Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.17 KB, 64 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

VÕ VĂN VŨ
LỚP: 13 SGC

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Đà Nẵng, 2017


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Sinh viên: Võ Văn Vũ
Người hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Hương

Đà Nẵng, 2017


LỜI CẢM ƠN


Để hồn thành khóa luận này, em xin tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến Cơ ThS.
Nguyễn Thị Hương, đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết Khóa luận. Em
chân thành cảm ơn q Thầy, Cơ trong khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại Học Sư
phạm Đà Nẵng đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm em học tập. Với vốn
kiến thức được tiếp thu trong q trình học khơng chỉ là nền tảng cho q trình nghiên
cứu khóa luận mà cịn là hành trang quí báu để em bước vào đời một cách vững chắc
và tự tin. Cuối cùng em kính chúc quý Thầy, Cô dồi dào sức khỏe và thành công trong
sự nghiệp.

3


I. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã và đang trở thành yêu cầu bắt buộc đối
với doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Nhưng ở nước ta hiện nay vấn đề này cịn
khá mới mẻ và ít được quan tâm đúng mức từ các doanh nghiệp. Hàng loạt các vụ việc
vi phạm môi trường, vi phạm quyền lợi lao động, xâm phạm lợi ích người tiêu dùng...
đã và đang khiến cộng đồng mất lòng tin vào các doanh nghiệp.
Những năm gần đây, Việt Nam đã tạo ra những thành quả kinh tế ấn tượng, mọi
mặt của đời sống kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi sâu sắc, tồn diện, song cũng đặt ra
nhiều thách thức mới cho các doanh nghiệp. Những địi hỏi từ các cơng ty quốc tế, các
nhà nhập khẩu hàng hóa Việt Nam và người tiêu dùng đối với các doanh nghiệp trong
việc tuân thủ các chuẩn mực toàn cầu về an toàn lao động, chăm sóc sức khỏe người
lao động, bảo vệ mơi trường ngày càng gia tăng. Luật chơi trong thời hội nhập đòi hỏi
các doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ các vấn đề trên nếu khơng muốn rời khỏi
“cuộc chơi”. Điều đó gắn liền với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bởi nó bao
hàm tồn bộ những khía cạnh trên.
Việt Nam đã trở thành một trong những nước đạt mức thu nhập trung bình và
từng bước thốt nghèo, là thành viên của nhiều tổ chức trong khu vực và quốc tế. Sự

hội nhập quốc tế một cách toàn diện và sâu rộng sẽ đem lại nhiều thách thức mới cho
doanh nghiệp Việt Nam, nhất là trong bối cảnh ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
toàn cầu, tái cấu trúc và chuyển dịch nền kinh tế. Ở nước ta hiện nay chủ yếu là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, ở đó cịn tồn tại nhiều hạn chế trong việc đảm bảo môi trường lao
động, phúc lợi lao động cho người lao động và thực hiện những trách nhiệm cần thiết
của doanh nghiệp đối với xã hội.
4


Hiện nay, một số nhà lãnh đạo doanh nghiệp đã nhận ra tầm quan trọng của
trách nhiệm xã hội đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, cũng như gia tăng
lợi thế cạnh tranh của mình. Các doanh nghiệp đi đầu trong việc thực hiện trách nhiệm
xã hội một cách bài bản, có chiến lược tại Việt Nam đa phần là các doanh nghiệp đa
quốc gia và một số doanh nghiệp lớn của Việt Nam. Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp Việt Nam có thể được coi là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc
phát triển kinh tế bền vững thông qua những việc làm nâng cao chất lượng đời sống
của người lao động và các thành viên trong gia đình họ, theo cách có lợi cho doanh
nghiệp, cũng như sự phát triển chung của xã hội, đó cũng chính là đạo đức của doanh
nghiệp.
Ý thức được vấn đề này, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là
đòi hỏi khách quan và cấp thiết đối với các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, vì thế
chúng tơi chọn đề tài “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay” để
làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lý luận về đạo đức trong kinh doanh, trách
nhiệm xã hội của các doanh nghiệp và từ thực trạng việc thực hiện trách nhiệm xã hội
của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, khóa luận luận hướng đến xây dựng các giải
pháp nhằm phát huy một cách có hiệu quả trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vì sự
phát triển bền vững trong sản xuất, kinh doanh.

- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Trình bày khái quát lý luận về đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội của
các doanh nghiệp.
+ Phân tích thực trạng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
+ Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
5


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp ở Việt Nam trong quá
trình thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội của mình.
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở việc xem xét quá trình thực hiện trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp, một số doanh nghiệp điển hình trong thực hiện trách
nhiệm xã hội, những phương pháp, cách thức của các công ty xây dựng các tiêu chuẩn,
Bộ quy tắc ứng xử và phát triển trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp để tổng hợp, so sánh, đánh giá thực
tiễn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Khóa luận là tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành triết học, phục vụ
trong học tập và nghiên cứu môn Triết học, Triết học xã hội, Kinh tế chính trị.
Là tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý nhà nước tiếp tục nghiên cứu lựa
chọn các giải pháp nhằm thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp ở Việt
Nam
6. Bố cục đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm
có hai chương (năm tiết).
7. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Đạo đức và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hiện nay đang là vấn đề thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học ở trong và ngoài nước. Hiện nay, ở trong
nước đã có nhiều cơng trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ và phương diện khác nhau về
vấn đề này. Nhằm tạo điều kiện thuận tiện cho nghiên cứu, có thể phân chia thành các nhóm
vấn đề cơ bản sau:
- Thứ nhất, các nhóm cơng trình nghiên cứu khái niệm đạo đức và đạo đức kinh
doanh. Đây là nhóm các cơng trình nghiên cứu và luận giải các vấn đề đạo đức của các
doanh nghiệp khi tham gia sản xuất kinh doanh. Nhiều nhất trong nhóm này là các tác phẩm
6


về đạo đức kinh doanh, đạo đức của người quản lý doanh nghiệp. Chẳng hạn như: “Môi
trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh”, do Ngơ Đình Giao (chủ biên), Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội, 1997. Tác giả đã đề cập những vấn đề rất cơ bản trong kinh
doanh là môi trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh. Trong đó, tác giả làm rõ sự
cần thiết phải nghiên cứu môi trường trong kinh doanh, các yếu tố thuộc mơi trường
kinh doanh và yếu tố văn hố có ảnh hưởng đến kinh doanh, tác giả cho rằng, trách
nhiệm xã hội trong kinh doanh là cần thiết đối với các doanh nghiệp… Ngồi ra, các
tác giả cịn tập trung làm rõ những khái niệm có liên quan như: đạo đức, đạo đức kinh
doanh… trên cơ sở đó, đưa ra các quan điểm đánh giá đạo đức kinh doanh, hay cuốn
“Giáo trình đạo đức kinh doanh và văn hố cơng ty” do Nguyễn Mạnh Quân (chủ biên
), Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2007. Trong đó, tác giả đã tập
trung làm rõ các khái niệm liên quan đến đạo đức kinh doanh, văn hố cơng ty, trách
nhiệm xã hội, thương hiệu và sự xuất hiện các vấn đề đạo đức trong kinh doanh. Đặc
biệt, cuốn sách giới thiệu cách tiếp cận với quá trình ra quyết định về hành vi đạo đức
và các công cụ phân tích hành vi đạo đức trong kinh doanh với mục đích là nhằm cung
cấp phương pháp và cơng cụ phân tích hành vi đạo đức trong kinh doanh, tác giả giới

thiệu một số vấn đề đạo đức kinh doanh điển hình thơng qua các tình huống cụ thể về
những vấn đề thực tiễn.
Mai Ngọc Cường, Vũ Thành Hưng, Bùi Anh Tuấn trong cuốn “Đạo đức kinh
doanh: lý thuyết và thực hành” (1996), Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, lại tiếp cận
vấn đề từ góc độ khác. Các tác giả đã làm sáng tỏ những nguyên lý cơ bản về đạo đức
kinh doanh: vai trò, tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh, lịch sử các tư tưởng về
đạo đức kinh doanh và cơ sở triết học của lý thuyết đạo đức kinh doanh. Đồng thời
làm sáng tỏ các chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc xác định hành vi đạo đức. Trên nền
tảng những nguyên lý cơ bản về đạo đức kinh doanh, tập thể tác giả đã vận dụng
những tư tưởng cơ bản của đạo đức kinh doanh vào thực tiễn thơng qua việc nghiên
cứu các tình huống và chiến lược nâng cao đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp ở
phần sau.
- Thứ hai, nhóm các cơng trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Các cơng trình nghiên cứu thuộc nhóm này đã đề cập đến việc doanh nghiệp đã chia sẻ
gánh nặng xã hội cùng nhà nước, xem đây là nghĩa vụ của doanh nghiệp và cũng là điều
kiện cho quá trình phát triển bền vững. Cuốn sách “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”
7


ca tỏc gi Michel Capron, Franỗoise Quairel-Lanoizelộe, do tp th Lê Minh Tiến,
Phạm Như Hồ dịch sang tiếng Việt và Nhà xuất bản Tri thức ấn hành năm 2009. Trong
tác phẩm này, tập thể các tác giả đã giới thiệu những lối tiếp cận khác nhau về khái
niệm “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”, phân tích những tác động của các thành
phần có liên quan đối với doanh nghiệp, những diễn ngôn, những hành động và các
khuynh hướng hiện nay, làm sáng tỏ những mâu thuẫn và các giới hạn của trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp trong mối tương quan với các mục tiêu phát triển bền vững.
Qua đó, tác phẩm cũng đề xuất một cách nhìn mới về các mối quan hệ giữa các hoạt
động kinh tế với xã hội, đồng thời cũng gợi mở những góc độ tư duy hữu ích cả cho
giới nghiên cứu lẫn những người làm công tác thực tiễn (hoạt động trong các lĩnh vực
kinh tế, nghiệp đoàn, các tổ chức phi chính phủ...)

- Thứ ba, các bài báo viết về đạo đức và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở
nước ta hiện nay. Trong nhóm các nghiên cứu này phải kể đến các cơng trình cụ thể sau:
“Nhìn nhận của người dân về đạo đức kinh doanh của các chủ doanh nghiệp tư
nhân”. Tạp chí Tâm lý học - Số 5/ 2006. Đây là bài viết ra đời đã lâu nhưng lại có
nhiều ý nghĩa quan trọng. Tác giả đã xây dựng thang đo đánh giá của người dân Hà
Nội về đạo đức kinh doanh của các chủ doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn phát
triển kinh tế hiện nay ở nước ta. Theo tác giả, các chủ doanh nghiệp tư nhân tuy có
nhiều đóng góp trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội hiện nay nhưng không vì thế
mà người dân xố nhịa, san bằng tất cả cái tốt và cái xấu trong hoạt động kinh doanh
của các chủ doanh nghiệp tư nhân. Trái lại, càng kỳ vọng bao nhiêu ở sự đóng góp của
các chủ doanh nghiệp tư nhân đối với cộng đồng, với xã hội người dân càng có xu
hướng nhìn nhận khắt khe hơn, yêu cầu cao hơn đối với họ. Bài viết:“ Tìm hiểu trách
nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam” của tác giả Phạm Văn
Đức, đăng trên trang nghiên cứu Hàn Quốc, tháng 5/ 2013. Trong bài viết này, tác giả
đã nêu lên những vấn đề lý luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, bên cạnh đó
là các vấn đề thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Ngồi ra, có thể kể đến các bài viết trên trang Thông tin pháp luật, các bài viết
như: “Vai trò doanh nghiệp trong thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay”, ra
ngày 19/1/2010. “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Nhận thức và thực tế ở Việt
Nam” của Trần Hồng Minh, ngày 1/5/2009…

8


Đáng chú ý là các bài đăng trên Tạp chí Triết học với một loạt bài viết của
nhiều tác giả liên quan đến chủ đề của đề tài. Trong đó, một số bài viết đã giải quyết
vấn đề từ phương diện triết học, chẳng hạn như, bài “Về vai trò của đạo đức kinh
doanh và việc xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay” của tác giả Duy Huy,
đăng trên Tạp chí Triết học, số 2, tháng 4 năm 2001, bài báo:“Xây dựng đạo đức kinh
doanh - Cơ sở cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” của Đỗ Thị

Kim Hoa (Tạp chí Triết học, số 10, tháng 10 năm 2009), bài “Vấn đề xây dựng đạo
đức nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Văn
Phúc. (Tạp chí Triết học, số 7, tháng 10 năm 2001); bài “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo
đức” của Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết học, số 9, tháng 12 năm 2001)…
Trong quá trình nghiên cứu, hồn thành khóa luận của mình, tác giả cịn tham
khảo nhiều tài liệu có liên quan đến đạo đức kinh doanh như: các bài viết của các nhà
khoa học trong nước; các bài báo, các sách của nước ngoài đã được công bố và dịch
sang tiếng Việt, cùng những tài liệu có liên quan đến chủ đề của đề tài.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích các khía cạnh cụ thể khác nhau với
những nội dung rất phong phú và đa dạng ở mức độ nông sâu khác nhau về vấn trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Song, đạo đức xã hội nói chung, đạo đức doanh
nghiệp và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói riêng, với tư cách là một hình thái
ý thức xã hội phản ánh sự biến đổi của tồn tại xã hội, cũng ln có sự biến đổi cùng
với sự biến đổi của kinh tế thị trường. Do đó, hệ thống hố, phân tích thực trạng đạo
đức và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, đặc biệt làm rõ vai trò
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những phương hướng và giải pháp
nhằm nâng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với xã hội hiện nay là một hướng
mới mà người viết tiếp tục nghiên cứu.

9


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1. Đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
1.1.1. Vài nét về đạo đức kinh doanh
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, là sự phản ánh tồn tại xã hội, là
một bộ phận của kiến trúc thượng tầng như chính trị, pháp luật, tôn giáo, khoa học,
nghệ thuật. Trong xã hội có giai cấp, tư tưởng đạo đức thống trị trong xã hội là tư

tưởng đạo đức của giai cấp giữ địa vị thống trị về kinh tế. Giai cấp giữ địa vị thống trị
về kinh tế dựa vào bộ máy nhà nước để tuyên truyền, giáo dục và thể chế hố tư tưởng
đạo đức của mình thành những ngun tắc chuẩn mực đạo đức, biến nó trở thành
thước đo đánh giá, điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội, phù hợp với lợi
ích của nó.
Xét cho đến cùng thì mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước cho đến nay đều là
sản phẩm của tình hình kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Trong các
xã hội có sự phân chia giai cấp, tư tưởng đạo đức mang tính giai cấp, mỗi giai cấp có
đạo đức riêng của giai cấp mình, nó phản ánh các quan hệ thực tiễn làm cơ sở cho vị
trí giai cấp của mình. Ngày nay, đạo đức được hiểu và định nghĩa như sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và ứng xử của con người trong
quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. [21, tr.215]
Khi phân tích khái niệm về đạo đức cần chú ý các điểm sau:
Thứ nhất, đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên
tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với
nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai chúng
được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Thứ hai, đạo đức là một phương thức để điều chỉnh hành vi của con người.
Trong cuộc sống của mình, con người khơng ngừng sáng tạo ra các phương thức để
chế ngự và điều chỉnh hành vi của mình. Đó là tập qn, phong tục, tôn giáo, pháp
luật, đạo đức… Riêng với đạo đức, con người đã tạo ra những khuôn phép chuẩn mực
10


và các quy tắc đạo đức đã biểu hiện thành khái niệm về điều thiện và điều ác, đúng và
sai, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa…Trong bất kỳ thời đại nào con người cũng
soi mình vào các giá trị đó để được đánh giá.
Thứ ba, đạo đức là một hệ thống các giá trị. Giá trị đạo đức, nhìn từ góc độ cấu

thành hệ thống các giá trị tinh thần của đời sống xã hội, là một hình thái của giá trị tinh
thần, có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau với các giá trị khoa học, giá trị thẩm mỹ,
giá trị chính trị… Về bản chất, giá trị đạo đức mang tính xã hội.
Từ phạm trù đạo đức vừa được trình bày ở trên, đạo đức kinh doanh chỉ bắt đầu
được nghiên cứu nghiêm túc và phát triển thành một môn khoa học, cả về lý luận và thực
hành vào nửa sau thế kỷ XX ở các nước công nghiệp phát triển phương Tây.
Đạo đức trong kinh doanh là sự vận dụng, thực thi những giá trị, chuẩn mực, khuôn
mẫu, biểu tượng đạo đức của cộng đồng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Về bản
chất, đạo đức kinh doanh là đạo đức nghề nghiệp được thể hiện trong một lĩnh vực hoạt
động cụ thể, đó là lĩnh vực kinh doanh.
Từ khi được chính thức sử dụng, thuật ngữ “Đạo đức kinh doanh” đã trở thành
chủ đề tranh luận không ngừng nghỉ của các nhà lãnh đạo trong giới kinh doanh, người
lao động, các cổ đông, người tiêu dùng và cả các giáo sư đang giảng dạy tại nhiều
trường đại học trên thế giới. Cho đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về đạo đức kinh
doanh. Về cơ bản có hai xu hướng sau:
Một là, những quan điểm cho rằng đạo đức cũng như trách nhiệm xã hội, nó
khơng cần phải gắn với vấn đề kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hai là, các tư tưởng ủng hộ việc đưa đạo đức gắn kết với quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp.
Trên phương diện triết học, nhiều nhà triết học đã có nhiều nghiên cứu và góp phần
lý giải nhiều vấn đề cơ bản liên quan đến đạo đức kinh doanh, đặc biệt là cơ sở đạo đức của
các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như các đặc trưng của những mối quan hệ đó.
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề đạo đức kinh doanh vẫn được xem là vấn đề còn khá
mới mẻ, các giáo trình phục vụ dạy học cũng như sách liên quan khơng có nhiều. Một số
sách được dịch từ Hoa Kỳ ra tiếng Việt nhưng với số lượng phát hành còn khá hạn chế.
Trong thời gian gần đây, đã xuất hiện nhiều bài báo viết về đạo đức kinh doanh dưới nhiều
11


góc nhìn khác nhau. Số lượng bài viết về đạo đức kinh doanh chủ yếu đăng tải trên internet

ngày càng tăng, nội dung khá phong phú và mang tính thực tiễn cao, đã góp phần giúp cho
các nhà nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn về đạo đức kinh doanh có cái nhìn thực tế về
những vấn đề quan trọng này.
Trong các giáo trình giảng dạy về đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay đều đưa ra
định nghĩa dưới dạng khái quát và đơn giản như sau:
Đạo đức kinh doanh là những quy tắc được xã hội chấp nhận để phân định hành vi
của chủ thể doanh nghiệp là đúng hay sai, là có đạo đức hay khơng có đạo đức để trên cơ
sở đó nhằm điều chỉnh hành vi của các nhà kinh doanh.
Theo định nghĩa này, thì “đạo đức kinh doanh lại có nhiều điểm chung với sự tuân
thủ luật pháp, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”. [46, tr.109] Điều này đồng nghĩa với
việc đạo đức kinh doanh không chỉ là việc tuân thủ pháp luật mà còn quan tâm đến các vấn
đề bảo vệ quyền lợi cho những đối tượng liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp và
cộng đồng.
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm xã hội
Nếu như đạo đức kinh doanh xuất hiện rất sớm cùng song hành với ngành
thương mại, thì thuật ngữ “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” chính thức xuất
hiện từ những năm 1950, “chính tác giả người Mỹ đã đưa ra khái niệm trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp (corporate social responsibility - CSR) dựa trên mối bận tâm về
mặt đạo đức và tơn giáo”. [30, tr.13] Đó chính là H.R.Bowen, ơng đã cơng bố cuốn
sách của mình với nhan đề “Trách nhiệm xã hội của doanh nhân” (Social
Responsibilities of the Businessmen, 1953) nhằm mục đích tuyên truyền và kêu gọi
người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích của người khác, theo
nguyên tắc bác ái, theo đó bổn phận của con người là phải giúp đỡ lẫn nhau. Ơng kêu
gọi lịng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các doanh nghiệp làm tổn hại cho
xã hội. Đây là một quan niệm “nhấn mạnh lòng từ thiện với tư cách là hệ luận của
nguyên tắc trách nhiệm cá nhân nhằm mục đích sửa chữa những khuyết tật của hệ
thống và bồi hoàn cho những lạm dụng và vi phạm, hơn là ngăn ngừa dự liệu nhằm
tránh những thiệt hại do hoạt động của doanh nghiệp gây ra”. [30, tr.17]
Là một mục sư, ông muốn xây dựng một học thuyết xã hội cho Giáo hội Tin
lành có thể sánh cùng với học thuyết của Giáo hội Cơng giáo. Do đó, quan niệm của

12


ông đã tạo ra một ảnh hưởng sâu sắc trong những quan niệm về trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp tại Hoa Kỳ.
Trong nửa sau thế kỷ XX, “thuật ngữ trách nhiệm xã hội vẫn còn rất mới ở châu
Âu”. [30, tr.18] Điều này một phần là do mức độ bảo hộ xã hội đã được định chế hóa
cao nên đã làm cho các hoạt động từ thiện trở nên mờ nhạt. Một phần khác là do sự
thỏa thuận tập thể giữa doanh nghiệp và người lao động ở cấp quốc gia và cấp hội
ngành nghề tại nhiều nước đã tăng quyền cho các doanh nghiệp và ngược lại đối với
lao động. Sự phát triển và lan rộng khắp nơi của mơ hình Taylor – Ford trong lĩnh vực
quản trị doanh nghiệp đã xóa bỏ dần mơ hình gia trưởng cổ điển. Mơ hình Taylor –
Ford “xem các vấn đề riêng tư của người lao động khơng hề có liên hệ gì đến trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp, nó lấy sự lớn mạnh của mơ hình nhà nước phúc lợi
với những định chế xã hội mới thay thế cho lòng bác ái của giới chủ”, [30, tr.15]
Đồng nghĩa với việc trách nhiệm xã hội là của chính phủ chứ khơng phải của
doanh nghiệp. Nhưng cả hai mơ hình của Ford và mơ hình nhà nước phúc lợi đều đi
vào thối trào, tình trạng mất an ninh xã hội, những vụ scandal tài chính gia tăng…,
thế giới cần đến một quan niệm rõ ràng hơn về vấn đề này. Điều này đã làm xuất hiện
một quan điểm minh bạch về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Châu Âu trong
những năm 1990. Đầu tiên là sự xuất hiện các thuật ngữ mới như: doanh nghiệp công
dân (entreprise citoyenne), doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội (entreprise socialement
responsable), doanh nghiệp có đạo đức (entreprise esthique)… và sau đó là những
quan điểm mang tính chất như một khái niệm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Với việc thuật ngữ “trách nhiệm xã hội” được sử dụng rộng rãi là điều kiện cho
một cuộc tranh luận kéo dài giữa hai quan điểm ủng hộ và phản đối.
Một là, những quan điểm đối lập.
Trong đại bộ phận giới kinh doanh tại Hoa Kỳ, “do chịu những ảnh hưởng nhất
định của trường phái Chicago nên đã có những quan điểm đối lập hồn toàn với trách
nhiệm xã hội, ngay cả khi thuật ngữ này còn chưa ra đời”. [30, tr.35]

Năm 1958, Levitt đã đưa ra những cảnh báo về những nguy cơ mà các doanh
nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội. Theo đó các doanh nghiệp không thể chịu trách
nhiệm như các cơ quan cơng cộng được vì theo ơng thì các nhà lãnh đạo của doanh
nghiệp không phải là những người được bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.
13


Từ đó đã tạo điều kiện cho Friedman nói rằng: “Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp khơng
có trách nhiệm nào khác ngoài trách nhiệm tạo ra càng nhiều tiền càng tốt cho các cổ
đơng của mình”. [30, tr.36] Nhưng ơng cũng rất cẩn trọng khi nói thêm: “Nếu việc
thực hiện trách nhiệm xã hội giúp cho doanh nghiệp tối đa hóa được lợi nhuận thì
doanh nghiệp nhất định phải đi theo con đường này”. [30, tr.36].
Hai là, những quan điểm đồng thuận.
Trong những quan điểm đồng thuận vẫn có nhiều vấn đề khó dung hịa trong
những quan niệm về trách nhiệm xã hội, đặc biệt là việc xác định lợi ích của khái
niệm. Có thể kể đến B. Perrow, một trong những nhà nghiên cứu lý thuyết có ảnh
hưởng lớn hiện nay trong các lĩnh vực về khoa học tổ chức. Ông đã nhận diện trách
nhiệm xã hội như một cơ chế có hiệu ứng rõ ràng, hướng doanh nghiệp khai thác tối
ưu nhất đối với mơi trường. Ơng đã dùng những lời lẽ như một sự động viên dành cho
các doanh nghiệp rằng, trách nhiệm xã hội sẽ mang lại những nguồn lợi lớn và đó như
là một chiến lược cho sự phát triển bền vững.
Về định nghĩa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Keith Davis (1973) đã
từng đưa ra một khái niệm khá rộng. Theo ông, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
là sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp với các vấn đề vượt ra ngoài việc thỏa
mãn những yêu cầu pháp lý, kinh tế, con người. Trên bình diện khu vực, Ủy ban Châu
Âu công nhận trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ rất sớm. Theo đó thì, “trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp là việc doanh nghiệp đưa mối quan tâm về xã hội và
môi trường vào các hoạt động kinh doanh và mối quan hệ của họ với các cổ đơng của
mình, trên cơ sở tự nguyện”. [46, tr.171]
Xét ở tầm vi mô, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thể hiện ở ba nội dung

cơ bản: Thứ nhất, là doanh nghiệp phải thực hiện các chiến dịch làm từ thiện; thứ hai,
là doanh nghiệp phải có trách nhiệm đối với xã hội như là một nhánh của việc quản trị
rủi ro và thứ ba, là cam kết minh bạch trong các hoạt động sử dụng lao động như:
không sử dụng lao động trẻ em, gây hại môi trường, cam kết cạnh tranh lành mạnh.
Tuy nhiên, từ đó đến nay thuật ngữ “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” vẫn
đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một số người xác định “trách nhiệm xã hội
hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp với các quy phạm, giá trị
và kỳ vọng xã hội đang phổ biến” (Prakash, Sethi, 1975). Một số người khác hiểu
14


“Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế,
luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định”
(Archie. B Carroll, 1979)…
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, người ta thường sử dụng định nghĩa
của Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới về trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp. Theo đó, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social
Responsibility – CSR) là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển
kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của
người lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và tồn xã hội, theo cách
có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội.
1.1.3. Những biểu hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập tồn cầu hố kinh
tế hiện nay biểu hiện dưới những góc cạnh sau:
+ Trách nhiệm với thị trường
Doanh nghiệp cam kết minh bạch trong kinh doanh, cung cấp thơng tin về tài
chính và hoạt động kinh doanh cho cổ đông và công chúng. Cam kết khơng có hành vi
hối lộ, tham nhũng. Ngồi ra, doanh nghiệp còn phải tuân thủ luật pháp quốc tế và
trong nước. Xây dựng và thực hiện các quy chuẩn đạo đức kinh doanh, bảo vệ sức
khỏe người tiêu dùng.

+ Bảo vệ môi trường.
Vấn đề này thể hiện ở những hành động của doanh nghiệp trong khai thác và sử
dụng tài nguyên bền vững. Bảo vệ môi trường sống trong sạch, gắn kết sản xuất kinh
doanh với bảo vệ môi trường như là mục tiêu chiến lược lâu dài cho sự phát triển của
bản thân doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải có trách nhiệm áp dụng các cơng nghệ và
biện pháp xử lý nước thải không gây nguy hại đến môi trường và biến đổi khí hậu.
+ Quan hệ tốt với người lao động.
Đây là việc buộc các doanh nghiệp phải thực hiện trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Doanh nghiệp phải cảm kết khơng có lao động trẻ em, khơng có lao động
cưỡng bức, khơng phân biệt đối xử trong tuyển mộ và áp dụng các hình thức kỷ luật,
tự do hiệp hội, thương lượng tập thể, thực hiện đúng quy định về thời giờ làm việc,
15


thực hiện đúng hợp đồng lao động và chế độ tiền lương phù hợp, đảm bảo môi trường
làm việc an toàn, an toàn sức khỏe nghề nghiệp và các chế độ đãi ngộ: ăn, nước uống,
nhà vệ sinh, nhà ở, phương tiện đi lại đối với cơng nhân.
+ Đóng góp cho với cộng đồng xã hội.
Trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng được hiểu rộng hơn là các hoạt động từ
thiện. Bên cạnh các nghĩa vụ pháp lý, doanh nghiệp cần phải tích cực tham gia vào các
hoạt động từ thiện, đây được xem là việc làm thiết thực của các doanh nghiệp kinh
doanh có đạo đức, đồng thời cũng là cơ hội để các doanh nghiệp quảng bá hình ảnh và
thương hiệu của mình. Bên cạnh đó, trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng còn là cách
thức doanh nghiệp tạo ra những điều kiện làm việc tốt đối với người lao động, phát
triển nguồn nhân lực cũng như nhiều hoạt động phúc lợi khác như: hỗ trợ cho giáo
dục, hỗ trợ cho các chương trình nước sạch… Doanh nghiệp cũng phải thực hiện việc
giữ gìn và bảo tồn các di sản, văn hóa cộng đồng khi thực hiện sản xuất kinh doanh.
Diễn giải cụ thể hơn, mỗi doanh nghiệp khi đã tự quyết định một cách tự
nguyện về thực hiện trách nhiệm xã hội của mình thì bên cạnh những đóng góp, chi
phí vì lợi ích cộng đồng xã hội đương nhiên họ sẽ có những lợi ích riêng trong kinh

doanh thơng qua các hoạt động, đó là:
- Bảo vệ thương hiệu không bị xã hội chỉ trích; nâng cao uy tín của sản phẩm
một cách bền vững, mở rộng thị trường và tạo lập ưu thế về giá cả, được tham gia các
chương trình đầu tư phát triển doanh nghiệp vì trách nhiệm xã hội.
- Duy trì hoặc ký thêm hợp đồng kinh tế với các đối tác đầu tư, bạn hàng. Có
thêm điều kiện để mở rộng quy mơ sản xuất, hiện đại hố cơng nghệ, tăng năng suất và
chất lượng sản phẩm, tăng việc làm, giảm số cơng nhân bỏ việc, tăng uy tín xã hội để
doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao, dễ dàng hoạt động hơn.
- Có thêm điều kiện vật chất để cải thiện đời sống người lao động. Cụ thể là
tăng thu nhập, nâng cao hơn chất lượng cuộc sống và sức khỏe cho người lao động và
gia đình họ, hỗ trợ người lao động thực hiện tốt hơn luật pháp lao động và mở rộng
hơn khả năng bảo hiểm y tế, xã hội cho họ…
Bên cạnh đó, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp còn được thể hiện cụ thể
trên các yếu tố khác, các mặt như:

16


+ Bảo đảm lợi ích và sự oan tồn cho người tiêu dùng
+ Thực hiện tốt trách nhiệm với nhà cung cấp dịch vụ
+ Đảm bảo lợi ích cho các cổ đông …
1. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Thứ nhất, quy định của pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường, các quyền tự do kinh doanh của công dân, tự do
cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như các quyền năng động sáng tạo của họ phải
được ghi nhận. Đồng thời để ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực như cạnh tranh không
lành mạnh, gian dối, lừa đảo trong các hoạt động của doanh nghiệp... nên không thể
thiếu được sự quản lý của nhà nước trên cơ sở pháp luật đối với toàn bộ nền kinh tế,
đây là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp đảm bảo thực hiện trách nhiệm xã hội của
mình. Với ý nghĩa nêu trên, quy định của pháp luật đóng vai trị hết sức quan trọng.

Thơng qua các quy định của pháp luật, Nhà nước đã thể chế hố các đường lối,
chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng thành các quy định pháp lý có tính chất bắt
buộc chung đối với các doanh nghiệp. Pháp luật tạo hành lang pháp lý thuận lợi để các
doanh nghiệp đầu tư kinh doanh thúc đẩy nền kinh tế ổn định và tăng trưởng; là cơ sở
pháp lý xác định địa vị pháp lý cho các doanh nghiệp với đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ pháp lý của mình. Pháp luật điều chỉnh các hành vi kinh doanh của các doanh
nghiệp, đảm bảo hoạt động kinh doanh diễn ra lành mạnh, đảm bảo các doanh nghiệp
tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ kinh tế, pháp lý, đạo đức và nhân văn.
Các doanh nghiệp tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật trong hoạt động sản
xuất kinh doanh sẽ đạt được hiệu quả kinh tế cao. Các doanh nghiệp với tư cách là một chủ
thể kinh doanh trên thị trường luôn được xác định với mối quan hệ ràng buộc với các chủ
thể khác. Để cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thuận lợi, không ảnh hưởng,
khơng xâm phạm đến các lợi ích giữa các doanh nghiệp với nhau, pháp luật đóng vai trị
giải quyết, điều hịa các mâu thuẫn lợi ích tạo ra mơi trường kinh doanh lành mạnh. Pháp
luật bắt buộc các doanh nghiệp đảm bảo hoạt động đúng theo cam kết với pháp luật về kinh
doanh, chất lượng sản phẩm, việc thực hiện các nghĩa vụ về bảo vệ môi trường và các chế
đội đối với người lao động…

17


Quy định của pháp luật là cơ sở, là nền tảng của trách nhiệm xã hội. Đây là tiêu
chí ràng buộc cho các doanh nghiệp phải hướng tới và phải thực hiện để đạt được hiệu
quả kinh tế cao. Các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp khi đã tuân thủ theo các quy
định của pháp luật thì sẽ tạo được một mơi trường pháp lý, trong đó các doanh nghiệp
hoạt động theo một mục tiêu đúng đắn, tạo nên môi trường kinh doanh cơng bằng,
bình đẳng, thơng thống và tạo sự gần gũi giữa các doanh nghiệp với nhau.
Thứ hai, nhận thức của xã hội.
Khi xã hội phát triển cao đồng nghĩa với mức sống của cộng đồng được nâng
cao, do đó nhu cầu của con người cũng phát triển theo. Theo Abraham Maslow thì con

người càng cố gắng thỏa mãn những nhu cầu và khi nhu cầu nào đó được thỏa mãn lại
xuất hiện những nhu cầu tiếp theo, ban đầu là nhu cầu sinh lý (ăn, mặc, ở,…); sau đó
đến nhu cầu an tồn, được bảo vệ; nhu cầu xã hội (các vấn đề về tình cảm); nhu cầu
được tơn trọng, được cơng nhận, có địa vị; cuối cùng là nhu cầu tự khẳng định, tự phát
triển và tự thể hiện mình.
Nền kinh tế xã hội càng phát triển thì nhu cầu của con người ngày càng cao ,
chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường ngày càng ngắn lại. Cùng với đó, các yêu
cầu về tiêu chuẩn chất lượng đối với sản phẩm của các doanh nghiệp cũng tăng lên. Do
đó, các doanh nghiệp muốn tăng trưởng bền vững, hoạt động kinh doanh có hiệu quả
thì phải thay đổi để thích ứng với sự phát triển của xã hội. Trong đó, việc cam kết về
chất lượng sản phẩm tạo ra; việc bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, việc
thực hiện tốt các chính sách đối với người lao động… giúp cho các doanh nghiệp
khẳng định được giá trị thương hiệu của mình. Từ đó, giá trị thương hiệu, uy tín giúp
doanh nghiệp tăng doanh thu hấp dẫn các đối tác, nhà đầu tư và người lao động. Trên
thế giới, những công ty khổng lồ đang chi một khoản tiền rất lớn để trở thành hình
mẫu kinh doanh lý tưởng. Chẳng hạn, hãng điện tử dân dụng Best Buy đã có chương
trình tái chế sản phẩm; hãng cà phê nổi tiếng Starbucks đã và đang bắt tay vào các hoạt
động cộng đồng; hãng nước khoáng nổi tiếng của Pháp Evian phân phối sản phẩm của
mình trong những chai nước thân thiện với môi trường. Những tập đoàn đa quốc gia
như The Body Shop (tập đoàn của Anh chuyên sản xuất các sản phẩm dưỡng da và
tóc) và IKEA (tập đồn kinh doanh đồ dùng nội thất của Thụy Điển) là những ví dụ
điển hình. Cả hai cơng ty này đều nổi tiếng khơng chỉ vì các sản phẩm có chất lượng

18


và giá cả hợp lý của mình, mà cịn nổi tiếng là các doanh nghiệp có trách nhiệm đối
với mơi trường và xã hội.
Thứ ba, q trình tồn cầu hóa và sức mạnh của thị trường.
Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới hiện nay đang chuyển

thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thơng qua các mạng lưới cơng nghệ
thơng tin. Tồn cầu hóa địi hỏi các quyết định kinh tế của mỗi doanh nghiệp, dù được
đưa ra ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đều phải tính tới các yếu tố thương mại quốc tế.
Từ cuối thế kỷ XX trở lại đây, sự chuyển dịch hàng hóa, dịch vụ và các nguồn vốn đầu
tư giữa các nước gia tăng ngày càng nhanh, tạo ra sự biến đổi về chất so với trước
đây.Xu thế mới nhất trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới và cũng là xu thế cơ
bản của cạnh tranh quốc tế ngày nay là một mặt, tất cả các nước đều phải gia tăng thực
lực kinh tế của mình và lấy đó làm điểm tựa chính để mở rộng khả năng tham dự vào
cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên phạm vi toàn cầu; mặt khác, cuộc cạnh tranh
quốc tế lấy thực lực kinh tế làm cốt lõi có xu hướng ngày càng quyết liệt đó cũng
khiến cho nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng quốc tế hóa và tập đồn hóa khu
vực.Tồn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa kinh tế khu vực làm gia tăng sự liên kết trực
tiếp giữa các doanh nghiệp của các nước, nhưng đồng thời cũng buộc các doanh
nghiệp phải trực tiếp cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt. Sức mạnh của thị trường
đã và đang đặt ra cho các nhà kinh doanh sự cạnh tranh khốc liệt về trách nhiệm xã hội
và đạo đức kinh doanh dựa trên nền tảng sự tác động tổng hợp hành vi ứng xử, tới
quyết định lựa chọn của người tiêu dùng. Lúc đó, trách nhiệm xã hội và đạo đức kinh
doanh là nguồn lực, nguồn vốn mới cho doanh nghiệp trong cạnh tranh quốc tế. Chính
hai nguồn lực này sẽ tác động và thúc đẩy người tiêu dùng thay đổi quan niệm tiêu
dùng của họ. Việc thực hiện trách nhiệm xã hội, bắt đầu từ những vấn đề cơ bản như
môi trường và lao động; tiết kiệm năng lương và tài nguyên; tạo môi trương làm việc
tốt, an toàn, bảo đảm sức khỏe cho người lao động sẽ giúp doanh nghiệp tạo uy tín, giá
trị thương hiệu, tăng hiệu quả trong hoạt động cạnh tranh với các doanh nghiệp khác
trong bối cảnh tồn cầu hóa.
1.2. Những nội dung cơ bản về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
1.2.1. Trách nhiệm của các thành viên doanh nghiệp

19



Các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm đối với xã hội cũng đồng nghĩa với việc
kinh doanh có đạo đức. Hiện nay có khá nhiều cách tiếp cận vấn đề khi xem xét nội dung
nào để doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội của mình. Nhưng về cơ bản đều thừa
nhận nội dung mà Carroll đưa ra và được mơ phỏng theo hình kim tự tháp. Theo đó, doanh
nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội là thực hiện các nghĩa vụ kinh tế, pháp lý, đạo đức và
nhân văn.
- Nghĩa vụ kinh tế
Nghĩa vụ kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp quan tâm đến cách
thức phân bổ trong hệ thống xã hội, các nguồn lực để làm ra sản phẩm và dịch vụ. Trong
các nguồn lực xã hội dùng cho hoạt động kinh doanh, tài chính là một trong những nguồn
lực quan trọng nhất và có ảnh hưởng quyết định nhất. Sản xuất hàng hóa cũng nhằm thỏa
mãn người tiêu dùng và phúc lợi của nó cũng nhằm mục đích vào chi trả tiền công cho
người lao động.
Đối với người tiêu dùng và những người lao động, nghĩa vụ kinh tế của doanh
nghiệp là cung cấp sản phẩm chất lượng và các sản phẩm dịch vụ, an tồn thực phẩm, định
giá, thơng tin về sản phẩm, phân phối… Lợi ích của người tiêu dùng trở thành quyền chính
đáng và khả năng hợp lý khi lựa chọn và sử dụng hàng hóa và dịch vụ để thỏa mãn những
nhu cầu của bản thân và gia đình. Doanh nghiệp phải tạo cho người lao động có những cơ
hội việc làm ngang nhau, cơ hội phát triển nghề và nâng cao trình độ chun mơn nghề
nghiệp, họ có cơng ăn việc làm ổn định với những mức lương tương xứng, được làm việc
trong một môi trường đảm bảo an toàn lao động và vệ sinh và các quyền riêng tư cơ bản khi
làm việc. Đối với các tổ chức thuộc cấu trúc của doanh nghiệp thì đó là việc tìm kiếm
nguồn nhân lực mới, thúc đầy những tiến bộ của khoa học – kĩ thuật để phát triển sản phẩm.
Trong khi thực hiện nghĩa vụ kinh tế, các doanh nghiệp đã góp phần làm tăng thêm phúc lợi
xã hội, qua đó cũng bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Nghĩa vụ kinh tế cịn được thực hiện gián tiếp thơng qua cạnh tranh. Quá trình cạnh
tranh trong kinh doanh phản ánh những khía cạnh liên quan đến lợi ích của người tiêu dùng
và lợi nhuận của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể sử dụng vào việc phân phối cho người
lao động và các chủ sở hữu. Cách thức cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ góp phần làm
thay đổi khả năng tiếp cận và lựa chọn hàng hóa của người tiêu dùng. Lợi nhuận và mức

tăng trưởng trong quá trình sản xuất kinh doanh tác động đến sự quyết định đầu tư của các
20


nhà đầu tư. Chính vì lý do trên mà rất nhiều doanh nghiệp rất chú trọng vào việc tìm ra
những biện pháp cạnh tranh hiệu quả, triết lý đạo đức của doanh nghiệp có ý nghĩa quan
trọng đối với quá trình nhận thức và việc lựa chọn những biện pháp có thể chấp nhận được
về mặt xã hội. Hầu hết các nghĩa vụ kinh tế của doanh nghiệp thường được thể chế hóa
thành các nghĩa vụ pháp lý.
- Nghĩa vụ pháp lý
Đối với nghĩa vụ này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải tuân thủ đầy đủ các
quy định của pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đó được xem như một yêu cầu
tối thiểu trong hành vi xã hội của một doanh nghiệp hay cá nhân. Trong kinh doanh chịu sự
tác động của nhiều đối tượng như: người tiêu dùng, các đối thủ cạnh tranh, các nhóm đối
tượng hưởng lợi ích khác nhau… các nhà quản lý kinh tế vĩ mô tin rằng các hoạt động kinh
doanh sẽ khơng đạt dược hiệu quả và mục đích tốt đẹp nếu khơng đảm bảo bằng sự trung
thực. Vì vậy, phải đặt ra các quy tắc pháp lý để cùng tuân thủ.
Các nghĩa vụ pháp lý được thể hiện trong các bộ luật dân sự và hình sự của nhà
nước. Với tư cách là đơn vị kinh doanh trên thị trường, các doanh nghiệp không tồn tại
đơn lẻ, địa vị pháp lý của doanh nghiệp luôn được xác định trong mối quan hệ với các
chủ thể khác trong sinh hoạt thị trường và đời sống xã hội. Pháp luật phải giải quyết
hài hịa, hợp lý về lợi ích giữa các chủ thể tham gia thị trường để khơng ai có thể vì lợi
ích của mình xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Dưới góc độ lý
thuyết, các nghĩa vụ được coi là trách nhiệm và giới hạn quyền của doanh nghiệp trong
những quan hệ giữa họ với nhà nước, với người lao động, các doanh nghiệp khác và
người tiêu dùng.
Theo đó, các doanh nghiệp phải tổ chức hoạt động kinh doanh theo đúng ngành,
nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, bảo đảm điều kiện kinh
doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều
kiện. Tổ chức cơng tác kế tốn, lập và nộp báo cáo tài chính trung thực, chính xác,

đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế toán. Đăng ký mã số thuế, kê khai
thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
Bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật về lao động,
thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động

21


theo quy định của pháp luật về bảo hiểm. Bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng
hàng hoá, dịch vụ theo tiêu chuẩn đã đăng ký hoặc công bố…
“Thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật về thống kê, định kỳ
báo cáo đầy đủ các thơng tin về doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo mẫu quy định, khi phát hiện các thông tin đã
kê khai hoặc báo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung
các thơng tin đó. Tuân thủ quy định của pháp luật về quốc phịng, an ninh, trật tự, an
tồn xã hội, bảo vệ tài ngun, mơi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hố và danh lam
thắng cảnh”. [40, tr.7]
Bên cạnh đó, luật cũng quy định quyền và những việc mà doanh nghiệp khơng
được làm, luật định ra các hình phạt đối với các doanh nghiệp vi phạm. Về cơ bản,
những nghĩa vụ pháp lý được quy định trong luật pháp phản ánh năm khía cạnh sau:
Thứ nhất, luật thực hiện điều tiết sự cạnh tranh của các doanh nghiệp. Xu
hướng độc quyền trong kinh doanh có thể dẫn đến nhiều thiệt hại cho xã hội và các đối
tượng hữu quan, làm cho nền kinh tế phát triển kém hiệu quả, phân phối phúc lợi
không bằng do một phần thặng dư của người cung ứng hay người tiêu dùng đã bị tước
đoạt. Pháp luật ra đời sẽ đảm bảo cho môi trường cạnh tranh lành mạnh, điều tiết sự
độc quyền trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thứ hai, luật pháp sẽ bảo vệ người tiêu dùng. Luật pháp buộc các doanh nghiệp
phải cung cấp thơng tin chính xác về xuất xứ của sản phẩm, thời hạn sử dụng và các
tiêu chuẩn về sự an toàn của sản phẩm. Cụ thể nhất là các luật về bảo vệ người tiêu
dùng. Tuy luật pháp công nhận trách nhiệm tự bảo vệ của mọi đối tượng và người tiêu

dùng, nhưng do quá trình quảng bá sản phẩm trên các phương tiện thông tin, người
tiêu dùng chưa thể hiểu rõ về chất lượng thực của sản phẩm, một số doanh nghiệp kinh
doanh phi đạo đức… Do đó, luật pháp hướng đến bảo vệ người tiêu dùng qua việc
nhấn mạnh tính chất về trình độ nhận thức và khả năng lựa chọn sản phẩm.
Thứ ba, luật pháp hướng đến việc bảo vệ môi trường. Vấn đề môi trường là vấn
đề đang được quan tâm của tất cả các quốc gia và toàn xã hội. Trong quá trình sản xuất
kinh doanh, các nhà máy đã thải ra môi trường nhiều chất thải độc hại làm ô nhiễm
mơi trường đất, nước và khơng khí. Bên cạnh việc ô nhiễm môi trường vật chất, hiện

22


nay sản xuất kinh doanh cũng làm ô nhiễm môi trường văn hóa – xã hội. Luật pháp
định ra các nguyên tắc để mọi doanh nghiệp phải tuân thủ để bảo vệ môi trường.
Thứ tư, luật pháp bảo đảm sự an tồn và bình đẳng. Luật pháp ln quan tâm
bảo đảm quyền bình đẳng của mọi đối tượng khác nhau với tư cách là người lao động.
Luật pháp bảo vệ người lao động thốt khỏi tình trạng phân biệt đối xử do thể chất,
tuổi tác, dân tộc hay giới tính. Luật pháp thừa nhận quyền được tuyển dụng lao động
có chất lượng của doanh nghiệp. Nhưng luật pháp cũng ngăn chặn việc sa thải lao
động bất hợp lý, tùy tiện…
Thứ năm, luật pháp khuyến khích phát hiện và ngăn chặn các hành vi sai trái.
Trong sản xuất kinh doanh, không ít doanh nghiệp làm ăn phi đạo đức, vi phạm pháp
luật. Luật pháp hướng đến bảo vệ người phát hiện sai trái và tố giác doanh nghiệp vi
phạm.
- Nghĩa vụ đạo đức
Nghĩa vụ đạo đức trong trách nhiệm xã hội liên quan đến những hành vi hay
hành động được cộng đồng và xã hội mong đợi hay không mong đợi nhưng khơng
được thể chế hóa thành luật. Nghĩa vụ đạo đức trong trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp được thể hiện thông qua các tiêu chuẩn, chuẩn mực hay sự kỳ vọng phản ánh
mối quan tâm của các đối tượng chủ yếu như người tiêu dùng, người lao động, đối tác,

chủ sở hữu và cả cộng đồng xã hội.
Nghĩa vụ đạo đức của các doanh nghiệp được thể hiện rõ thông qua các nguyên
tắc và các giá trị đạo đức được trình bày trong sứ mệnh và trong chiến lược kinh doanh
của một doanh nghiệp. Nó thể hiện các quan điểm của doanh nghiệp trong việc sử
dụng các nguồn lực và con người để đạt đến mục tiêu đề ra. Doanh nghiệp tạo ra lòng
tin trong kinh doanh và sự trung thành của nhân viên qua các triết lý kinh doanh mang
tính đạo đức, những hoạt động của người quản lý sẽ giúp các nhân viên thay đổi cách
làm việc chân thành và tận tâm. Ngoài ra, nghĩa vụ đạo đức trong trách nhiệm xã hội
còn thể hiện ở chất lượng sản phẩm và chỉ số an toàn cho người tiêu dùng, bảo đảm
đời sống và mức thu nhập xứng đáng cho lao động tham gia trong các khâu của quá
trình sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp.
- Nghĩa vụ nhân văn

23


Nghĩa vụ nhân văn trong trách nhiệm xã hội đối với doanh nghiệp đó là q
trình đóng góp của doanh nghiệp cho sự phát triển chung của cộng đồng và xã hội.
Điều này thể hiện trên các phương diện như: nâng cao chất lượng cuộc sống, san sẻ
bớt những gánh nặng xã hội cùng với chính phủ, nâng cao năng lực lãnh đạo nhân viên
và phát triển nhân cách người lao động.
Con người rất cần thực phẩm để duy trì cuộc sống của họ nhưng họ khơng
muốn vì lợi nhuận mà các doanh nghiệp lại tàn phá tự nhiên và giết hại các động vật
hoang dã, đặt ra vấn đề cho các doanh nghiệp phải cùng nhau bảo vệ môi trường. Giúp
đỡ những mảnh đời bất hạnh cũng là một lĩnh vực nhân đạo luôn được các doanh
nghiệp quan tâm. Những người bệnh luôn mong muốn được giúp đỡ, chăm sóc và
chữa trị, nhưng họ lại khơng có điều kiện và khả năng vì khơng đủ kinh phí chữa trị
hoặc không thể tiếp cận được với các loại dược liệu q. Ngồi ra, các doanh nghiệp
cịn có những đóng góp vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo để nâng cao chất lượng, đây
được xem là một khoản đầu tư khôn ngoan cho tương lai của nhiều doanh nghiệp.

Nâng cao chất lượng giáo dục cũng đồng nghĩa với việc nâng cao dân trí và chất lượng
nguồn lao động đáp ứng yêu cầu phát triển của doanh nghiệp trong quá trình phát triển
ở tương lai. Bên cạnh đó, nghĩa vụ nhân văn cũng phê phán những nghĩa vụ phi nhân
văn, phi nhân đạo trốn trong vỏ bọc của các hành động nhân đạo.
1.2.2. Trách nhiệm đối với người lao động
Theo quy định của pháp luật, người sử dụng lao động có nghĩa vụ tạo một mơi
trường lao động an tồn, trả lương khơng thấp hơn mức lương tối thiểu, đóng bảo hiểm
xã hội cho người lao động và thực hiện những quy định của pháp luật lao động. Đối
với người sử dụng lao động, điều họ quan tâm là kiểm soát được lao động, xây dựng
đội ngũ nhân viên có trình độ, lành nghề và lòng trung thành. Ngược lại đối với người
lao động, họ muốn được trả lương tương xứng với những gì họ cống hiến, được làm
việc trong mơi trường an tồn, được đối xử bình đẳng với những lao động khác và
được thăng tiến. Pháp luật quy định người sử dụng lao động không được phân biệt, đối
xử giữa những người lao động bởi các yếu tố về giới tính, tuổi tác, dân tộc hay tơn
giáo... Doanh nghiệp có trách nhiệm góp phần cùng với Nhà nước tạo ra việc làm để
thực hiện quyền làm việc cho mọi người lao động.
1.2.3. Trách nhiệm đối với người tiêu dùng
24


Xã hội, tức là người tiêu dùng, đòi hỏi doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch
vụ có chất lượng, an tồn và giá cả hợp lý. Về phần mình, doanh nghiệp xác định mục
tiêu tối hậu là lợi nhuận. Đòi hỏi của xã hội sẽ được doanh nghiệp đáp ứng thỏa đáng,
nếu việc đó đồng thời cho phép doanh nghiệp giải được bài toán lợi nhuận. Thế nhưng,
để doanh nghiệp có thể cân phân giữa trách nhiệm xã hội và lợi nhuận rồi từ đó xác
định cách ứng xử thích hợp thì điều tiên quyết là doanh nghiệp phải nhận biết tường
tận những đòi hỏi của xã hội đối với mình, đặc biệt là về những rủi ro doanh nghiệp
phải đương đầu đối với việc theo đuổi lâu dài mục tiêu lợi nhuận trong trường hợp địi
hỏi ấy khơng được thỏa mãn. Rõ hơn, phải có ai đó nói với doanh nghiệp, bằng tiếng
nói nhân danh người tiêu dùng, về những gì doanh nghiệp cần làm để có được sự chấp

nhận chi trả với thái độ tín nhiệm của họ.
Doanh nghiệp sản xuất ra các loại sản phẩm, hàng hóa và cung ứng dịch vụ cho
người tiêu dùng trên thị trường, chính vì vậy doanh nghiệp phải nghiêm túc thực hiện
việc đảm bảo chất lượng, độ an toàn của các hàng hóa, dịch vụ mà mình làm ra. Bên
cạnh đó phải có trách nhiệm hướng dẫn sử dụng, cảnh báo những nguy cơ gặp phải khi
sử dụng hàng hóa, dịch vụ của mình. Pháp luật bắt buộc người kinh doanh phải cảnh
báo người tiêu dùng về tác hại khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ như thuốc lá, dược
phẩm, dịch vụ thẩm mỹ. Doanh nghiệp phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi với người
tiêu dùng.
1.2.4. Trách nhiệm đối với xã hội và mơi trường
Doanh nghiệp khơng chỉ có trách nhiệm với người lao động, người tiêu dùng
mà cịn có trách nhiệm đối với xã hội mà ở đó doanh nghiệp hoạt động. Trách nhiệm
này yêu cầu các doanh nghiệp đóng góp các nguồn lực cho xã hội, nhiều doanh nghiệp
thực hiện trách nhiệm xã hội thơng qua việc đóng góp các quỹ xã hội, quỹ từ thiện, hỗ
trợ chương trình xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm cho các đối tượng có hồn cảnh khó
khăn...
Ngày nay, trên thế giới cũng như tại Việt Nam, trách nhiệm bảo vệ môi trường
được tách từ trách nhiệm xã hội nói chung thành nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp
trong kinh doanh. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định hàng loạt trách nhiệm
bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
đó là: Tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, cam kết bảo vệ môi
25


×