nhất ở hai sự kiện: một là, sự li giáo của nhà thờ vào năm 1054 mà hệ
quả là nước Nga đi theo một con đường riêng, khác hẳn toàn bộ Tây Âu; và hai,
ách đô hộ Mông – Thát gần một phần tư thiên niên kỉ (1243 – 1480) mà hậu quả là
đã tách các công quốc Nga La Tư – với tư cách một cộng đồng nhân chủng của
các bộ lạc Đông Slave – ra khỏi Tây Âu văn minh. Về sự kiện thứ nhất, trong tiểu


luận Vài điều về văn học Nga (1834), Pushkin viết: “Một thời gian dài nước Nga
hoàn toàn xa lạ với châu Âu. Tiếp nhận Thiên chúa giáo từ Bizantin, nước Nga
đứng ngồi những đảo lộn chính trị cũng như những sinh hoạt tinh thần trong thế
giới Cơ đốc giáo La Mã. Thời đại Phục Hưng vĩ đại chẳng mảy may tác động gì
đến nó; trào lưu kị sĩ (rysarstvo) với những đam mê cao đẹp, những cảm xúc thanh
cao của các cuộc thập tự chinh chẳng hề cổ vũ gì tổ tiên chúng ta, khơng hề có một
tiếng vang nào từ phương Bắc lạnh ngắt vọng tới”(7). Về sự kiện thứ hai, cũng
trong bài viết này, Pushkin giải thích nguyên nhân tụt hậu so với châu Âu của
nước Nga trước thời kì Piot’r đệ Nhất: “Nước Nga được dành cho một sứ mệnh
cao cả. Những bình ngun vơ bờ bến của nó đã nuốt chửng sức mạnh của qn
Mơng Cổ và chặn đứng cuộc xâm lăng của chúng ngay ngưỡng cửa châu Âu; các
đạo quân hung nô không dám để lại sau lưng mình một nước Nga cổ đã bị chinh
phục, cho nên đã quay về thảo nguyên phương Đông. Nền khai minh châu Âu
đang phôi thai được cứu vớt bởi nước Nga kiệt quệ, tan tác”(8). Ách đô hộ Mông –

Thát đã dựng lên bức tường thành ngăn cách Nga với châu Âu trong suốt một thời
gian dài, tạo nên sự cách biệt về tốc độ và phương hướng phát triển.
Chỉ rõ nguyên nhân khiến nước Nga tách biệt khỏi châu Âu, một mặt Pushkin
muốn nước Nga nhanh chóng hội nhập với tiến trình phát triển chung của châu
Âu, nhưng mặt khác, vẫn giữ cho mình một mơ hình riêng phù hợp với đặc điểm
dân tộc. Trong bài Phác thảo về văn học Nga (1830), ông đánh giá cao những nỗ
lực của các sa hoàng Ivan đệ Tứ, Boris Godunov, Piot’r đệ Nhất trong việc đưa
nước Nga gia nhập vào tiến trình văn minh chung của châu Âu; đồng thời ông


cũng đưa ra luận điểm rằng nước Nga cần một công thức riêng, phù hợp với lịch
sử và con người Nga. Cơng thức đó là một nhà nước q tộc với 3 đặc điểm chủ
yếu: tự do, khai minh và quân chủ, mà trụ cột là Chính thống giáo. Theo Pushkin,
nền khai minh đã đến Nga từ phương Tây, còn tự do là cái mà Nga cần phải tự
mình vươn tới. Pushkin chờ đợi điều ấy ở các lãnh tụ, ở đạo đức và trách nhiệm
của các bậc quân vương, ở sự quy thuận của họ trước Luật pháp tự nhiên (mà ơng
viết hoa) – nó vượt lên trên nhân dân và vượt lên cá nhân cầm quyền, như quy luật
vĩnh hằng. Trong bài tụng ca Tự do (1817), nhà thơ 18 tuổi đã nồng nhiệt ngợi ca
những gì mà tự do có thể đảm bảo, và, nhân danh tự do, kêu gọi sự quy thuận Luật
thiêng:
Xin tạc dạ hỡi bậc chúa vua:
Dù hình phạt quyền uy ngục tối
Dù tụng ca ban phát lộc ân
Sẽ không mãi là lá chắn vững bền
Chỉ tự do và cuộc sống bình yên
Là những kẻ muôn đời canh ngai báu.
D. Merezhkovski cho rằng những ham mê chính trị đối với Puskin chỉ là bề
ngồi. Những điều nhà thơ trẻ say sưa viết đầy tính chiến đấu là do cá tính sơi
nổi, niềm khao khát sống: “Thực ra, Pushkin bẩm sinh rất ít phẩm chất của
người chiến sĩ chính trị và nhà tun truyền. Ơng u q tự do như một bản tính

sẵn có của nội tâm cần thiết cho sự phát triển của tài năng. Hơn nữa, thời gian


bị thử thách trong đày ải, nhà thơ càng ý thức rõ mức độ tàn khốc do hậu quả
chống đối”(9). Phản đối các hình thức đấu tranh gây nên những chấn động xã hội,
năm 32 tuổi Pushkin khẳng định sự ôn hoà và thống nhất của các tầng lớp nhân
dân là cơ sở vững chắc cho tự do và nền khai minh, ông viết: “Sự ổn định là điều
kiện đầu tiên của phồn vinh xã hội”(10).
Từ tự do mà Pushkin hiểu khơng phải chỉ là xố bỏ những bất cơng xã hội,
tháo ách bóc lột, mà ơng quan tâm nhiều hơn đến tự do tinh thần, một trong những
biểu hiện của nó là sự an lạc của người dân trong những điều kiện nhân đạo. Trong
ghi chép Một chuyến du lịch từ Moskva đến Peterburg (1833 – 1834)(11), Pushkin
đã so sánh người công dân tự do Anh quốc với người nông nô Nga đương thời,
thấy rằng thực chất người nông nô Nga tự do hơn gấp nhiều lần người dân Anh.
Trong khi người lao động Anh bị đè nặng bởi thuế khoá, bị vắt kiệt sức lực trong
hầm xưởng, nhà máy, bị hạ nhục bởi thành kiến đẳng cấp, thì hình ảnh người nơng
nơ Nga tươi sáng hơn rất nhiều: “thuế khố vừa phải và hợp lí”, “lao dịch khơng
đến nỗi nặng lắm”, “sạch sẽ, lanh lợi và thoải mái”, “trong lời nói và hành vi
khơng có bóng dáng của sự hèn hạ nơ lệ”,… Tóm lại, “khơng thấy ở đâu trong
khắp châu Âu một tầng lớp dân chúng nào được tự do hành động hơn thế”. Đưa ra
sự đối chiếu mang tính tương phản ấy, Pushkin cho thấy tên gọi thể chế nhà nước
nhiều khi không quan trọng bằng thực chất nó đem lại mức độ tự do và phúc lợi
như thế nào cho dân chúng.



×