Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Giáo trình Xã hội học gia đình: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.89 MB, 163 trang )


M A I H U Y B ÍC H

GIÁO TRÌNH

XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH




NHẢ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


MỤC LỤC




Lời giới th iệu ............................................................................................................. 5
Phần I: XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH
Lời nói d ấ u ...................................................................................................................7
Chưcmg ỉ. Định nghĩa gia đ ì n h .............................................................................12

Chương //. Quan điểm xả hội học végia đình....... ................................... . 15
Chươnạ III. Sự đ a dạng của các hình thái gia (Jìn h .........................................22
Gia đinh hạt n hân............................................................................................. 23
Gia đình mờ rộ n g ............................................................................................. 25
Gia đình g ố c...................................................................................................... 25
Gia đình phụ h ệ ............................................ t.................................................26
Gia đình mẫu h ệ ............................................................................................... 26
Gia đình lưỡng hệ.......................... ..................................................................26


Gia đình phụ quyền..........................................................................................27
Gia đình mẫu quyền.........................................................................................27
Gia đình ở nhà ch ồ n g ...................................................................................... 27
Gia đình ở nhà v ợ ............................................................................................. 43
Gia đình ở nơi m ớ i...........................................................................................44
Gia đình đơn hơn.............................................................................................. 45
Gia đình đa h ơ n ................................................................................................ 45
Gia đình tái hơn..................... ...........................................................................47
Nội hơn và gia đình thuần nhất
với ngoại hơn và gia đình khơng thuần nhất............................................... 49
Gia đình ít con và gia đình đơng c o n ........................................................... 50
Chương ỈV. Hơn nhân và gia đình theo quan điểm giới.................................53
1. Phân công lao động gia đ ình ......................................................................58
a) Coi nấu nướng là công việc của phụ n ữ ........................................ 60
b) Quan hộ quyén lực giữa hai giới trong nấu ả n ............................. 61
2. Ra các quyết định gia đ ì n h ........................................................................ 61
3. Bạo lực trong quan hộ vợ chồng................................................................62
Chương V. Đườno đời và sự phát triển, biến đổi của cia đình theo
đường địi .. . .. . ..... . .... ....... . . .
......... 71
1. Giai đoạn thành lậ p .....................................................................................74
a) Các lý thuyết vé cá n h â n ..................................................................... 75
b) Các lý thuyết văn hoá xã h ộ i ..............................................................76
3


2. Giai đoạn mở r ộ n g .................................................................................... 86
3. Ly h ô n ......................................................................................................... 90
a) Ly hỏn là một quá trìn h .................................................................... 95
b) Tác động cùa lv hỏn đến con c á i ...................................................100

4. Giai đoạn chia t á c h ................................................................................ 103
5. Giai doạn tan rã ........................................................................................ 105
Chương Vỉ. Biến đổi gia đ ìn h ............................................................................108
I. Sự hiến đổi gia dinh ờ một số xã hội phương Tây (Anh và Mỹ)
nửa sau thế kỷ X X .................................................................................. 110
1) Quan hệ gia đình mở rộng đã biến dổi như thô nào....................110
2) Vể quan hệ giới trong gia dinh
dưới tác động cùa cône nghiệp h o á ............................................... 111
3) Một vài dặc diêm về gia dinh phương Tàyhiện đại....................116
II. Biến dổi gia đình ờ Việt Nam
qua ví dụ người Kinh ờ Đồng bans sông Hổng trong những
n á m 1945-1992.......... .......... .......7.... 7......r.......121

Chươrig VII Các cách tiếp cận ỉý thuyết vé gia dinh................................ 131
1. Cách tiếp cận chức năng cấu trúc..........................................................133
a) George M urdock............................................................................... 134
b) Talcott Parsons...................................................................................135
2. Cách tiếp cẠn xung đột............................................................................138
3. Cách tiếp cận theo thuyết tương tác biểu trưng..................................140
4. Thuyết trao dổi xã hội và lựa chọn hợp lý............................................141
5. Cách tiếp cận phát triển (đường đời).................................................... 145
6. Cách tiếp cận theo thuyết kiến tạo xã h ộ i ...........................................145
7. Thuyết nữ quyển phưctng T â y ............................................................... 147
8. Cách tiếp cân mácxít (ờ phưưng T â y ).................................................. 151
Sách báo trích d ả n ....................................................................................... 154
Tài liệu cẩn đ ọ c.............................................................................................163
Tài liộu gợi ý đọc th e m ............................................................................... 163
-

4


Phần II: MỘT s ố CHỦ ĐỂ GIA ĐÌNH HIỆN NAY
Nâng cao tính khoa học cùa nghiên cứu gia đình..............................164
VỔ một cách nhận diện gia đình Việt N a m ........................................175
Nơi cư trú sau hôn nhân của người Việt ừ đổng bằng sổngI lồ n g ..... 184
Vài nhẠn xét về vai trị chăm sóc và dạy dỗ của người c h a ............ 204
Gắn lý thuyết với thực nghiệm: trường hợp nghiên cứu vồ ly h ô n ...... 223
Một hình thái gia dinh mới ờ Thụy Điển và mấy vãn để đặt ra
cho xã hội học gia d i n h .........................................................................234
Góp phần tìm hiểu người nỏns dàn Việt Nam thời kỳ dổi mới
kinh tố xã h ộ i...........................................................................................250


LỜI GIỚI THIỆU
Cuốn sách náy gồm có hai phấn. Phần I (Xã hội học gia dinh) nguyên la
giáo trinh môn Xã hội học gia đỉnh, được Nhà xuất bản Khoa học Xã hỏi ấn

hành năm 2003, và dâ qua chỉnh lý, cập nhật va bổ sung cho lần xuất bản
năm 2009 này. Phần II (Một số chủ đé gia đình hiện nay) gồm những bài
nghiên cứu viết vé chủ đé gia đinh đăng trèn nhiễu tạp chí khoa học khác
nhau, và được tập hợp lám bài đọc đi kèm theo giáo trình.
Đối với tơi, với tư cách tác giả, thì ý tưởng kết hợp hai phần thành một
cuốn sách đã đến thật tinh cờ, và lá theo gợi ý của một người bạn. Tuy
nhiên, sau khi suy nghĩ, tôi thấy sự kết hợp này không hẳn là một ngoại lệ
như lúc đầu tơi tưởng, vì trong nghiên cứu vă dáo tạo cùa xã hội học thế giới,
người ta thưởng xuất bản tuyển tập các bài dọc (reader) di kém theo giảo
trinh (textbook). Dù vậy, đúng hơn, độc giả nên coi phần II la tập hợp các bai
viết của tác giả vé gia đình để có thể theo dõi liến mạch mà thơi. Nói cách
khác, phẩn II là một nỏ lực nhằm kết hợp giáo trinh với tập hợp các bài đọc,
chứ chưa thực sự là một tuyển tập những tài liệu dọc.

Sự kết hợp hai phần thành một này đòi hỏi tác giả phái có lời lý giải
như sau.
Có nhiểu mục đích cho việc đưa các bài đọc vào. Thử nhắt là cung cấp
cho độc giả là sinh viên, học vièn và nghiên cứu sinh những ý niệm cụ thể và
minh họa sống động rằng những diều mà họ đọc và học ở trong giáo trinh
được nhà xã hội học triển khai vá tiến hành trong nghiên cứu vé một chú đé
cụ thể như thê' nào, và cách sử dụng các khái niệm, lý thuyết và phương
pháp ra sao. Thứ hai, tuy bần vể những chủ đé cụ thể khác nhau, song các
bài đọc đếu chung một mạch cảm hứng của tư duy phê phán (một điéu hết
sức quan trọng trong nghiên cứu), và tác giả mong muốn truyén nó đến độc
giả đổng thời là người học. Tư duy phê phán ở đây khơng mang nghĩa lả chỉ
trích, phê bỉnh người khác, mà là xu thế không dễ dãi chấp nhận những tn
thức mới thu nhận được, hay sẵn cố. Chúng ta chỉ tin váo nó sau khi đã phân
tích, kiểm chứng kỹ càng. Nói cách khác, tư duy phê phán là tinh thắn chủ
tâm suy xét cẩn trọng xem có nên chấp thuận, bác bỏ hay chưa vội nhận
định vé một tuyên bò' nào đấy trong học thuật, chừng nào chúng ta chưa
kiểm định được nó dưới góc độ lôgic hay vé mặt thực nghiệm. Nhà nghiên


cứu xã hội học nói chung rất cần tư duy phê phán, song người tìm hiểu vé
gia đình càng cần tạo dựng và rèn luyện tư duy náy, vỉ đây tả lĩnh vực mà
mỗi cá nhân déu có hiểu biết sống động trực tiếp của mình, do đó coi minh
là chuyên gia. Theo nghĩa ấy, các bài đọc ở đây sẽ góp phần lám việc đó.
Do yêu cắu cập nhật kết quả nghiên cứu mới vào giảng dạy, kết hợp
giảng dạy với nghiên cứu, nên tác giả đã đưa. vào phần I nhiéu kết quà
nghiên cứu của mình. Bởi vậy, khi gộp hai phán thành một cuốn sách “hai
trong một", ở vâi chỗ trong cuốn sách nảy, sự trùng lặp lá không tránh khỏi.
Tuy nhiên, mỗi bài viết riêng lẻ có mục tiêu riêng vả khác với giáo trình,
nên có nhiéu điéu không thể đưa hết vào giáo trinh mà chỉ có thể đặt ở bài
viết. Mặt khác, giáo trinh thì khơng thể dành quả nhiéu chỗ cho một chủ đé

nào đó để đảm bảo sự cân bằng tương đối với các chủ đé khác. Nghĩa lả ở
các bài viết cịn có nhiéu điéu hơn là những gì được đưa vào giáo trình. Bởi
vạy, trong cuổn sách khơng xảy ra tình trạng trùng lặp hồn tồn giữa hai
phắn. Hơn nữa, trùng lặp hay khơng cỏn phụ thuộc vào mục đích và cách
đọc. Độc giả nào quan tâm đến một chủ đé nào đó có thể tìm đọc bài viết ở
phần II để theo dõi đầy đủ và toàn mạch vé nó; cịn những độc giả muốn
nắm bắt một số luận điểm chính của nó thi có thể theo dõi chỉ qua phần I.

Tác íỉiii


Phần I

XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH
Lời nói đẩu
"Gần đây trong xã hội rất nhiều người bàn bạc vế vấn dé gia đình, ở
nơng thơn vấn dẽ gia đinh, họ hàng nổi lên khá rầm rộ [...] nhiéu chương
trình nghiên cứu trong nước và hợp lác quốc tế [...] cũng thường gặp nhau ở
một điểm chung là gia đình" - đó là nhận xét xác dáng của một cố học già
đáng kính (Trần Đình Hưựu, 1996:49). Hồn tồn khơng phải ngẫu nhiên
gia đình thu hút được nhiều quan tâm, và việc nghiẻn cứu gia đình hiện đang
trờ nên sơi động. Điểu này có nhiều lý do sâu xa.

Thứ nhất, theo truyền thống, gia đình vẫn được coi là một trong những
thể chế then chốt cùa xã hội Việt Nam. Gần như mọi người trong độ tuổi kết
hôn đều lấy vợ lấy chổng, hoặc mong muốn như vậy. Theo dữ liệu cuộc điều
tra gia đình Viột Nam năm 2006, trong số những người từ 15 tuổi trờ lên, thì
60,4% hiện đang có vợ có chồng, cịn 31,6% chưa từng kết hơn (nhưng con
số này chủ yếu ờ nhóm 15-19 tuổi, và càng ở nhóm tuổi cao hơn, tỉ lệ chưa
có vợ có chổng càng thấp). Điổu đó cho thấy, kết hơn là phổ biến ở Việt

Nam (Bộ Văn hoá, Thổ thao và Du lịch, Tổng cục Thống kơ, Viện Gia đình
và Giới, Quỹ Nhi dồng Liên hợp quốc, 2008:34). Gia đình thịa mãn hầu như
mọi nhu cầũ cơ bản cùa con người từ khi lọt lịng đến khi nhắm mất xi
tay. Sự gắn bó với gia đình khàng khít đến nỗi mọi thứ đéu đứng sau gia
đình (Đào Duy Anh, 1938/1992:364; Woodside, 1976:28). Theo lời một nhà
nghiên cứu góc Viột, đặc điểm cơ bản của Việt Nam là ành hường nổi trội
cùa gia đình trơn tất cả mọi lĩnh vực: tơn giáo, văn hóa và xã hội (trích theo
Le Thi Que, 1986:3).
Thứ hai, nứa sau thế kỷ XX chứng kiến những biến đổi sâu sắc và lớn
lao của gia đình Việt Nam. Sự biến đổi đó là kết quả cùa nhiẻu nhân tố,
trước hết do những chương trình cải cách kinh tế xã hội mà Đàng và Nhà
nước tiến hành ban đầu ở mién Bấc, sau đó trên phạm vi tồn quốc. Nhưng
quan trọng hơn, xuất phát từ quan niệm mácxít về gia đình, vào cuối những
năm 1950, Đảng Cộng sản Viột Nam đã đề ra và thực hiện nhiểu chính sách
và biên pháp nhằm thay đổi gia đình một cách triệt để. Nịng cốt của quan
niệm mácxít cho rằng mọi vấn để của đời sống gia đình hiện tại bắt rễ từ sự
sờ hữu tư nhân vé tài sản, vì thế cẩn xóa bị chế độ tư hữu. Một khi đã làm
được điều đó, những vấn đé gia đình khơng cịn cơ sờ để tổn tại nữa. Hình
thái kinh tế xã hội mới đẻ ra gia đinh mới, phù hợp với nó. Mượn lời một
7


nhàn vật trong cuòn tiểu thuyết "Mùa lá rụng trong vườn" cùa Ma Vãn
Kháng (xuất bản nãm 1985, và được chuyển thể lên màn ánh nhỏ chiếu trên
VTV lần đẩu vào tháng 3/2001), đã có một thời, chúng ta nghĩ ràng các quan hệ
cha con, vợ chổng và anh chị em khơng cịn vàn đổ gì cần bàn bạc nữa. Nhưng
thực ra. kủ từ công cuộc đổi mới và chuyển sang nền kinh tê' thị trường, nhiều
người nhận ra tẩm quan trọng ngày càng tăng cùa gia dinh và sự cần thiết của
việc bảo vệ, cùng cố nó, và muốn vậy, trước hết cần tìm hiểu nó.
Nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu tìm hiểu xã hội học gia đình, cuốn

sách này được viết ra với tư cách là tài liệu giảng dạy cho sinh viên, học viên
cao học tại các trường đại học và Viện Xã hội học, Hà Nội. Cuốn sách
khòng tham vọng đưa ra một tổng quan bao qt rộng vé gia đình. Mục đích
của tài li(Ịu giảng dạy này là trang bị cách nhìn nhận dối lượng, cách tiẽp cận
gia đình theo nhãn quan xã hội học. chứ không cung cấp mọi hiểu biết vé xã
hội học gia đình. Người học được khun khích sứ dụng tri thức và cách liếp
cận ờ đây đè’ tìm đọc rộng ra nhằm rèn luyện kỹ năng và cách nhìn, cũng
như mờ mang hiểu biết. Cao hơn nữa. họ nón dùng các lý thuyết được giới
thiệu ờ dây de tìm hiểu kỹ và sâu về chúng, rồi kiểm nghiệm trong nhìrng
khảo sát thực nghiệm trong tương lai của mình.
Cuốn sách cố gáng kết hợp chặt chẽ tư duy iý thuyết với nghiên cứu
thực nghiệm trong xã hội học gia đình. Về lý thuyết, thay vì trình bày một và
chỉ một lý thuyết duy nhất đúng (như cách làm quen thuộc cụa nhiều giáo
trình và sách tham khảo ờ nước ta), cuôn sách đưa ra nhiều cách xem xéi, lý
giải và cắt nghĩa khác nhau, thậm chí địi lập nhau vé cùng một chù đề.
Những cách tiếp cận nổi tiếng, và với thời gian, dã (rớ thành cổ điển được
giới thiệu cùng những cách tiếp cận xuất hiện gần dây (ví dụ cách tiếp cận
đường đời, quan điểm giới, cách tiếp cận kiến tạo xã hội, V.V.). Những khái
niệm mới được giới thiệu và sừ dụng thay thế khái niệm cũ đã lỗi thời (như
"gia đình cha mẹ đơn thân" thay cho "gia đình khơng đầy đù", "đườns đời"
thay "chu trình sống", V.V.). Mỗi lý thuyết trong xã hội học gia dinh thường
được nôu rõ tôn và tác giả, nội dung chính của nó được tóm tắt; đồng thời
cuốn sách cũng phân tích nhũng điểm mạnh và điểm yếu. những đánli giá ca
ngợi và cả những phê phán nó từ các góc độ khác nhau. Việc này là để giúp
người dọc làm quen và rèn luyện kỹ năng phân tích, đánh giá một lý thu\êì.
và tránh quan niệm sai lộch mà tác giả cuốn sách này từng có dịp bàn đến
(Mai Huy Bích, 2 0 0 lb) rằng áp dụng lý thuyết trong nghiên cứu chỉ có
nghĩa là đổng ý với nó.
Về thực nghiệm, người viết cuốn sách cũng cỏ gắng theo sát nhũng
thành tựu nghicn cứu gần đây để cập nhật các kết quà ỡ cả Việt Nam lẫn íT:ột


8


số nước trẽn thế giới. Tuy nhiên, do người viết chi có khả năng tiếp cận kẽt
quà nghiên cứu của vài ba quốc gia nói tiêng Anh thuộc khối Anglo-Saxons,
cịn các nơi khác - thì qua sách báo tiếng Anh. liên phạm vi bao quái dữ liệu
nước ngoài chưa thật sự đáp ứng được yêu cáu da dạng. Riêng dối với Viội
Nam. từ hơn 50 tộc người sinh sông trẽn lãnh (hố nước ta (dựa trên cách
phân chia chính thức hiện hành), theo sự phân công lao động dược ngẩm
thừa nhận trong khoa học xã hội chúng ta, thì xã hội học tập trung vào người
Kinh, còn các tộc người khác là đối tượng nghiên cứu chù yếu cùa dàn tộc
học - nhân học. Do khả năng bao quát có hạn cùa người viết, cuốn sách này
sẽ chỉ xét gia đình người Kinh qua ví dụ vùng Đống bằng sơng Hổng. Trong
khi khoanh vùng tìm hiểu gia dinh chỉ ở địa bàn và tộc người này, người viết
đé nghị độc giả ncn ln nhớ rằng các mẫu hình gia dinh trên lãnh thổ Việt
Nam vừa có nhũng nét chung nhất định vừa rất đa dạng. Theo nghĩa dó. gia
dinh người Kinh ờ các địa bàn khác, cũng như gia đình các tộc ít người cùa
Việt Nam - có thổ khác với mầu hình đề cập ờ dây - khơng dược bao quát
trong cuốn sách này. Ngay trong nội bộ người Kinh ớ dịa hàn nói trên, gia
đình bên giáo (Thicn Chúa giáo) có nét khác với gia dinh bên Lương (Mai
Huy Bích. 1995). Tuy nhiên, hy vọna của người viết là việc kết hợp dữ liệu
thực Iighiệm về mẫu hình gia dinh từ khống phái chi ờ một nước, một nén
Víìn hóa sẽ phần nào giúp độc giả có m ột cái nhìn xun văn hóa.

Nhằm cố gắng cập nhật dữ liệu thực nghiộm về đời sống gia dinh ở Việt
Nam cũng như một số nước irỏn thê' giới, cuốn sách sử dụng rộng rãi các
sách và tạp chí nghiên cứu mang tính chất hàn lâm viện, và ngồi ra, cịn
dùng cả báo chí thơng thường. Đây là cách khai thác dữ liệu dã được nhiều
nhà xã hội học chấp thuận. Nó dược vận dụng rộng rãi khịng chi trong kháo

cứu của họ, mà cả ở các giáo trình, nhất là khi đề cập đốn những chủ đề mà
giới hàn lâm viện chậm và kém thế hơn báo chí. Khi đó, lất nhiên, người sứ
dụng nên ln ý thức được những đặc điểm và khác biệt giữa sách báo thõng
thường với nghiổn cứu khoa học.
Cách trích dẫn và chú thích sách báo trích dẫn trong cuốn sách này
khơng theo những quy ước thông dụng bấy lâu nay của Việt Nam, mà chù
yếu áp dụng các quy tắc của Hội Xã hội học quốc tế (ngun là hệ thơng có
tên gọi Harvard và hiện dang được chấp thuận làm chuẩn trên Tạp chí
International Socioloẹv của Hội). Những quy chuẩn này có lẽ cịn xa lạ với
đơng đào bạn đọc trong nước, nhưng người viết mạnh dạn giới thiệu đẽ độc
giả làm quen: nếu chúng ta muốn hội nhẠp với công đồng nghe nghiệp quỏc
tố, thì khơng thổ khơng tiếp thu các quy chuẩn ấy. Hơn thế nữa, đày là ycu
cầu bắt buộc dối với luận án và các nghiên cứu của giới xã hội học nhiều
nước. Không chỉ học viên cao học, nghiên cứu sinh mà cà mọi nhà nghicn
cứu xã hội học ờ những nước này dcu cần tuân thủ những quy chuẩn dó.

9


v ề cơ cấu, sách bao gồm bảy chương, mỗi chương trình bày một chù đé
riêng và tương đối độc lập với nhau, đồng thời các chương đểu tuân theo một
logic chung. Chương I bàn về những khó khăn và vấn đề trong những nỗ lực
đưa ra một định nghĩa chung và có thể áp dụng mọi nơi, mọi lúc ve gia dinh
ở các nén văn hóa, các xã hội, hay thậm chí các nhóm trong cùng một xã hội
(mà nguyên nhân cơ bản là gia đình rất đa dạng và khá linh động). Trong
hoàn cảnh ấy, điều dẻ được chấp nhận hơn cả là xác định gia đình theo hồn
cảnh cụ thể. Tiếp đó, chương II nêu lên những nét chính trong cách xã hội
học tiếp cận gia đình, hay nhãn quan xã hội học về gia đình. Điểu này nhằm
giúp nhà nghiên cứu tránh khỏi xu hướng cùa tri thức thịng thường và của
những người khơng làm xã hội học là coi gia đình hoặc mang tính riêng tư,

chứ không chịu sự chi phối của các nhân tố văn hóa xã hội, hoặc chủ yếu bị
ảnh hường của các q trình tự nhiên (thỏa mãn nhu cầu tính dục, thụ thai,
thai nghén, sinh đẻ, cho con bú. V.V.).
Chương III trình bày cơ cấu gia đình, nghĩa là những thành viên nào cấu
thành gia đình, quan hộ qua lại giữa các thành viên dưới nhiều góc độ khác
nhau. Điểm nổi bật khi xét cơ cấu gia đình là dù nhìn từ góc độ nào. các
hình thái của gia đình đều rất đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ.
Chương IV dành riêng xem xét cơ cấu gia đình dưới một góc độ mới và
hiện đang trở thành thời sự là quan hệ giới. Đây là một cố gắng tiếp thu và
vận dụng những thành tựu lý luận và thực nghiệm mới trên thế giới và ơ Việt
Nam vào một lĩnh vực tương đối nhạy cảm và nhiều vấn đề - do tình ưạng
phổ biến mà một số nhà nghiỏn cứu gọi là "mù giới". Yôu cầu đặi ra trong
chương này là nêu lên và phân tích quan hệ giới trong gia đình, trước hết à
chủ yếu ở quan hộ vợ chồng, cả những yếu tố tích cực lẫn tiêu cực cùa nổ.
Nếu như các chương III và IV mổ xẻ và phân tích cơ cấu gia đình trong
một thời điểm nào đó, và theo một nghĩa nhất định, xét nó ờ trạng thái tương
đối tĩnh, thì chương V vận dụng một cách tiếp cận khác. Đó là cách tiếp cân
đường dời, nghĩa là khảo sát sự diễn biến, tiến hóa và thay đổi của gia đình
theo thời gian. Quan điểm động này đặt gia dinh trên trục thời gian, theo quá
trình chung sống cùa các thành viên, nhằm nêu ra sự vận động của gia đình,
và là sự bổ sung cho quan điểm tĩnh của cách tiếp cận cấu trúc.
Cũng liền mạch đó, chương VI đề cập đến sự biến đổi gia đình. Nhưr;g
khác với chương V. chương này gắn sự thay đổi của gia dinh khơng phải vói
đường đời các thành viên cá nhân, mà với những biến đổi kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội rộng lớn. Nói cách khác, trong khi chương V xem xét íự
vận động, thay đổi của gia đình ở cấp độ vi mơ, thì chương VI - ớ sự gàn lién
các cấp độ vi mô với vĩ mô. Những vấn đề lý thuyết đặt ra khi nghicn cứu :ự
biến dổi gia đình được nêu lên để đúc rút những bài học về phương pháp luậr.

10



Cuối cùng, chương VII trình bày một sơ cách tiếp cận lý thuyêì chú yếu
trong nghiên cứu xã hội học gia đình. Dựa trên cơ sờ niềm tin rằng lý thuyết
chỉ có giá trị khi nó giúp lý giải và cắt nghĩa những hiện tượng thực nghiệm,
người viết đã đưa ra các lý thuyết khác nhau về đời sống gia đình trong suốt
cuốn sách. Chương VII này dành riêng đê giới thiệu những định hướng lý
thuyết bao quát, rộng lớn về bản chất gia đình, mang tầm và tính chất triết
lý. Các định hướng đó bao trùm và chi phối cách xây dựng, phát triển, kiếm
nghiệm, hiệu chỉnh, hoặc bác bỏ những lý thuyết cụ thè.
Như vậy, cuốn sách đi dần từ những chù đề tương đối đơn giản đến
phức hợp của gia đình theo quan điểm xã hội học. Tuy nhiên, các chương
được viết thành những đơn vị độc lập; do vậy, tùy theo nhu cầu của mình,
người đọc có thổ chọn đọc bát kỳ chương nào, khơng nhất thiết phái theo
đúng trình tự của sách. Cuối mỗi chương đều có phần tóm tắt của nó, dặt
trong ơ hlnh chữ nhật dưới nhan đề "Điểm lại những khái niệm then chốt và
nội dung chính" để người đọc dễ nắm bắt những ý chủ yếu và khái niệm
quan trọng. Sau hết, ở cuối sách có giới thiệu danh mục tài liệu đọc thêm
nhằm giúp người đọc có ý niộm về việc mờ rộng phạm vi đọc của mình ra
ngồi cuốn sách này, và đồng thời làm quen với những quan điểm khác. Tuy
nhiên, danh mục này rất hạn hẹp, tất nhiên khơng phải do thiếu sách báo. mà
vì điều kiện tiếp cận tài liệu nước ngồi ở ta cịn nhiều khó khãn, và nhất là
đơng đảo sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chúng ta chưa quen
hoặc khơng ham đọc. Một danh sách dài rất có thổ gây cảm giác chống
ngợp, ngại và sợ đọc. Theo thơng lệ quốc tế, danh mục tài liêu đọc gồm hai
loại: một loại được chỉ định, nghĩa là người học nhất thiết cần đọc để nắm
được nội dung cơ bản của một học phần, và loại kia thì mang tính chất gợi ý
và tùy chọn. Độc giả nào quan tâm và muốn đọc thêm, thì có thể dựa vào
danh mục gợi ý tài liệu tham khảo, hoặc nhiểu hơn nữa thì tìm đọc theo mục
sách báo trích dẫn.

Trước hết và chù yếu dành cho sinh viên, học viên cao học và nghiên
cứu sinh ngành xã hội học, nhưng cuốn sách này khơng chỉ nhằm ricng vào
những người đọc đó. Hy vọng rằng nó cũng có thể giúp ích cho những nhà
nghiên cứu quan tâm đến gia đình, những ai muốn tiếp cận các thành tựu
nghiên cứu gần đây ờ một số nước trên thế giới, và mong muốn thay đổi lình
vực nghiên cứu này ở ta để đưa nó tiếp cận quỹ đạo chung của giới xã ịiội
học gia đình quốc tế.
Do trình độ và khả năng người viết có hạn, cuốn sách khơng tránh khỏi
thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc.

11


Chương I

ĐỊNH NGHĨA GIA ĐÌNH
Có thế gặp rất nhiểu định nghĩa về gia đình (cùa nhà luật học. kinh tê
học hay xã hội học, của Tổng cục Thống ké khi điều tra dân sò cùa nước này
so với một nước khác, V.V.), và những định nghĩa đổ rất khác nhau. "Các nhà
xã hội học và nhân học đã tranh cãi hàng chục năm nay về cách I1ÕI1 định
nghĩa gia dinh như thế nào (...). Có nhiều loại đơn vị xã hội trông dường như
giống gia dinh, nhưng lại không khớp với bất kỳ định nghĩa cụ the nào vé
nó" (Goodc, 1982:8). Sự khác nhau này không chỉ do quan diềm. các h nhìn
nhận của người định nghĩa, mù cịn do một thực tẽ' là: gia dinh gắn chặt với
những nhân tố văn hóa xã hội nhất định.
Như thế, quan niệm vé gia đình trong một xã hội này khác với quan
niệm gia đình ờ xã hội kia. “Các xã hội và nén vân hóa khác nhau có Iiliững
quy tắc khác nhau vẻ việc nên tính ai là người trong gia đình và quan hệ cụ
thể giữa các thành viên" (Steel et al-, 2000:10). Khơng có định nghĩa phổ
biến, có thể áp dụng và được chấp nhận phổ hiến. Ngay trong nội bộ một xã

hội, một nén vãn hóa, quan niệm vé gia đình cỏ the thay dổi từ nhóm này
sang nhóm khác, từ nơi này sang nơi khác, và từ thời này sang thời kia.
Ví dụ, người Kinh ờ Đồng bằng sơng Hóng cho đến tận cuối những
năm 1980 vẫn khơng thừa nhận tình trạng phụ nữ "khơng chổng mà chửa",
dù rằng có thơ khơng cịn nữa tục "gọt tóc hỏi vơi" hay "thà bị chuối Irõi
sơng" vốn dược áp dụng cho đến tận máy chục năm dầu the ký XX (Pham
Van Bich. 1999:37). Trong thời kỳ 1960-1989. những phụ nữ như ihè thường
bị phê phán gay gát; nếu họ là cán bộ còng nhãn viên nhà nước, thi họ phái
chịu sự trừng phạt nghiêm khắc. Họ buộc phái viết bán kiểm điểm, ihưa
nhận mình đã quan hệ tính dục bất chính, có con ngồi giá thú, v.v. rồi đọc
bàn kiểm điểm trước mặt dồng nghiệp trong một cuộc họp. dể nghe đồng
nghiộp phê phán. Cuối cùng họ bị thù trưởng và cơ quan cảnh cáo, yêu cầu
phải chấm dirt quan hộ tính dục trước hơn nliftn (Hiebert. 1994). Nhưng sò
lượng phụ nữ khòng chổng do hậu quả cuộc chiến tranh chống Mỹ quá lón.
kết hợp với điều kiện kinh tế khó khăn, và nhất là vai trị khơng thể ihay thê
cùa gia đình trong đời sống con rmười đã dẫn đến tình trạng gọi là "xin con"
(Le Nham, 1994). Nhiều phụ nữ trong số này trờ thành người mẹ dơn thân;
họ khóng lấy chổng nhưng có con và ni con một mình.

12


ĐAy có phải một gia dinh khơng? Xác định họ là gia đình hay khịng có
V n g líũ rất quan trọng, khơng chỉ với những người hoạch định chính sá c h ,

ma cả với nhà xã hội học. và có hệ quả kinh tê' xã hội rất phức tạp. Nếu nhà
hoạch định chính sách khơng thừa nhận đâv là gia dinh, thì ngay dù họ
khỏng trực tiếp trừng phạt những neười mẹ này, mẹ con những phụ nữ đó sẽ
vâp plríi bao diều phân biệt đối xứ (khỏng dược phân nhà, khơng khai sinh,
khịníỉ tem phiếu, khơng hộ khẩu, V.V.). Nếu nhà xã hội học không thừa nhận

một nhóm chỉ gổin mẹ và con là gia đình, thì họ sẽ bỏ qua. khơng nghiên
cứu những hình thái gia đình phi truyền thống này, mà chi lìm hiếu các hình
thái quen thuộc, và từ đó di đến những két luận khơng đáy dù hoặc klìóng
chính xác vé gia dinh nói chung.
Turc tế mây năm gần đây cho thấy, chính sách cùa nhà nước đối với
những người mẹ dơn thân và con cái họ dã và đang thay đổi theo hướng chãp
nhận; Jư luận và thái độ xã hội với họ cũng bớt nghicm khắc hưii. Nghĩa là
định nghĩa về gia dinh của người Kinh ờ dây dã thay dổi khác đi so với quan
niệm truyền thống.
Từ những giới thuyết trên dây, có thể định nghĩa gia dinh người Kinh ở
Việt Nam vào thời diêm này (đầu thế kỷ XXI) l mt nhúm ngi cú quan
hỗ hn nhn hoc huyt ihống với nhau, thường chung sống và hợp tác kinh
tê với nhau để thỏa mãn những nhu cầu cơ bàn trong cuộc sịng của họ về:
sinh đỉ và ni dạy con cái, chăm sóc người già và người ốm. v.v. Dưới dạng
phổ b.ến nhất hiện nay (vé mặt thống kê chứ khịng phủi về mặt chuẩn mực
đạo đức), gia đình người Kinh bao gồm thành vi fin của hai giới nam và nữ,
có cor đị hoặc con ni.
Mnrng cần lưu ý răng nhiều hình thái gia dinh khác nhau đang nổi lên,
và rất có thể chúng dã và dang thách thức định nghĩa trồn dây vổ gia dinh (ví
dụ gia đình mẹ dơn Ihân nói trên), địi hỏi nó phái thay đổi.
Như trên đã nêu, gia đình được nhiều khoa học khác nhau xác định và
quan -âm nghiên cứu, và xã hội học là một trong số đó. Sau khi dịnh nghĩa
gia đ';íih người Kinh ờ Việt Nam, hây giờ chúng ta hãy xct xem có gì khác
biệt trong cách xã hội học tiếp cận gia đình.

13


ĐIỂM lại n h ữ n g khái niệm t h e n c h ố t và nội d u n g chính
Khơng có định nghĩa phổ biến về gia đình do gia đình hết sức đa dạng

theo thời gian và khơng gian. Gia đình người Kinh ờ Việt Nam hiện nay ỉà
một nhóm người có quan hệ hỏn nhân hoặc huyết thống với nhau, thường
chung sông và hợp tác kinh tê với nhau đế thỏa mãn những nhu cầu cơ bán
trong cuộc sống của họ về: sinh đẻ và nuỏi dạy con cái, chăm sóc người
già và người ốm. v.v. Dạng phổ biến nhất cho tới nay của gia đình người
Kinh bao gồm thành viồn cùa hai giới, có con đẻ hoặc con ni.

14


Chương II

QUAN ĐIỂM XÃ HỘÍ HỌC VỀ GIA ĐÌNH
Niicu nhà xã hội học coi gia đình là hịn dá táng của xã hội theo nghĩa
nó là cơn vị cơ bàn của tổ chức xã hội, là một hộ phận không thổ thiếu của
xã hiội :on người, và khó lịng hình duna xã hội con người sẽ vận hành ra sao
nếũ th e u gia đình. Nói như Hồ Chủ tịch, "Gia dinh là tế bào của xã hội".
Tiy gia đình có tầm quan trọng như vậy, nhưng việc nghiên cứu gia
đình thường gặp nhiều khó khăn. Vấn đê nghièm trọng nhât cho bất cứ ai
mưốin aghiên cứu gia đình là ờ chỗ mọi người đều quá quen thuộc với chủ đề
này. iv.ỗi người chúng ta ít nhất có một gia đình, nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi
thườmg có cha mẹ, anh chị em ta, và được các nhà xã hội học gọi là gia dinh
xuất thân, hay gia đình định hướng. Nếu khi lớn lèn chúng ta lấy vợ lấy
chổn g, sinh con đè cái, thì chúng ta biết thêm một hình thái nữa mà các nhà
xã h ồ i 1ỌC gọi là gia đình sinh đè.
Sị quen biết này thực sự là một trờ ngại: khi đã là một thành viên trong
gia (Hình, ihật khó giữ tư cách người ngoài để nghiên cứu. Hoặc là người ta
cho rằng họ đã biết đầy đủ vẻ nó, nên khơng cịn sự tị mị cần thiết để tìm
hiểu céc gia đình khác, và các gia đình khác cũng na ná như gia đình mình.
Hoặc: người ta có xu hướng cho rằng gia đình mình là chuẩn cho các gia đình

khác (ví dụ có người nói "Sao bác chiều con thế, nhà tối thì khơng the thế
được !">. Nói như một nhà nghiên cứu, "một trong những khó khãn lớn nhất
củíi wiéc tìm hiểu gia đình là chính chúng ta", "vì chính bản thân chúng ta
dính IÍJ sâu sắc vào các quan hệ gia đình, việc phùn tích khách quan q
khồnig dễ dàng. Khi chúng ta đọc về các kiểu hành vi gia đình khác, ở các
giai cấp hay xã hội khác, chúng ta dễ cảm thấy ràng chúng thật ngược đời
hoặc khơng thích hợp" (Goodc, 1982:4).
'Tiong khi đó, tư duy xã hội học địi hịi chúng ta phải nhìn các sự vật
theo tuổi /A. Giddens (2001:2) đã nói, "một nhà xã hội học là người có khả nàng
dứt na khỏi hồn cảnh riơng tư và đặt các sự vật vào một bối cành rộng hơn.
Công; việc xã hội học phụ thuộc vào cái mà tác già Mỹ c . Wright Mills gọi
là ‘trỉí tường tượng xã hội học’ trong một câu nói nổi tiếng. Trí tướng tượng
xã h ơ i học trước hết địi hỏi ta vượt khỏi những nếp mịn quen thuộc trong
đời Síống hàng ngày của chúng ta để nhìn chúng theo cách mới".

15


Nói cách khác, để vượt qua khó khăn này sinh (Jo quá quen biòt đừi
'.ỏng gia dinh, nhà nghiên cứu cần rèn luyện trí tướns tượng xã hội học. Nó
giúp nhà nghiên cứu thốt khỏi cách nhìn riêng iư cá nhân de nhìn ra mối
licn hệ giữa kinh nghiêm cá nhãn và sự kiện xã hội. Một khi nhà xã hội học
dạt được điểu đó, họ sẽ thííy cơng việc cùa mình thật lý thú. "Điều đáng mé
hồn của xã hội học là ờ chỗ cách nhìn của nó giúp ta phát hiện ra dưứi ánh
sáng mới chính thế giới mà chúng ta sông suốt dời (...) Sự thông thái cùa xã
hội học chính là ờ chỗ các sự vật khơng đúng như vỏ ngồi của chúng"
(Bcrger. 1963:32-34). Tóm lại. nhiều người nghĩ mình "q quen biẽt" đời
sịng gia đình, và coi nó là dương nhiên, khỏi cán tìm hiểu. Đè khắc phục
tình trạng này. nhà xã hội học cẩn từ bó sự "đương nhiên hóa” (Smart.

2006:189-190) này, sao cho mọi tun bị rằng ai đó hiểu biết VC gia đinh
dcu phải được kiểm chứng, và đế gia đình trở thành tiêu diểm cùa sự phân
tích xã hội.
Thêm nữa, đời sơng gia đình có liên quan dến nhiều hoạt động sinh lv
và thỏa mãn nhiều nhu cẩu tự nhiên cùa con người: tính dục, thụ thai, thai
nghén, sinh con dè cái, và cho con bú, v.v. và v.v. Nhiều người có xu hướng
cho ràng đời sơng gia đình vì thế gắn với tự nhiên, chứ khòng phái là sán
phẩm của một nền văn hóa nhất dịnh, một xã hội nào đó. Quan diêm xã hội
học thì một mặt cho rằng vì con người là một phần của tự nhiên, là sản phẩm
của tự nhiên, nên tạ nhiên dóng vai trị nhất địnli trong hành vi con người.
Mật khác, xã hội học khảng định gia đình là một kiến tạo vãn hóa - xã hội,
chứ khơng thuần túy bị chi phối bời những hiện tượng tự nhiên. Do vậy. gia
dinh ờ xã hội này, hay một ncn vãn hóa này, của một nhóm này có thể rất
khác với gia đình của các xã hội, nền văn hóa và nhóm khác.
Cuối cùng nhưng không kém phán quan trọng, từ xưa ờ một số xã hội
người ta đã quan niộm ràng tình yêu và hỏn nhan cũng như dời sống gia đinh
là những chuyện riêng tư theo nghĩa rằng chúng dược tiến hành hoặc theo sờ
thích cá nhân hoặc theo liền định cùa các thế lực siêu nhiên.
Những người khác giói yêu nhau và kết hôn với nhau như thê nào?
Trơng thần thoại Hy Lạp và La Mã. người ta tin ràng có một vị thần gọi là
thần tình yêu (Cupid, hay Amor, cịn có tơn là Bros); vị Ihán này thư(mg
được thổ hiện là một thanh niên trẻ bị bịt mắt với một chiếc cung tên. Nếu
thẩn bắn tên vào trái tim ai, thì nhữna người trúng tên ấy phải lịng nhau.
ở Việt Nam và Trung Quốc thì có câu chuyện vể òng tơ bà nguyệt. Họ
xe duyỏn các đỏi trai gái, buộc chỉ vào chàn những người này dè tạo nên sự
gắn bó (ví dụ "Truyện Kiều" có các câu: "Tráng già độc địa làm sao, cầm

16



dây chang lựa, buộc vào tự nhiên", và "Buộc chân thơi cũng xích thằng
nhiệm trao").
Trong thời đại ngày nay, nhất là ờ những nơi lự do hôn nhân được
thừa nhận, nhiều người cho rằng đời Sống gia đình cũa họ là sự lựa chọn
cá nhân, riêng tư của họ, chứ không bị chi phối bời bất kỳ nhân tô nào
khác. Ví dụ theo họ, việc tơi ycu ai lấy ai là do sờ thích cá nhân và sự lựa
chọn riêng cùa tôi.
Quan điểm xã hội học cho rằng không thế hiểu được hành vi con người
nếu tách rời nó khỏi bối cảnh văn hóa xã hội rộng lớn hơn. cụ thể là cẩn xét
hành vi qua những phong tục tập quán, những quan niệm về đúng sai, V.V.;
và điều đó cũng đúng với xã hội học gia đình.
Cách tiếp cận xã hội học xét xem các nhân tố xã hội nào định hướng,
nhào nặn hay ảnh hưởng đốn những gì con người ta làm trong hơn nhân và
gia đình. Nghiên cứu xã hội học là để tìm ra cách thức mà các nền vãn hóa,
các nhân tơ' xã hội chi phối hôn nhân và đời sống gia dinh.
Chúng ta thường không ý thức được rằng xã hội nhào nặn và chi phối
chúng ta đến độ nào. Thực ra, ngay những ý nghĩ, kỳ vọng, ước nguyện mà
chúng ta cho là hết sức riêng tư vẫn bị chi phối bời xã hội và nền văn hóa nơi
ta sinh trưởng. Ví dụ luẠt hơn nhân và gia đình Việt Nam quy định tuổi kết
hơn, số người có thể kết hơn (một vợ một chổng), kế hoạch hóa gia đình
(sinh mấy con, khi nào sinh, khoảng cách giữa các lần sinh), v.v.
Nhưng hầu hết cái gọi là sự kiểm soát xã hội đối với hơn nhân và gia
đình khổng rõ rệt như trên, và chúng ta thường tn theo chúng mà khơng có
ý thức vẻ điều đó. Xã hội học gia đình cơ' gắng làm rõ những cơ chế và tác
động của sự kiểm soát xã hội khổng dễ thấy này.
Đê làm rõ những điểu nói trên, xin nêu một vài ví dụ. Nhiều người hiồn
nay có thiên hướng cho rằng yêu là tình cảm tự nhiẻn và phổ biến của con
người ta. Thực ra, tình u khỏng phải một tình cảm mà hầu hết nhân loại
đều nếm trải, và không phải bao giờ cũng gắn với hơn nhân.
Nhiều nền văn hóa khơng biết đến cái gọi là tình u, cịn ờ phương

Tây, khái niộm tình u chỉ gắn với hơn nhân từ thời kỳ được gọi là "hiện
đại” (khoảng thế kỷ XVIII tới nay). Vào thời Trung cổ, người phương Tây
chù yếu kết hôn để giữ tài sản, tước vị trong gia đình, để có con cái làm việc
trên vườn đất của gia đình, v.v. Khi đã kết hỏn, đơi khi người ta nảy sinh tình
cảin gán bó, gần gũi với nhau, nhưng điều đó xày ra sau hơn là trước hỏn
nhíln. Một số người ngoại tình, nhưng phỉ với nhau một chút tìnỉrcàTĩT nào

17


đó mà ta có thể gọi là tình u. Tinh yêu lãng mạn xuất hiện trong giới qu>
tộc, và không phải trong hơn nhân, mà trong những vụ ngoại tình. Với cá
người giàu lẫn kẻ nghèo, gia đinh và họ hàng quyết định việc hỏn nhũn, các
đương sự chi có rất ít hoặc khịng có tiếng nói trong vấn đé hệ trọng này.
Quan hệ vợ chồng trong giai cấp quý tộc rất lạnh lùng; những gia đình giàu
có thường nhà cao cửa rộng, vợ chồng mỗi người có một phịng riêng, thậm
chí kẻ hầu người hạ riêng (Giddens, 1989:8).
Như vậy, cả tình yêu lãng mạn lẫn mối liên hệ của nó với hịn nhân
khơng phải một hằng số cho sẩn và nhất thành bất biến trong cuộc sống con
người, mà do các nhân tơ' vãn hóa xã hội nhào nặn. Xã hội học nghiên cứu
chính các nhân tố này. Hầu hết chúng ta nhìn cuộc sống xã hội từ những
điểu quen thuộc trong cuộc sống của chính chúng ta. Xã hội học chứng minh
rằng cần xem xét rộng hơn để hiểu vì sao chúng ta hành động như thế này
hay thế khác.
Lấy ví dụ, anh A yêu và chọn chị B làm vợ. Theo quan điểm xã hội học,
điểu gì đang diễn ra? Cần nhận thấy rằng mặc dù hai đương sự cho rằng đày
là việc riêng tư, xuất phát từ nguyện vọng riêng và tự do cá nhân, song sự lựa
chọn được tiến hành trong những ranh giới khá hạn hẹp nhưng không dễ
dàng nhận thấy đối với họ.
Những ranh giới này do tư cách thành viên của họ trong một nhổrn xã

hội nhất định tạo ra. Là một người Kinh, họ không dễ kết hỏn với người
thuộc tộc khác trong hơn 50 tộc người trên đất nước Việt Nam. Họ thường
không chọn người quá chênh lệch so với họ về tài sản, địa vị xã hội, tuổi tác,
nghề nghiệp, v.v.

Tóm lại, khi lựa chọn, họ đáp úmg những điều mà người xung quanh,
nhất là bố mẹ, họ hàng, bạn bè, v.v. kỳ vọng ở họ. Nói cách khác, như hầu
hết chúng ta, anh.A và chị B lựa chọn nhau theo những kênh tuyến xã hội đã
xác lập trước khi họ sinh ra. Lớn lên trong xã hội này, họ đã nhập tâm những
kỳ vọng ấy, và cho rằng sự lựa chọn của họ là "làm theo những gì đương
nhiên", những điều khơng cần giải thích. Chỉ khi có sự vi phạm những kv
vọng, người ta mới thấy cần giải thích.
Nhưng thực ra, họ khơng nhận thấy rằng q trình họ học và nhập tâm
các kỳ vọng đã đạt ra những giới hạn cho sự lựa chọn của họ. Theo quan
điểm xã hội học, cả sự tuân theo các kỳ vọng lẫn sự vi phạm chúng đều cần
giải thích, và cả hai đều là kết quả của các quá trình xã hội mà các đương sự
khó thấy. Nhiộm vụ của xã hội học là làm rõ những quá trình này.

18


Sau khi lốt nghiệp, anh A và chị B đãng ký kết hơn. làm lề cưới linh
đình với tiệc cưới được dặt ở một nhà hàna, có nhiểu hoa, khách khứa, phong
bì và nhạc, v.v. Họ cho rằng sự lựa chọn cùa họ là tự do. Song họ không thấy
tác động cùa các nhân tỏ' văn hóa - xã hội đến sự lựa chọn của họ như: quy
định của luật pháp vé chế độ một vợ một chổng; những kỳ vọng của xã hội
về thời đ iểm kết hôn (sau khi tốt nghiệp chứ khơng phải trước đó, V.V.); ảnh.

hưởng của thành phần xã hội về tôn giáo, học vấn và nghồ nghiệp, v.v. của
cha mẹ cũng như của chính họ đến phạm vi lựa chọn của họ.

Một ví dụ khác: khi có tự do hơn nhân, và khi tình yOu dược nhiều
người coi là cơ sở duy nhất chấp nhận được dê kết hơn. thì họ cho ràng tình
u phái khơng tính tốn, khơng vụ lợi, mà chi nghe theo một tiếng gọi duy
nhất: tiếng gọi của trái tim, y như trong tiểu thuyết và phim ảnh (ví dụ bộ
phim về thiên tình sử "Titanic"). Họ khơng tin, và khịng chấp nhận rằng tính
tốn hơn thiệt, so sánh được mất, v.v. là điều có thể và vần xảy ra trong hơn
nhân và gia đình. Như ta sẽ thấy sau đáy, thực tế khịng phải bao giờ cũns
vậy. Nói cách khác, tình u là một hiện tượng xã hội. Nó có sự tính tốn
của nó. do các nhân tố xã hội chi phối. Xã hội học hôn nhân và gia đinh đã
chứng minh rằng thực tế không phải bao giờ cũng khớp với quan niệm lãng
mạn vể tình u.
Tóm lại, quan diểm xã hội học về hôn nhân và gia đình địi hỏi phải
nhìn hỏn nhân và đời sống gia đình như là những kiến tạo xã hội, nghĩa là
những điéu do xã hội tạo ra, và xem xét hôn nhân và gia đình dưới ánh sáng
của các nhân tơ’ xã hội, tức là tìm xem những nhân tố xã hội chi phơi hơn
nhân và đời sống gia đình của các cá nhân như thế nào. dù rằng họ coi đó là
những điều riêng tư và tự do. Xã hội học cũng làm rõ các nhân tố này. tuy
rằng chúng không dẻ thấy đối với các đương sự.
Nhưng quan điểm xã hội học về gia đình, giống như trong mọi lĩnh vực
xã hội học khác, còn đòi hỏi nhà nghiên cứu có một lập trường mà Max
Weber gọi là "trung lập vé mặt giá trị" (value-free), hay trung lập về mặt đạo
đức. Điều này có nghĩa là nhà xã hội học cần cô' gáng giữ (hái độ khách
quan đối với đối tượng nghiơn cứu của mình, dù đó là những người vợ người
chổng mẫu mực vổ mặt đạo đức, hay những kẻ "ông ăn chả, bà ãn nem",
chổng nãm thô bày thiếp, vợ dăm ba nhân tinh, v.v. Không nôn và không thể
bàv tỏ thái độ đạo đức quá lộ liẻu, vì trước hết cần phan biệt hai cách tiếp
cận m à trong xã hội học gọi là thực nghiệm và chuẩn mực khi nghiên cứu
%ia đình.
Cách tiếp cận chuẩn mực (normative approach) là dựa trên các truyền
thông đạo đức, tơn giáo và chính trị. Hầu hết các xã hội đểu có những quy


19


phạm, chuẩn mực đạo đức, các giáo lý và kổ cả luật pháp dế quy định và thế
chế hóa hành vi gia đình. Cụ thể là có những quy định về tuổi kết hôn. chọn
người cho hôn nhân như thế nào, giới hạn quan hỏ chì trong hơn nhãn ra sao,
quyền lợi và nghĩa vụ vợ chồng, làm cha làm mẹ, v.v. và v.v. Tóm lại, cách
tiếp cận chuẩn mực đối với gia đình đề cập đến những khía cạnh chuẩn mực
của gia đình, những gì nên và phải làm, những gì được coi là tốt và đúng,
xấu và sai.
Khác với cách tiếp cận chuẩn mực, cách tiếp cận thực nghiệm
(empirical approach) nhàm trả lời cho những câu hỏi về gia đình trong thực
tế. Những câu trà lời này khơng thể suy rút ra từ những quy phạm dạo đức có
tính chuẩn mực và những điều đúng sai, vì thường có khác biệt và khống
cách giữa chuẩn mực với thực tế. Ví dụ, luật hồn nhân và gia đình Việt Nam
quy định tuổi kết hôn cho phcp là nam 20 và nữ 18, nhưng trong thực tê
nhiều người kết hôn sớm hoặc muộn hơn thế nhiều. Quy phạm đòi hòi vợ
chồng phải thương yêu nhau cho đến khi nhắm mắt xi tay, song trong thực
tế ta thấy, có hiện tượng bạo lực gia đình (đánh vợ đập con, V.V.), vợ chòng
bỏ nhau, cuộc hỏn nhân giữa đường đứt gánh. Những câu hỏi như: "Lứa tuổi
kết hơn lần đầu trung bình là bao nhiêu? Người ta thường chọn vợ chọn
chồng trong thực tế là như thế nào? Tinh trạng bạo lực gia đình ra sao?" v.v.
và v.v. chỉ có thổ được trả lời bằng cách nghiên cứu gia đình như nó tổn tại
trong thực tế (chứ khơng phải như nó cần phài có theo chuẩn mực), bàng
thực nghiệm, tức là bằng thu thập thịng tin và dữ liệu có hệ thống. Cách tiếp
cận thực nghiệm là dựa trôn cơ sở thu thập và phân tích dữ liệu để trả lời cho
những câu hỏi dó.
Nhầ xã hội học cần chú ý đến cả những chuẩn mực lẫn thực tế. Tìm
hiểu những chuẩn mực và lý tường về gia đình sẽ giúp họ ít nhiều nắm đưực

những chỉ dẫn sơ lược cho hành vi, và biết được rằng nếu một người vi phạm
chuẩn mực hay lý tưởng, anh (chị) ta dỗ che giấu điều đó nếu có thể. hoăc
tìm cách bao biện. Nhưng nhà xã hội học không nên phán xét đối tương
nghiên cứu của mình nếu anh (chị) ta vi phạm những chuẩn mực và lý tưỏng.
Bày tỏ thái độ quá lộ liễu đối với đối tượng nghiên cứu của mình là lẵn lộn
hai cách tiếp cận trên. Việc này sẽ làm mất tính khách quan trong ngHẽn
cứu. Nhiệm vụ đặt ra với nhà xã hội học chủ yếu không phải phê phán đôi
tượng nghiên cứu của rrùnh về mặt đạo đức, khơng phải lên "án ai đó là vơ
đạo đức. Phê phán và lên án thì khơng khó, ai cũng có thể làm được việc ây,
thậm chí người khác có thể còn làm tốt hơn nhà xã hội học. Việc ấy có the
nhà đạo đức học làm tốt hơn, và kẻ đạo đức giả làm giỏi hơn nhà xã hội lọc.

20


Nhưng nhà xã hội học có thể thực hiện một việc mà những người khác khó
lịng làm dược: đó là tìm hiểu xem và đưa ra tri thức đổ trả lời những càu hỏi
quan trọng như: đối tượng nghiên cứu của họ có biết một hành vi nào đấy là
vơ đạo đức khơng? Nếu khơng biết, thì vì sao khơng? Nếu có biết, thì vì sao
họ biết mà vẫn làm những việc vị đạo đức đó?
Sau nữa, hơn nhân và gia đình ngày nay ờ nhiều xã hội là lĩnh vực riêng
tư cùa con người. Cư dân được nghiên cứu đã đồng ý hợp tác với nhà xã hội
học hằng cách dành thì giờ và cơng sức trả lời các câu hỏi của nhà nghiên
cứu, và cung cấp thòng tin cho nhà nghiên cứu, v.v. Họ kỳ vọng nhà xã hội
học giữ kín thơng tin riẻng tư cho họ, và khơng làm gì tác hại đến họ. Đó
cũng chính là một trong những quv tắc nghề nghiệp của nhà xã hội học.
Nếu lên án đối tượng nghiên cứu của mình về mặt đạo đức, nhà xã hội học
có thể vi phạm quy tắc đạo đức nghể nghiệp này.
Nói như thế khơng có nghĩa rằng nhà xã hội học bàng quan, thờ ơ với
những hiộn tượng vi phạm đạo đức và luật pháp trong đời sống hơn nhan và

gia đình mà họ nghiơn cứu. Ai cũng có lập trường, ý kiến, quan diểm của
mình về một chủ đề nào đó, và nhà xã hội học không hề là một ngoại lệ.
Nhưng nhà xã hội học nên bày tỏ thái độ của mình ớ chỗ khác, khơng phải
khi dang khai thác thơng tin từ đối tượng, không phải trong các ấn phẩm
nghiôn cứu của mình, và khơng nên biến ấn phẩm thành những bài rao giảng
về đạo đức.

6>lê?M l ạ i n h ữ n g k h á i niệm t h e n

CHỐrvk NỔI DUNG CHÍNH

Các nhà xã hội học nhìn gia đình như một kiến tạo xã hội theo hai
nghĩa. Thứ nhất, họ coi những hiện tượng và quá trình trong đời sống gia
đình khơng hồn tồn mang tính chất riêng tư, cá nhản, mà chịu sự chi
phối của các nhân tố xã hội. Thứ hai, tuy trong gia đình diễn ra nhiều hiện
tượng và quá trình tự nhiên, sinh học (ví dụ, tính dục, thụ thai, thai nghén,
sinh con đẻ cái và cho con bú, V.V.), nhưng các nhân tơ' văn hóa xã hơi có
vai trị rất lớn.
Khr nghiên cứu gia đình, nhà xã hội học nên phân biệt rõ ràng những
chuẩn mực về đời sống gia đình với gia đình như nó hiện có trong thực tế,
và tránh lẫn lộn hai điểu này.

21




Ch ương UI

Sự DA DẠNG CỦA CÁC HÌNH THÁI GIA ĐÌNH





Trong một chương trước, chúng ta đã nói dcn khó khãn trong \ iệc định
nghĩa gia dinh. Một trong những ngun nhân gây nên khó khãn đó là do gia
đình có vơ sơ' hình thái rất nhiều hlnh nhiéu vẻ. Dựa trẽn két quà nghiên cứu
so sánh của mình, nhiều nhà xã hội học cho rằng các hình thái của đời sống
gia đinh ngay trong một xã hội hết sức da dạng, muỏn hình mn vẻ đến
mức có lẽ khơng thể nói rằng có một khái niệm chung gọi là gia đình. Sự đa
dạng ấy khiến việc định nghĩa gia đình khơng khác gì "trói voi bỏ rọ". Sau
đây chúng ta sẽ thấy cụ the sự muôn màu muôn vè ày.
Nói ví dụ, cùng ờ trên lãnh thổ một quốc gia thống nhất, nhưng gia dinh
cùa người Kinh khác với gia đình người Thái: ngay trong nội bộ người Kinh,
gia đình nơng thơn khác với gia đình thành thị; cùng là gia đình nịng thơn
người Kinh, nhung miền Bắc khơng giống với miền Nam, như tác già Đồ
Thái Đồng (1991) dã cho thấy.
Trong những xã hội đa sắc tộc và tơn giáo, gia đình càng đa dạng hơn
nữa theo sắc tộc, tôn giáo, học vấn, nghề nghiôp, dịa vị kinh tế-xã hội, v.v.
Chính vì thế, một sơ tác gfả viết bằng tiếng Anh dé nghị phải dùng khái
niệm gia đình ờ sô' nhiổu (families) để nắm bắt sự đa dạng đó, chứ khơng thê
dùng sơ' ít (family), vì khái niệm gia đình số ít hàm ý rằng có một mầu hình
gia đình chung, phổ biến và duy nhất. Có tác già thậm chí đề xuất bó luỏn
khái niệm gia đình do cho rằng nó khống nắm bắl được các hình tliái đa
dạng của đời sống gia dinh. Nhiéu nhà nhAn học Ihường nói về "các nhóm
thân tộc" (kinship groups) hơn là gia đình dể chỉ sự cực kỳ đa dạng vể gia
đình ở các xã hội khác nhau. Lý do là các nhóm này có duy nhất mội điểm
chung: chúng được tạo nứn từ những người có quan hệ thân tộc với nhau do
huyết thống hay hôn nhủn.
Trong ngôn ngữ và hộ thống quan niệm cùa người Việt, khơng có sự

phân biệt về sô' như tiếng Anh, nên chúng ta có thể nói chung về "gia đình",
nhưng nên nhớ rằng các hình thái đời sống gia đình hct sức đa dạng. Dưới
đây chúng ta sẽ thấy các hình thái gia đình mn màu mn vẻ như thế nao.
*
Trước hết, xét theo sơ thế hệ trong gia đình, chúng ta có thể phủn loại
các gia đình như sau.

22


Gia đình hạt nhân
Đ(tfì vị gia đình nhỏ nhất được gọi là gia đình hạt nhãn, và bao gồm một
cặp vợ chồng và con cái chưa kết hôn của họ. Nó bao gồm chỉ hai thế hệ:
cha mẹ và thế hệ con cái.
Tên gọi gia đình hạt nhân có lẽ xuất phát từ sự vay mượn thuật ngữ của
vật lý học, và vì vậy có những hạn chế gắn với tình trạng phát triển của vật lý
học thời đicm ấy. Cụ thể là vào thời điểm ấy, người ta tin rằng hạt nhân là
đơn vị nhỏ nhất của vật chất; nhưng có lẽ vật lý học ngày nay khơng cịn
quan niệm như vậy nữa. Ngay trong bản thân xã hội học, hiện ta thâv có
những hình thái gia đình nhỏ hơn hình thái gọi là hạt nhân, chảng hạn gia
đình (cha) mẹ đơn thân. Tuy nhiên, thuật ngữ gia đình hạt nhân vẫn đang
được sử dụng rộng rãi như là hình thái nhỏ nhất, và hiộn thời chúng ta cứ
chấp nhận nó, trong khi chờ đợi những thuật ngữ mới chính xác hơn.
Trong hình thái nhỏ nhất này, gia đình bao gồm ít nhất ba trục quan hệ
cơ bàn sau đây:
- Quan hệ vợ chồng;
- Quan hộ cha mẹ - con cái;
- và nếu gia đình có từ hai con trở lên, thì thêm trục quan hệ giữa con
cái với nhau, tức là quan hệ anh chị em (Harris, 1983:35).
Cần phân biệt gia đình với cặp vợ chồng (cịn gọi là cặp hôn nhân). Nếu

hai người kết hôn hay chung ¿ống với nhau mà chưa hoặc khơng có con, họ
là một cặp hôn nhân, hay nôm na là cặp vợ chồng. Đó khơng phải ià một gia
đình; họ chỉ trở thành một gia đình khi họ có con. Đây là sự phân biột cần
lưu ý để tránh lẫn lộn hay quy giản thái quá về lý thuyết. Một bài viết về
những khía cạnh của sự biến đổi gia đình đăng trong cuốn sách "Những
nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam" (Tương Lai, 1996) đã quy giản
gia đình như vậy.
Có thổ phân nhỏ hơn nữa ba trục quan hệ cơ bản trên đây để tiện phân
tích, và phù hợp với hiện thực. Ví dụ, khi áp dụng vào gia đình đa thẻ (nhiều
vợ) ờ Việt Nam trước năm 1960, trục quan hệ vợ chổng có thổ và cần tách
bạch ihành quan hộ chồng với vợ cả; và quan hệ chồng với vợ hai. Bởi vì, tuy
đây cùng là quan hộ hôn nhân giữa bên nam và bên nữ trong một hình thái
gia đình, nhưng do quan niệm về vợ cả và vợ hai có khác nhau, vai trị khác
nhau của họ, cũng như do tính chất phức tạp về tôn ti giữa các bà vợ, nên
quan hệ giữa người chồng với vợ cả khác hẳn quan hệ của ông ta với vợ hai.
Không thể đánh đổng hai nhánh quan hộ này làm một.

23


Cũng vậy, có thơ tách quan hệ cha mẹ con cái thành quan hệ cha với
con trai, cha với con gái; mẹ với con trai, và mẹ với con gái. Sự phân biệt
này khơng chỉ cần thiết vì tính cụ thể trong nghiên cứu. mà cịn vì sự khác
biệt về chất trong từng nhánh quan hệ.
Chẳng hạn, có những xã hội thích con trai hơn con gái, và thực thi (ập
qn gọi là hơn nhân ờ nhà chồng, theo đó nam giới sau khi kết hỏn, van ớ
lại nhà mình, cịn phụ nữ sau kết hỏn thì rời gia đình góc, tức gia đình bơ mẹ
đẻ, vè chung sống với gia đình nhà chồngMột số nhà nghiên cứu vạch ra rằng trong những xã hội như vậy, nhiều
gia đình có sự phân biệt đối xử giữa con trai với con gái, và quan hệ giữa cha
mẹ với con trai và con gái của họ rất khác nhau. Cụ thể. nhiều người cha gần

gũi và rất chiều "con gái rượu", trong khi rất nghicm khắc và xa cách với con
trai. Còn nhiểu người mẹ rất quý con trai.
Một trong những lý do tạo nên thái độ người cha là như sau: con gái chỉ
sống trong gia đình gốc một thời gian nhất định, rổi sẽ rời nhà đi lấy chồng,
đáng được biệt đãi; trong khi con trai ớ lại nhà. và rất có thể đe dọa địa vị
của người cha, nên cần được đối xử nghiơm khác.
Cịn người mẹ lừ chỗ là người ngoài, bước chân về nhà chổng, nếu chỉ
sinh con gái, rất có thể bị nhà chổng hắt hủi, ngược đãi; nếu sinh dược con
trai, sẽ củng cố được địa vị cùa mình trong gia đình. Hơn nữa, C011 tra. là
những nam giới duy nhất trong gia đình mà bà mẹ có thể gây ảnh hưưng
(O'Harrow, 1995). Và cuối cùng, con trai lấy vợ SC đư a con dâu vào nhà, vừa
đỡ gánh nặng lao động phụ nữ mà mẹ chồng vãn đảm nhiệm trước đó, 'ừa
thêm người dưới quyền cho mẹ chồng, qua đó nâng cao địa vị mẹ chồng.
Trên đây là những kết quà nghicn cứu lý thú. Chúng vừa mở mang cho
chúng ta, và chứng tỏ sự cần thiết, tầm quan trọng cùa viêc tách bạch cụ thể
trục quan hệ cha mẹ - con cái, vừa có thể làm dối lượng để nếu cần chúnị ta
kiểm nghiệm trong những nghiồn cứu sau này.
Trong gia đình hạt nhân có hai biến thể. Một gọi là giơ đình dầy hi,
trong đó có đủ cả hai vợ chồng với con cái chưa kết hôn của họ. Một bến
thể khác của gia đình hạt nhân là gia đình có hai thế hộ (cha mẹ và con :ái
chưa kết hôn), nhưng trong thế hệ thứ nhất (tức thế hệ cha mẹ), khơng đủ lai
người của cặp vợ chồng, mà chỉ có một người (hoặc mẹ hoặc cha) do nhều
nguyên nhân khác nhau (ly hơn, góa, hay đơn giàn là khơng hoặc chưa cết
hơn mà có con, V.V.). Trong xã hội học trước đây, biến thê này gọi là "?ia
đình khơng đầy đủ" (incomplete family), nhưng gần đây khái niệm này đã bị
loại bỏ do hàm ý tiêu cực ngầm ẩn trong đó. Thay vào đấy, người ta dừig

24



khái niệm "gia dinh (cha) mẹ đơn thân'' (one-parent family, lone-parent
family, singlc-parent family).
Điém mạnh của gia đình hạt nhàn là ỡ chỏ nếu được thành lập do kết
quà cùa tự do hỏn nhân và tình u, nó tạo ra nhiều lợi thế về tình cảm cho
quan hệ vợ chổng và giảm khả năng mâu thuẫn thố hộ. Nhưng mặt yếu của
nó là dẻ bị tác động cùa những khó khăn, khùng hoàng trong các giai đoạn
của đường đời mà nhà nghiên cứu A.F. Robertson (1991) gọi là "sức ép tái
sinh sản".
(ỉia đình mớ rộng
Những đơn vị lớn hơn gia đình hạt nhân thường (lược gọi một cách lòng
lèo là gia đình mờ rộng. Nó có thể là sự mờ rộng hạt nhân cơ bản theo chiều
dọc, ví dụ bao gồm cả các thành viên thế hộ thứ ba (như bò mẹ chổng hoặc
bố mẹ vợ) hay theo chiều ngang để gồm cả thành viên của thế hệ ngang
hàng với người vợ hoặc người chồng (cụ thể là anh chị em chồng, hay vợ
hai, vợ ba, V.V.). Gia đình m ờ rộng có ưu th ế trong việc tập trung nhân lực
cho sàn xuất gia đình, và các thế hệ có the giúp đỡ lản nhau vượt qua những
khó khăn trong đường đời, khắc phục "sức ép tái sinh sàn". Tuy nhiên, loại
hình gia đình này dẻ dản đến khác biệl và mâu thuản thế hộ, và đổ duy trì nó,
cần có nỗ lực rất lớn của các thành viên đổ vượt qua xu hướng chia tách.
Gia đình góc
Tuy nhiên khi về nơng thịn Việt Nam, ta có thế gặp những gia đình có
cơ cấu gồm cha mẹ già sống với một trong nhiều con trai của họ, cùng với
vợ con cùa anh ta. Đây là gia đình gì? Có phải gia đình mờ rộng hay khơng?
Khơng, vì hình thái này có tơi đa hai cặp hơn nhũn (bố mẹ già và vợ chổng
anh con trai), và không phức tạp như hình thái mờ rộng Irong đó bỏ mẹ già
sống với vài ba cặp vợ chồng các con trai (đây mới là gia đình mở rộng được
dịnh nghĩa chạt chẽ). Nhà nghicn cứu Đỗ Thái Đổng (1991) gọi đây là gia
dinh nừa hạt nhân, nhưng theo tồi, chính xác hơn nồn gọi bằng cái tên mà
nhà nghiên cứu người Pháp Ferederic Le Play (1806-1882) đặt là gia dinh
gốc (stem family).

Nói cách khác, cần phân biệt gia đình mở rộng với gia đình gốc. Sự
phíìn biệt này rất cần thiết vừa do sự khác biệt thật sự giữa chúng, vừa do lợi
ích về phương pháp luận: nó giúp ta tránh lối tư duy lưỡng phân, ncm tất cả
những gia đình khơng phải hạt nhản vào một bị chung của gia đình mỡ rộng,
và bõ qua những khác biột giữa các gia đình phi hạt nhân này.

25


×