Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Chăm sóc giảm nhẹ bệnh nhân ung thư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.69 KB, 11 trang )

Chăm sóc giảm nhẹ Bệnh nhân ung thư
Gồm điều trị đau do ung thư và chăm sóc tâm lý cũng như chăm sóc một số
triệu chứng khác
1.

Điều trị đau do ung thư

Mục tiêu học tập:
1. Giúp học viên đánh giá được mức độ đau trong ung thư.
2. Biết chăm soc tâm lý bệnh nhân ung thư

Bệnh nhân ung thư cần được giảm đau ở tất cả các giai đoạn bệnh của họ. Có khoảng 1/3 số
bệnh nhân được điều trị ung thư có xuất hiện đau, ở các trường hợp này phương pháp điều trị
giảm đau và điều trị chống ung thư phải kết hợp chặt chẽ. Những bệnh nhân ở giai đoạn
muộn, hơn 2/3 trong số này có đau, và việc kiểm soát đau và các triệu chứng khác trở thành
mục đích chính của điều trị.
Điều trị tùy thuộc vào đáp ứng của từng cá thể với những phương pháp như : Điều trị bằng
thuốc, gây tê, phẫu thuật thần kinh, tâm lý học, cách cư xử phù hợp với nhu cầu của bệnh
nhân. Song tài liệu này chủ yếu tập trung vào điều trị bằng thuốc bởi vì trong lĩnh vực này đã
có sự hiểu biết đầy đủ và kinh nghiệm lâm sàng về phương hướng điều trị chung cho tất cả
bệnh nhân ung thư có đau.
- Các thử nghiệm đã cho thấy rằng thuốc có hiệu quả trong phần lớn bệnh nhân, nếu nó được
sử dụng chính xác : đúng thuốc, đúng liều vào đúng giai đoạn.

I. CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY ĐAU
Đau ở những bệnh ung thư có thể là do :
- Gây nên bởi chính bản thân ung thư (rất phổ biến). Bản thân ung thư gây đau do các cơ
chế :
+ Xâm lấn tới tổ chức mềm.
+ Thâm nhiễm tới nội tạng.
+ Thâm nhiễm tới xương.


+ Chèn ép thần kinh.


+ Tổn thương thần kinh.
+ Tăng áp lực nội sọ.
- Liên quan tới ung thư: ví dụ : co cơ, sưng nề bạch mạch, táo bón, viêm loét do nằm lâu).
- Liên quan tới điều trị ung thư : ví dụ : đau do sẹo mãn tính sau phẫu thuật, viêm niêm mạc
do điều trị bằng hóa chất.
- Gây ra bởi một rối loạn đồng thời: ví dụ : thối hóa cột sống, viêm xương khớp.
Nhiều bệnh nhân ung thư ở giai đoạn muộn, đau nhiều do sự phối hợp đồng thời nhiều
nguyên nhân trên.

II. ĐÁNH GIÁ VÀ PHÂN LOẠI ĐAU DO UNG THƯ
2.1. Đánh giá đau
Là một bước quan trọng có tính chất quyết định trong kiểm sốt đau do ung thư. Phải khám
tồn diện, cần tìm hiểu thêm có bệnh khác cùng đi kèm với ung thư hay không, phải đánh giá
chức năng gan thận, theo dõi ảnh hưởng của thuốc giảm đau lên sự hấp thu, chuyển hóa và
bài tiết. Phim X quang và CT-Scanner về các vùng liên quan và bộ xương cũng cần thiết để
so sánh với các kết quả khám trước đây để theo dõi diễn biến bệnh và dự đoán, tiên lượng
bệnh.
Tin vào lời kể của bệnh nhân về đau, dựa vào sự mô tả này để xác định kiểu đau và nguyên
nhân gây đau.
+ Đau ở nội tạng do mô mềm tổn thương, ví dụ : cơn đau gan và căng tức do các thùy
gan căng lớn.
+ Đau đột ngột, đau tăng lên khi vận động.
+ Đau thần kinh : do dây thần kinh bị tổn thương.
+ Các cơn đau ruột do kích thích hay tắt nghẽn.
+ Các cơn đau phải được đánh giá và chẩn đoán dựa vào đặc điểm của nó và
“PQRST”.
P. Yếu tố làm dịu hay gây đau: Điều gì làm dịu đau hay đau tăng lên.

Q. Tính chất cơn đau : Đau giống như gì, để bệnh nhân tự mô tả hoặc đưa một
số từ gợi ý như : nóng rát, tên bắn, dao đâm.


R. Hướng lan: Hướng lan là một đặc điểm thường gặp cho ta xác định hướng
nguồn gốc và loại đau.
S. Mức độ trầm trọng : Đau đến mức nào? Thường áp dụng thang điểm từ 0-10.
T. Thời gian xuất hiện : Đau liên tục hay khơng, ngun nhân gì làm đau xuất
hiện. Vài dạng đau liên quan đến vận động, hoặc liên quan đến ăn uống, hoạt động
ruột, tiểu tiện.
Mức độ cơn đau được xác định bằng bảng thang điểm sau :
Khơng đau
1

Đau vừa
2

3

Đau nhiều nhất
4

5

6

7

8


9

10

Bệnh nhân có thể quen dùng “8 phần 10” hay “5 phần 10” để mô tả cơn đau của họ sau khi
được hướng dẫn.
Trẻ em có thể dùng loại bảng điểm có hình ảnh dễ hiểu hơn.

III. PHÂN LOẠI ĐAU DO UNG THƯ
3.1. Đau do cảm giác
Là loại đau thường gặp nhất bắt đầu từ các thụ thể nhận cảm giác đau ở thần kinh ngoại biên
khi nó bị đè ép, căng, kéo hay bị kích thích bởi các chất trung gian hóa học như
prostaglandin phóng thích từ tổ chức viêm (thí dụ : một ung thư xâm lẫn vào mô mềm, u làm
căng thùy gan, phá hủy xương).
Đau do cảm giác thường chia thành các dạng như sau :
+ Đau nơng (ví dụ : trầy xước, sùi loét da, viêm sùi loét da niêm mạc).
+ Đau sâu : Đau xương, khớp.
+ Đau nội tạng : Ví dụ : bụng, tạng rỗng ...
3.2. Đau do thần kinh
Đau xuất phát từ chính các sợi thần kinh khi bị kích thích bởi đè ép hay gián đoạn ví dụ :
Ung thư xâm lấn vào đám rối thần kinh cánh tay.
Chẩn đoán bằng cách :


+ Tìm yếu tố bệnh lý có thể gây tổn thương hay kích thích các trục và sợi thần kinh.
+ Kiểm tra các triệu chứng của dây thần kinh : tê tay, thay đổi cảm giác, yếu cơ .v.v...
+ Điều trị bằng thuốc giảm đau thơng thường ít đáp ứng.
Hai dạng đau này đòi hỏi điều trị với các loại thuốc khác nhau. Đau do cảm giác luôn đáp
ứng với các thuốc giảm đau, bao gồm thuốc có nguồn gốc opioids. Đau thần kinh có thể
giảm đau một phần với thuốc và có nguồn gốc opioids và cần cho thêm các thuốc ổn định

màng tế bào thần kinh và thuốc có ảnh hưởng lên chất dẫn truyền (thí dụ : thuốc chống trầm
cảm và thuốc động kinh).

IV. CÁCH DÙNG THUỐC GIẢM ĐAU
4.1. Nguyên tắc dùng thuốc giảm đau
- Theo đường uống : Dùng đơn giản, dễ dàng nhất.
- Theo bậc thang : Bước đầu tiên là dùng thuốc khơng có Opioide, nếu đau khơng giảm thì
dùng Opioide nhẹ rồi đến mạnh (morphin).
- Theo giờ : Không chờ đến khi bệnh nhân đau một cách chính xác, nên cho thuốc giảm đau
đều đặn để liều kế tiếp có tác dụng trước khi cơn đau xảy ra.
- Theo từng cá thể : Khơng có liều chuẩn cho những thuốc Opioide, liều đúng là liều có tác
dụng giảm đau cho bệnh nhân.
- Nguyên tắc chung: Ngăn chặn đau tốt hơn là điều trị đau.
4.2. Bậc thang giảm đau
Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra khái niệm bậc thang giảm đau như là một cách khuyến khích
việc sử dụng thích hợp các Opioide giảm đau ở các quốc gia ít sử dụng loại thuốc này. Bảng
này nhấn mạnh trong các cơn đau dữ dội cần cho thuốc giảm đau mạnh (Thí dụ : các loại
thuốc Opioides) và không giới hạn liều tối đa. Liều hợp lý là liều mang lại hiệu quả giảm đau
mà khơng có rối loạn nào do tác dụng phụ của thuốc. Thuốc Opioides là một thuật ngữ dùng
để chỉ các “OPIATES” có nguồn gốc tự nhiên như Morphin và loại Narcotic tổng hợp như
Methadone.
BẬC III
Oxycodone

Đau tột bậc

Morphin, Pethidine,

BẬC II
NSAID’S


Đau dữ dội

Codeine, Tramadol,


BẬC I

Đau vừa phả

Paracetamol, Apirine, NSAID’S

4.3. Các thuốc giảm đau
- Điều trị cơn đau vừa phải: Aspirin và Paracetamol được dùng với liều đầy đủ để điều trị
(lên đến 1000 mg/4 giờ) có thể đi kèm với thuốc phiện nếu cần.
ASPIRIN là thuốc chống viêm giảm đau mạnh. Tuy nhiên PARACETAMOL thì ít gây kích
ứng hay lt dạ dày, giảm tiểu cầu và ù tai.
- Thường dùng :
+ Efferalgan codein (zandol) phối hợp với codein (30 mg codein + 500 mg
Paracetamol)
+ Codein photphate viên 30 mg là 1 loại thuốc phiện nhẹ, có tác dụng hiệp đồng giảm
đau cùng với Aspirin hay Paracetamol, dùng 60 mg/4-6 giờ, dễ gây bón.
+ Dextroroxyphene thường phối hợp với Paracetamol (Dextro Propoxyphene 30 mg +
paractamol 400 mg) được dùng cho cơn đau vừa phải, có tác dụng giảm đau tốt.
+ Tramadol : là loại opiod tổng hợp, có tác dụng giảm đau thần kinh trung ương, dùng
đường uống có hiệu quả, Tramadol mạnh gấp 2 lần codein viên 50 mg ít gây bón.
+ Thuốc kháng viêm khơng chứa Steroid (NSAID’S) có nhiều loại, trong chăm sóc
làm dịu thường sử dụng.
+ Ibuprofen 200 mg-400 mg ngày 3 lần.
+ Naproxen 250 mg-500 mg ngày 2 lần hoặc tọa dược 500 mg hay loại phóng thích

chậm 1000 mg.
+ Diclofenac 100 mg-150 mg ngày 3 lần.
+ Indomethacin 25 mg-50 mg ngày 3 lần.
Đây là các thuốc phụ trợ tốt để giảm đau kèm với giảm viêm, đặc biệt là đau liên quan đến
xương. Các thuốc Nsaid’s đều kích thích dạ dày. Do đó nên uống sau khi ăn và uống kèm các
thuốc kháng thụ thể H2 (thí dụ : Ranitidine 150 mg-2 lần/ngày hay trước khi ngủ) hoặc
Sucralfate 1g - 4 lần/ngày có thể bảo vệ niêm mạc dạ dày.
Loại Morphin phóng thích có kiểm sốt (Skennan), phóng thích Morphin từ từ trong một thời
gian dài và cho một nồng độ ổn định với liều lượng đều đặn. Skenan có liều 10 mg, 30 mg,
60 mg. Skenan LP 2lần/ngày uống hoặc bơm sonde dạ dày. Viên thuốc phóng thích chậm ít
gây nơn ói so với tiêm và kéo dài thời gian làm giảm đau suốt đêm. Thường cho 1 liều từ 812 giờ là an toàn. Hiện nay ở Việt Nam chưa có dạng Morphin Sirơ.


Trong trường hợp sử dụng các thuốc Opioids uống cũng khơng có tác dụng nữa, để điều trị
cơn đau một cách hiệu quả phải dùng Morphin tiêm. Với liều lượng nhỏ được tiêm 4 giờ/lần,
5-10 mg Morphin dưới da. Chuẩn bị đánh giá hiệu quả giảm đau mỗi khi tiêm và tăng dần
liều đến khi bệnh nhân hết đau. Tiếp theo sẽ chuyển thành bước điều trị giảm đau có liều
lượng kiểm sốt được do đã biết liều thuốc thích hợp.
Giả sử liều bắt đầu 5 mg, liều thứ hai 10 mg không giảm đau nhiều, nhưng với liều 15 mg
Morphin tiêm dưới da 4 giờ/1 lần, cơn đau được cắt.
Tổng số Morphin chích trong 24 giờ : 15 mg x 6 = 90 mg
Nếu dùng đường uống thì nhân cho 3 : 90 mg x 3 = 270 mg vì liều tiêm tác dụng gấp 3 lần
liều uống khi dùng lâu dài.
Dùng Morphin thường gây buồn nơn và bón nên kèm theo thuốc chống nôn (metoclopramide
10 mg) về chế độ ăn chống táo bón hoặc các loại thuốc nhuận trường như : Coloxyl với
Senna 2 viên tối, Oxid Magne 5g, ngày 2 lần.
Mê sảng hay hoang tưởng là một tác dụng phụ thường xảy ra khi cho Morphin nhưng nó sẽ
nhẹ đi khi giảm liều hoặc sau khi dùng 1 đến 2 ngày. Nếu vẫn cịn nghiêm trọng, có thể cho
Morphin dưới da liều thấp có thể làm giảm dấu hiệu này. Nên dùng phối hợp xen kẽ với các
thuốc khác như Tylenol hoặc Codein giữa các lần tiêm Morphin.

- Fentanyl : Fentanyl mạnh hơn Morphin gấp 50-100 lần. Fentanyl thấm qua da nên có thể
dùng dưới dạng dán. Loại Fentanyl dán này cung cấp 1 lượng thuốc chậm qua da kéo dài đến
3 ngày.
+ Về phương pháp giảm đau khác :
- Dùng Steroide : Corticosteroid có tác dụng làm giảm tạm thời các phản ứng quanh khối u,
giảm sưng và co kéo, do đó làm giảm đè ép các mô mềm quanh khối u. Bằng cách giảm phản
ứng viêm của khối u, giảm sản xuất Cytokines và Prosraglandins, các chất này kích thích các
mút tận cùng dây thần kinh cảm giác gây đau. Vì vậy, Steroid có giá trị đối với bất kỳ khối u
nào.
- Dexamethasone 4-16 mg/ngày uống 1 lần.
- Predmisolone 25-100 mg/ngày nên dùng vào buổi sáng.
Dexamethasone có tác dụng kháng viêm mạnh hơn so với Predmisolone, nó ít giữ muối và
tác dụng kéo dài hơn.
+ Xạ trị : Rất có giá trị để giảm đau ở các mô tổn thương tại chỗ do khối u gây ra.
+ Hóa trị liệu : Góp phần chính vào việc làm giảm đau nhờ tác dụng trực tiếp lên khối
u, làm giảm đau kích thước của khối u và phản ứng viêm chung quanh.


+ Thủ thuật gây liệt thần kinh : là biện pháp triệt để nhất đối với cơn đau dữ dội.
Trước hết là phong bế thần kinh tạm thời bằng gây tê tại chỗ. Sau đó nếu có chỉ định, một số
phương pháp như phẫu thuật cắt bỏ, chích Phenol hay Alcohol hay hủy thần kinh bằng
phương pháp đông khô được dùng.
2.

Chăm sóc tâm lý

"Khái niệm chăm sóc tâm lý" khơng phải chỉ bao hàm là quan tâm đến sự phiền muộn của những người
đang dần chết đi, mà còn bao hàm cả sự quan tâm đến diến biến tâm lý lúc biết mắc bệnh, trong quá trình
chữa bệnh và phục hồi sức khỏe sau điều trị.


Ngày nay bệnh nhân ung thư sống lâu hơn và được khỏe mạnh hơn so với trước kia.
"khái niệm chăm sóc tâm lý" khơng phải chỉ bao hàm là quan tâm đến sự phiền muộn của những người
đang dần chết đi, mà còn bao hàm cả sự quan tâm đến diến biến tâm lý lúc biết mắc bệnh, trong quá
trình chữa bệnh và phục hồi sức khỏe sau điều trị.
Nghiên cứu ở Hoa kỳ 1986 về tâm thần bệnh nhân Ung thư cho thấy 47% có triệu chứng cần thiết phải
điều chỉnh.
CÁC GIAI ĐOẠN TÂM LÝ.
1- Giai đoạn đi thăm khám bệnh : Nhiều bệnh nhân chỉ nghĩ đến ung thư, nhắc đến ung thư đã hoảng
hốt mất ăn, mất ngủ. Đọc sách báo tuyên truyền rồi vận vào những triệu chứng của mình thế là lo nghĩ
luẩn quẩn. Nhưng nhiều người chủ quan, mặc dù bệnh đã lở loét, di căn hạch mới bỏ cơng việc đi khám
bệnh thì đã q muộn rồi.
Trong những bối cảnh đó, thày thuốc phải hiệu chỉnh những phản ứng sai của bệnh nhân cho thích hợp.
1-1. Thái độ thích hợp :
Bệnh nhân tin tưởng vào thầy thuốc, vào cơ sở điều trị đến viện với lòng tự tin. Cần an ủi bệnh nhân
bằng niềm tin vào chuyên môn và nghề nghiệp : Có những xét nghiệm chính xác để phát hiện ung thư,
và có những biện pháp điều trị đặc hiệu.
1-2. Những thái độ không phù hợp.
1-2-1. Quan trọng hóa vấn đề : bệnh nhân trình bày những rối loạn đơn giản nhưng gán ghép cho là
ung thư.
1-2-2. Quá lo lắng : Các bệnh nhân cứ khăng khăng cho mình bị ung thư , mặc dù các khám nghiệm cho
thấy khơng có gì đáng ngại. Nếu nỗi lo đó kéo dài thành hoang tưởng bị bệnh cần đi khám tâm thần.
1-2-3. Chối bỏ sự thật : bệnh nhân ln chủ quan cho mình mạnh khỏe, nên ít đến bác sỹ thăm khám,
làm chậm chẩn đoán. Cần động viên họ, và đảm bảo với họ rằng sẽ có được chăm sóc y tế tốt nhất,
chẩn đốn chính xác và nhanh chóng, điều trị có tiên lượng tốt.
2- Giai đoạn chẩn đoán bệnh .
Khi chẩn đoán ung thư được xác lập, thầy thuốc phải thông báo cho bệnh nhân biết mình bị UT:


Lý tưởng nhất là bác sỹ gia đình, hoặc những bác sỹ đã quen xử sự với những tình huống này.
Việc thảo luận cần phải riêng tư, không vội vàng và nghiêm túc, ngõ hầu mang đến niềm hy vọng thực tế,

và đảm bảo cho bệnh nhân thấy thầy thuốc sẵn sàng luôn luôn bên cạnh anh ta hoặc chị ta.
Nếu có mặt người thân trong gia đình càng tốt, và thầy thuốc nên động viên họ. Thông tin cần được trình
bày tùy theo hiểu biết của bệnh nhân , và nếu cần thông báo từ từ chia ra nhiều lần thăm hỏi, tiếp xúc.
Hai lý do cần thông tin: 1) Quan hệ THầy thuốc – BN phải trên cơ sở thẳng thắn và trung thực. 2) BN biết
được tính nghiêm trọng của vấn đề sẽ hợp tác chữa bệnh tốt hơn.
Rất nên nhắc lại các thơng tin vì mối lo lắng hay làm lệch lạc hiểu biết và méo mó các thơng tin.
2-1. Các phản ứng hợp lý :
2-1-1. Chống váng/ mất lịng tin . Phản ứng này đơi khi nặng nề tới mức khơng thể nói được gì thêm
về kế hoạch điều trị. Thày thuốc lúc này phải có thái độ hỗ trợ và một buổi hẹn khác là cần thiết.
2-1-2. Chối bỏ sự thật : cũng là phản ứng bình thường khơng cần phải xác định thêm.
2-1-3. Tức giận. Bệnh nhân cần được động viên tránh các thái độ thù địch với thày thuốc, gia đình, bạn
bè, tôn giáo. Thầy thuốc tuyệt đối không được biểu hiện tức giận như là cuộc khiêu khích cá nhân.
2-1-4. Lo lắng : sự hỗ trợ về tình cảm, những bảo đảm về chăm sóc sẽ làm nhẹ đi, tạo ra mối lo lắng có
hiểu biết.
2-1-5. Thất vọng. Một nỗi thất vọng, đau buồn có thể xảy ra, nếu sự bi quan nặng nề cần được can
thiệp.
2-2. Các phản ứng không hợp lý.
2-2-1. Chối bỏ sự thật thái quá. Điều này ảnh hưởng tới điều trị cho bệnh nhân, cần thảo luận với bệnh
nhân, thầy thuốc tuyến cơ sở, nếu không ổn phải khám tâm thần.
2-2-2. Thất vọng và chán trường : nỗi thất vọng có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào sau khi chẩn đoán ung
thư . Các triệu chứng thần kinh thực vật (VD chán ăn, đoản hơi, mất ngủ) và các triệu chứng tâm thần
(VD : thất vọng, mất tập trung, hoang tưởng tội lỗi) cho thấy là nỗi thất vọng sâu sắc. Thêm nữa, bệnh
nhân có thể từ chối điều trị nếu anh ta nghĩ là không tránh được cái chết. Trong trường hợp này, tham
khảo chuyên khoa tâm thần sớm là cần thiết.
2-2-3. Đi tìm các điều tự thay thế. Việc dùng các phương pháp điều trị "Có thể khơng tác dụng nhưng
khơng gây đau đớn" phối hợp với điều trị chuẩn không nên phản đối. Tuy nhiên khi bệnh nhân ham muốn
khỏi bệnh nhanh, xa rời những điều trị đúng đắn, lạc hướng vào các thủ pháp lang băm cần được khám
tâm thần để hiệu chỉnh tâm lý.
3. Giai đoạn điều trị ban đầu. Mỗi hình thái điều trị ung thư đều mang tới những thách thức tâm lý riêng.
3-1. Phẫu thuật.

Hầu hết các bệnh nhân quan niệm : phẫu thuật là một phương pháp chữa khỏi tốt nhất. Tuy nhiên, do
tính chất xâm nhập, phẫu thuật làm cho bệnh nhân sợ hãi hoặc lo ngại.


3-1-1. Các phản ứng thích hợp.
3-1-1-1. Sợ hãi. Trước mổ bệnh nhân sợ đau và sợ tử vong. Mối lo mê không tỉnh hoặc tai biến thuốc.
Cần động viên bệnh nhân tránh cảm giác này bằng cách giải thích và an ủi.
3-1-1-2. Các phản ứng dằn vặt vì thay đổi hình dạng của cơ thể, nhất là ở một số vị trí bị phẫu thuật. VD :
cắt tuyến vú làm mất vẻ phụ nữ, kém hấp dẫn và mặc cảm. Tương tự , hậu môn nhân tạo, lỗ niệu quản
đổ ra da có thể ảnh hưởng đến tình trạng của cơ thể và hoạt động tình dục. Vì tính chất biểu lộ, những
phẫu thuật vùng đầu cổ có thể được cân nhắc nhiều. Những giải pháp thực tế sau phẫu thuật tàn phá
như tạo hình, bộ phận thay thế giả ... cần được thảo luận.
3-1-2. Những phản ứng khơng thích hợp.
3-1-2-1. Lẩn tránh. Một số bệnh nhân tạo ra mọi cớ trì hỗn, chối bỏ phẫu thuật vì q sợ. Cần có sự can
thiệp của bác sỹ tâm thần.
3-1-2-2. Tìm các điều trị thay thế : ở những bệnh nhân khơng được giải thích đầy đủ, mối lo thái q sẽ đi
tìm các điều trị thay thế phẫu thuật. Phẫu thuật viên và đội chăm sóc ung thư cần cảnh báo thái độ này, vì
có thể dễ dàng làm giảm sự lo lắng thái quá và tiến hành các chăm sóc phẫu thuật thuận lợi.
3-1-2-3. Thất vọng sau mổ. Các tình huống này rất thơng thường, nhất là khi phẫu thuật không mang lại
hiệu quả cụ thể. Biểu hiện nếu thái quá cần can thiệp tâm lý.
3-1-2-4. Phản ứng dằn vặt sau mổ kéo dài và nặng nề. Những phản ứng dằn vặt nặng nề có thể gây ra
các triệu chứng giống như nỗi thất vọng lớn lao đòi hỏi có những can thiệp về tâm thần.
3-2. Điều trị tia xạ. Các mục tiêu điều trị tia xạ (VD : mục đích triệt căn, tạm thời, hay kiểm sốt u tại chỗ),
cần phải được giải thích đầy đủ cho bệnh nhân .
3-2-1. Các phản ứng thích hợp.
3-2-1-1. Sợ máy móc và các tác dụng phụ.Mối lo sợ tia phóng xạ là thơng thường. Những lời giải thích về
ngun tắc cơ bản của điều trị tia xạ sẽ giúp sửa chữa được quan niệm sai lệch đó. Bàn bạc chi tiết về
các tác dụng phụ và các điều trị tác đụng phụ sẽ làm bệnh nhân hết sợ.
3-2-1-2. Sợ bị bỏ rơi. bệnh nhân khi sợ thầy thuốc gia đình hoặc cơ sở bỏ mặc "hết trách nhiệm" hoặc bị
bỏ rới giữa các cơng đoạn điều trị. Vì vậy việc tiếp xúc thường xuyên với thầy thuốc gia đình là cần thiết.

3-2-2. Các phản ứng khơng thích hợp. Nếu nỗi sợ tia xạ quá đáng, VD : ảo giác hoặc ảo tưởng, từ
chối điều trị cần gửi thăm khám giải quyết tâm lý.
3-3. Điều trị hóa chất. Hiện nay, nỗi sợ điều trị hóa chất, cùng với tác dụng phụ của nó cịn hơn cả nỗi sợ
ung thư . Những thơng tin chính xác rõ ràng về những cơng thức hóa trị liệu hiện đại sẽ xóa được những
câu chuyện khủng khiếp do việc dùng các thuốc Alkylant liều cao của thập kỷ 50 và 60.
3-3-1. Các phản ứng thích hợp.Lo lắng trước điều trị : các tác dụng phụ của hóa trị liệu tác động làm
bệnh nhân lo ngại và thất vọng . Các kỹ thuật thư giãn gồm thôi miên, ức chế sinh học, giãn cơ đều làm
tăng sự tham gia tích cực của bệnh nhân vào q trình điều trị. VD dùng 0,5 mg Iorazepam 3 lần/ ngày
làm giảm mức lo lắng và quên được những sự kiện khó chịu.Thay đổi hình ảnh của cơ thể. Mặc dù rụng
tóc là mối lo ngại lớn, việc chuẩn bị bệnh nhân cẩn thận gồm việc mang tóc giả, trang điểm, săn sóc da
đã làm giảm đáng kể tác động rụng tóc.Chủ nghĩa vị tha. Việc hiến các cơ quan VD : cho tủy xương (theo
nguyện vọng) cần được khuyến khích và tán thành vì nó ni dưỡng những tình cảm tốt đẹp mà một số
lợi ích có thể phát sinh từ tình huống khó khăn.


3-3-2. Những phản ứng khơng thích hợp.+ Cuồng nộ/ hội chứng não thực thể. Một số thuốc hóa chất,
hoặc thuốc phối hợp gây mất định hướng, ảo giác, hoặc ảo tưởng. Hội chứng não thực thể do thầy thuốc
có thể biểu hiện ở các hoàn cảnh khác như : nhiễm trùng, sốt. Các biện pháp hỗ trợ (an ủi và giải thích
đầy đủ cho bệnh nhân điều gì sẽ xảy ra) giảm liều, trung hòa bằng thuốc đối vận, và các thuốc tâm thần
(VD : 1mg haldol) có thể chỉ dùng tùy theo mức nặng của triệu chứng. nên khám bệnh về tâm thần kinh.+
Các rối loạn về tâm lý do cách ly nhiều bệnh nhân giảm bạch cầu phải ở trong môi trường cách ly. Thiếu
vắng sự tiếp xúc thể xác có thể dẫn đến cảm giác cơ đơn, âu sầu, thậm chí rối loạn tâm thần. Những nhu
cầu tình cảm hỗ trợ cho bệnh nhân ung thư trong hoàn cảnh cách ly như vậy cần phải xem xét để thỏa
mãn, nếu cần phải hỏi ý kiến các nhà tâm thần học.
4. Tái phát. Tác động tâm lý khi ung thư tái phát cũng tương tự như lúc chẩn đốn ban đầu. Tuy nhiên
tình hình phức tạp hơn do nguy cơ thất bại cao hơn. Cần phải thảo luận các mục tiêu điều trị, và có thể
duy trì được niềm hy vọng thực tế. Thầy thuốc cần biết rằng : với từng cơng đoạn điều trị, bệnh nhân có
phản ứng khác nhau, và có thể càng ngày càng khó khăn hơn. Bệnh nhân có thể chịu đựng lần thứ nhất,
thứ hai, thứ ba, nhưng ln đột xuất địi hỏi có sự hỗ trợ chun mơn.
5. Giai đoạn cuối. Hầu hết các bệnh nhân ý thức được tiến trình bất khả kháng của bệnh tật ở giai đoạn

cuối, dù có được giải thích hay khơng. Một số nỗi sợ hãi và mối quan tâm đặc biệt có thể phải gửi đi
khám tâm thần và điều trị tâm thần hỗ trợ. Thuốc chữa tâm thần cần phải chỉ định đúng lúc.
5-1. Sợ bị bỏ rơi . Thông thường bệnh nhân hay lo lắng ung thư ở giai đoạn muộn họ sẽ không được
quan tâm đặc biệt của các nhân viên y tế. Các nghiên cứu cũng cho thấy nhân viên y tế thường dành ít
thời gian cho các bệnh nhân ở giai đoạn cuối. Cần đảm bảo cho bệnh nhân thấy thầy thuốc và đội ngũ y
tế vẫn tiếp tục chăm sóc. Khi bệnh nhân gần chết thái độ tích cực và hỗ trợ của thầy thuốc làm giảm nhẹ
nỗi đau buồn của bệnh nhân và gia đình
5-2. Lo lắng biến dạng cơ thể và mất phẩm giá.Những tác động về tinh thần và thể xác của người
đang hấp hối gây ra nhiều mối lo lắng khác nhau. Dù rằng ung thư và việc điều trị ung thư có thể là nhân
đạo, nhưng cũng cần nhớ rằng : người ta vẫn có quyền chết "Vinh hiển" (nhất là bệnh nhân đã hôn mê).
5-3. Sợ đau. ở giai đoạn cuối của điều trị, thuốc giảm đau thích hợp là tối thượng. Một số thầy thuốc
không quan tâm đến chữa đau, lầm lẫn, lo lắng quen thuốc phiện như là nghiện hút thường khác.
5-4. Sợ bỏ dở cơng việc hồn thành. Mối quan tâm này gồm cả những vấn đề thực tế và tâm lý. Nó
thay đổi theo giai đoạn trưởng thành. VD, người cha, người mẹ trẻ lo con thơ dại, trong khi đó một số
bệnh nhân lo tới những vấn đề gia đình, kinh tế chưa giải quyết xong.
Các nguồn lực hỗ trợ bệnh nhân ung thư
Khi thầy thuốc nhận trách nhiệm giúp bệnh nhân ung thư đấu tranh giữa cái sống và cái chết một số
nguồn lực sau đây cần chú ý khai thác.
1- Các nhóm hỗ trợ. Các nhóm người này, chủ yếu là những bệnh nhân ung thư đã chữa xong để giúp
cho nhóm bệnh nhân mới được chẩn đoán.
2- Các bệnh nhân ung thư khác. Những bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật ung thư là nguồn động viên
tâm lý rất tốt, đặc biệt cho một số phẫu thuật đặc biệt : mở thông đại tràng, cắt thanh quản, cắt tuyến vú.
Qua sự tồn tại cuộc sống và hoạt động chức năng bình thường, những nhân chứng sống đó mang lại
nhiều niềm hy vọng cho các bệnh nhân đang điều trị.
3- Y tá ung thư . Họ là nguồn lực vô giá cho thầy thuốc và bệnh nhân , đặc biệt trong các tổ chức tâm lý
cộng đồng.


4- Nhân viên xã hội y tế là nguồn lực tuyệt vời, nhưng thường ít được sử dụng, họ là cầu nối giữa nhân
viên y tế và nhóm hỗ trợ dựa vào cộng đồng.

5- Mục sư : rất có ích cho bệnh nhân và gia đình.
6- Dịch vụ cơng cộng. Hội ung thư, hội phục hồi chức năng, hội lựa chọn cuộc sống ... đặc biệt cần thiết
cho những bệnh nhân ung thư khó khăn hoặc ở giai đoạn muộn.
4 NGUYÊN TẮC CHĂM SÓC BỆNH NHÂN UNG THƯ
1- Dành cho bệnh nhân thời gian và không gian để họ và thân nhân trình bày cảm xúc, đặt các câu hỏi về
quá trình bệnh tật.
2- Đảm bảo cho bệnh nhân rằng : họ khơng bị bỏ rơi và những chăm sóc y tế tốt nhất gồm cả việc giảm
đau do ung thư được phục vụ đầy đủ.
3- Cho bệnh nhân và thân nhân tham gia các quyết định ở mọi giai đoạn, gồm cả việc lập kế hoạch điều
trị.
4- Dùng các nguồn lực có sẵn để mang lại hỗ trợ tình cảm cho bệnh nhân , thân nhân và thầy thuốc.

Tài liệu tham khảo:
1.
Bộ Y tế, Bệnh viện K, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị, nhà xuất bản Y học 1999,
trang 15-37.
2.

Đại học Y Hà Nội, Bài giảng ung thư học, nhà xuất bản Y học 1999, trang 65-80.

3.

JIM CASSIDY, Oxford Handbook of Oncology 2002, Pages 83-189.

4.

Vincent T. DeVita, Principles & Practice of Oncology 2001, Pages 236-296.

5.


UICC, Ung thư học lâm sàng 1995, trang 225-317.



×