Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Trách nhiệm xã hội và vấn đề nâng cao trách nhiệm xã hội ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.25 KB, 81 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN









TRẦN THỊ TUYẾT





Trách nhiệm xã hội và vấn đề nâng cao
trách nhiệm xã hội ở nước ta hiện nay





LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC








HÀ NỘI, 2009





1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 9
Chƣơng 1: THỰC CHẤT, VAI TRÒ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ QUY ĐỊNH
SỰ HÌNH THÀNH TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI 9
1.1. Thực chất và vai trò của trách nhiệm xã hội 9
1.2. Những nhân tố quy định sự hình thành trách nhiệm xã hội 18
1.2.1. Nhân tố kinh tế 18
1.2.2. Nhân tố chính trị 21
1.2.3. Nhân tố văn hoá 24
Chƣơng 2: VẤN ĐỀ NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI Ở NƢỚC TA
HIỆN NAY 29
2.1. Quá trình đổi mới xã hội và yêu cầu nâng cao trách nhiệm
xã hội 29
2.2. Thực trạng của việc thực hiện trách nhiệm xã hội 34
2.2.1.Những thành tựu đã đạt được về thực hiện trách nhiệm xã hội 34
2.2.2.Những hạn chế trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội 47
2.3. Một số giải pháp nâng cao trách nhiệm xã hội ở nƣớc ta
hiện nay 57
2.3.1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa tạo điều kiện cho việc nâng cao trách nhiệm xã hội 57
2.3.2. Đẩy mạnh dân chủ hóa và giữ nghiêm kỷ cương xã hội 60
2.3.3. Đẩy mạnh giáo dục trách nhiệm xã hội đối với mỗi cá nhân 63
KẾT LUẬN 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 71




2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Cách ngày nay hơn một thế kỷ, có những nhà tư tưởng, những người
nghiên cứu về các vấn đề xã hội đã nêu ra một cách khoa học những vấn đề
lớn trong xã hội có thể trở thành mầm mống tự hủy diệt trong quá trình phát
triển kinh tế thị trường. Thực tế hiện nay con số mầm mống này đã ngày càng
gia tăng. Những vấn đề cổ điển vẫn tồn tại, cộng thêm những vấn đề mới
nóng bỏng nảy sinh trong sự phát triển của xã hội hiện đại. Trong đó tiêu biểu
như vấn đề môi trường sống, vấn đề sức khỏe con người… là những vấn đề
cụ thể, cấp bách, có ảnh hưởng sâu rộng và tiêu cực cho tương lai phát triển
của toàn thể nhân loại. Nếu xã hội không có ý thức trách nhiệm một cách rõ
ràng về nó và có những hành động thích ứng để ngăn chặn, sẽ không thể tránh
khỏi tình trạng suy thoái về cả vật chất và tinh thần (trong đó bao gồm cả
những giá trị văn hóa, xã hội).
Khi khoa học - công nghệ ngày càng phát triển đã cung cấp cho con
người những phương tiện hiện đại giúp các quy trình sản xuất ngày càng hiệu
quả, đời sống con người ngày càng nâng cao. Nhưng sự phát triển ấy cũng
kéo theo những hệ quả tất yếu làm đảo lộn trật tự thiên nhiên với một “cái
giá” khó lường trước. Ví như khi chúng ta áp dụng vào sản xuất một công
nghệ hiện đại, nhưng bản thân công nghệ ấy lại sinh ra những chất thải gây

nguy hại đến sức khỏe về sau này của người công nhân trực tiếp sản xuất
cũng như của cộng đồng xung quanh. Làm thế nào có thể định được cái giá
này? Ai là người phải trả giá? Ai là người sẽ chịu trách nhiệm về những thiệt
hại? Hay khi con người tiến hành khai thác các tài nguyên thiên nhiên một
cách bừa bãi không đắn đo, nhằm phục vụ cho những lợi ích trước mắt ở mức
thiên nhiên không kịp, thậm chí không thể tái sinh, thì thế hệ tương lai lại



3
chính là người sẽ phải trả một cái giá rất đắt, nhưng ngay hiện tại con
người lại không thể lường trước được cái giả phải trả đó. Đặc biệt, trong
cuộc chiến vượt khó để làm giàu, khi lợi ích cá nhân trở thành nhân tố cơ
bản kích thích con người sẵn sàng hy sinh lợi ích xã hội (lợi ích cộng đồng,
lợi ích của người khác), bất chấp luân thường đạo lý để đạt được lợi ích của
cá nhân mình, tạo ra những xung đột gay gắt giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội một tình trạng u muội, vô cảm, thiếu ý thức trách nhiệm đang bao
trùm nên toàn xã hội. Nêu ra những hiện trạng như trên là nhằm hướng đến
tìm giải pháp cho những hành động của chính chúng ta. Chúng ta phải biết
chúng ta đang làm gì? Những hành động thiếu ý thức của chúng ta đã và sẽ
sinh ra hệ quả gì? Và chúng ta phải biết hổ thẹn đối với mỗi hậu quả mà
mình đã gây ra. Đó chính là trách nhiệm xã hội của con người, của xã hội
vì lợi ích chung của toàn xã hội.
Như vậy, trách nhiệm xã hội với tư cách phương thức điều chỉnh, định
hướng ý thức và hành vi của con người nhằm tạo nên sự phát triển bền vững
cho toàn xã hội ngày càng trở nên quan trọng. Đây đồng thời cũng đang là
vấn đề thu hút sự quan tâm về mặt lý luận, đặc biệt từ góc độ đạo đức học.
Xuất phát từ những đòi hỏi trên đây, luận văn đi sâu tìm hiểu một số vấn đề
về trách nhiệm xã hội và yêu cầu nâng cao trách nhiệm xã hội thông qua một
số nét về thực trạng thực hiện trách nhiệm xã hội ở nước ta hiện nay.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
- Thời gian gần đây, trách nhiệm xã hội là một vấn đề thu hút sự quan
tâm của rất nhiều nước trên thế giới và được xem như là vấn đề trung tâm
trong việc đánh giá chuẩn mực hành vi của con người, của các tổ chức kinh
tế, xã hội. Do đó, đã có rất nhiều các hội thảo, diễn đàn quốc tế đề cập đến
vấn đề này. Tuy nhiên, tại đây trách nhiệm xã hội chỉ mới được đề cập đến



4
với tư cách là một vấn đề xã hội mới nảy sinh và thường gắn liền với những
biểu hiện đối lập với nó là hành vi vô trách nhiệm diễn ra trong đời sống xã
hội trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức, môi trường… và ở
nhiều quốc gia khác nhau. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, Trách nhiệm xã hội
của công ty (hay trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp) với tư cách là thước
đo quan trọng trong quá trình hội nhập của một doanh nghiệp được rất nhiều
bài viết phân tích, khai thác ở nhiều khía cạnh từ góc độ lý luận đến thực tiễn.
Trong cuốn “Business - Its Legal, Ethical, and Global Environment – Kinh
doanh - tính hợp pháp, tính đạo đức và môi trường toàn cầu của nó” của
Marianne Moody Jennings, Nxb. Thomson, tái bản lần thứ 7, Arizona State
University, USA. 2006. Trong chương 2 “Đạo đức kinh doanh và trách nhiệm
xã hội” tác giả đã đề cập đến vấn đề “cách nhìn đạo đức về trách nhiệm xã
hội”, trên quan điểm đạo đức tác giả đã đưa ra quan niệm của mình về trách
nhiệm xã hội và đánh giá một cách khái quát về vấn đề này.
- Ở Việt Nam, thời gian vừa qua cũng có rất nhiều hội thảo, nhiều diễn
đàn đề cập đến trách nhiệm xã hội tiêu biểu như:
“Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội” là chủ đề
hội thảo quốc tế do Viện Triết học (thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam) và
Hội Hành động vì sự phát triển con người Thiên chúa giáo Đức (MISEREOR)
đồng tổ chức, đã diễn ra từ ngày 15 - 16/10/2007 tại Hà Nội. Trong đó vấn đề

trách nhiệm xã hội đã được đề cập một cách sâu rộng, khai thác ở cả khía
cạnh triết học, triết học xã hội và khía cạnh triết học đạo đức. Chủ đề của Hội
thảo nhằm hướng đến khẳng định trong một xã hội nếu các cá nhân chỉ biết
quan tâm đến lợi ích của bản thân mà không có hoặc thiếu tinh thần trách
nhiệm đối với sự phát triển chung của xã hội thì xã hội đó đang thiếu sự đồng
thuận, sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, mất đoàn kết giữa
các tầng lớp, nhóm dân cư và dẫn đến xung đột xã hội.



5
Hội thảo “Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại châu Á” diễn ra ngày
1/8/2008. Hội thảo là kết quả của sự phối hợp thực hiện giữa các đơn vị: Hội
cựu sinh viên Đại học ASEFUAN; Quỹ tài trợ Á - Âu (ASEF); Viện Khoa
học xã hội Việt Nam (VASS) và Trung tâm Phát triển và Hội nhập (CDI). Hội
thảo đã được tổ chức với mục tiêu: - Khai thác các vấn đề về trách nhiệm xã
hội doanh nghiệp ở Châu Á trong bối cảnh phương Tây và Châu Á;- Sử dụng
trường hợp điển hình của Việt Nam; - Giúp giảng viên có thể trao đổi thông
tin và kinh nghiệm về những hoạt động trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tốt
nhất; - Xác định nền tảng chung về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp cả ở
phương Tây và phương Đông.
- Bên cạnh đó có cả những diễn đàn được mở ra, thu hút sự quan tâm
và đóng góp ý kiến của rất nhiều học giả trong và ngoài nước về vấn đề trách
nhiệm xã hội trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người. Tiêu biểu là
diễn đàn Trách nhiệm Xã hội Việt Nam do Trung tâm Phát triển và Hội nhập
quản trị sáng lập (www.vietnamforumcsr.net).
- Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu trao đổi đề cập một cách gián
tiếp hoặc trực tiếp những vấn đề có liên quan như:
Trần Đức Cường: Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã
hội trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Tạp chí Triết học, Số 1 (tháng

1/2008). Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra những đánh giá khái quát về
thành tựu và hạn chế trong thực hiện công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và
đoàn kết xã hội ở Việt Nam trước và trong những năm đổi mới đất nước;
đồng thời, gợi mở những vấn đề cần thảo luận để việc thực thi công bằng xã
hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội không chỉ là một mục tiêu phấn
đấu, mà còn là một động lực mạnh mẽ để phát triển đất nước và đảm bảo cho
sự phát triển của Việt Nam là một sự phát triển bền vững.



6
Nguyễn Trọng Chuẩn: Kinh tế thị trường và trách nhiệm xã hội, Tạp
chí Triết học, Số 2 (tháng 2/2008). Trong bài viết này, tác giả đã cho rằng ý
thức về trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại giúp cho
người ta thấy rằng, thị trường thế giới rộng lớn, đầy tiềm năng trên phạm vi
toàn cầu là môi trường vô cùng thuận lợi để tìm kiếm lợi nhuận không chỉ cho
riêng mình, mà còn cho cả quê hương, đất nước, và cho sự phát triển, sự tiến
bộ chung của xã hội. Bởi vậy, chỉ những ai biết tôn trọng khách hàng, biết tôn
trọng đạo lý và biết lấy chữ tín làm đầu mới hy vọng thành đạt trên cả thương
trường trong nước lẫn thương trường quốc tế. Ý thức về trách nhiệm xã hội sẽ
giúp những người sản xuất, kinh doanh tự điều chỉnh các hoạt động của mình
sao cho phù hợp với những đòi hỏi của chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực đạo
đức để hướng tới cái lợi, cái thiện và cái đẹp của nhân nghĩa. Trong ý thức và
trong sự thực hành thực tiễn trách nhiệm này sẽ có được một sự thống nhất
giữa những gì khuyên ta nên làm với những gì ta có bổn phận phải làm.
Nguyễn Văn Thức: Vai trò của Nhà nước và vấn đề trách nhiệm xã hội,
Tạp chí Triết học, Số 6 (tháng 6/2008). Bài viết đã góp phần làm rõ thêm
những nội dung cơ bản của khái niệm trách nhiệm xã hội và vai trò của nhà
nước trong việc tổ chức và thực thi trách nhiệm xã hội. Theo tác giả, để hoàn
thành tốt vai trò to lớn trong việc tổ chức và thực hiện trách nhiệm xã hội, nhà

nước Việt Nam cần phải tiếp tục đổi mới để thực hiện một cách có hiệu quả
việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa – một trong những nhân tố cơ bản quy định việc hình thành và thực thi
trách nhiệm xã hội.
Mới đây nhất, trong cuốn “Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và
đoàn kết xã hội”, Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đoàn, Ulrich
Dornberg (đồng chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, bên cạnh
vấn đề về thực hiện công bằng xã hội, đoàn kết xã hội thì vấn đề trách nhiệm



7
xã hội đã được đề cập một cách sâu rộng trên rất nhiều phương diện trong đó
bao gồm cả những vấn đề về trách nhiệm của Nhà nước, của các tổ chức xã
hội, những đòi hỏi của quá trình toàn cầu hóa, của sự phát triển kinh tế thị
trường đối với vấn đề trách nhiệm xã hội… Tất cả những sự phân tích này
đều hướng đến nhằm làm rõ vai trò và sự cần thiết phải thiết lập và ngày càng
nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, hành vi trách nhiệm, không những
của Nhà nước, của các tổ chức xã hội mà của cả cộng đồng hướng đến xây
dựng một môi trường xã hội thực sự lành mạnh.
Nhìn chung, có thể nhận thấy rằng, các tài liệu trên đã ít nhiều tập trung
vào việc làm rõ vai trò của trách nhiệm xã hội, các yếu tố tác động đến trách
nhiệm xã hội và việc thực trạng thực hiện trách nhiệm xã hội trên một số lĩnh
vực của đời xống xã hội - con người, thông qua đó nêu bật lên những yêu cầu
về việc thực hiện trách nhiệm xã hội và nâng cao trách nhiệm xã hội của con
người trong mọi hoạt động. Tuy nhiên, tất cả mới chỉ dừng lại ở mức độ là
những diễn đàn, hội thảo, các bài biết và trao đổi ý kiến. Chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên sâu về trách nhiệm xã
hội và việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong quá trình đổi mới hiện nay. Để
góp phần vào việc tìm hiểu vấn đề còn ít được quan tâm nghiên cứu chuyên sâu

này, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề “Trách nhiệm xã hội và vấn đề nâng cao
trách nhiệm xã hội ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
*) Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu thực chất, vai trò, những nhân tố quy
định sự hình thành của trách nhiệm xã hội, từ đó khảo sát thực trạng của việc
thực hiện trách nhiệm xã hội trong đời sống và đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao trách nhiệm xã hội ở nước ta hiện nay.
*) Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, đề tài tập trung vào 3 nhiệm vụ chủ yếu:



8
-) Làm rõ thực chất và những nhân tố quy định sự hình thành trách nhiệm xã hội.
-) Khảo sát thực trạng về thực hiện trách nhiệm xã hội ở nước ta hiện nay.
-) Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao trách nhiệm xã hội ở
nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Nghiên cứu về trách nhiệm xã hội với tư cách là một đặc
trưng của nhân cách con người.
- Phạm vi: Khảo sát về trách nhiệm xã hội của con người Việt Nam từ khi
nước ta bước vào thời kỳ đổi mới (1986) với những biến động trên nhiều mặt của
đời sống xã hội tác động mạnh mẽ đến ý thức trách nhiệm của mỗi người dân.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của Luận văn là triết học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về trách
nhiệm. Bên cạnh đó luận văn cũng tham khảo, kế thừa những kết quả nghiên
cứu của một số công trình khoa học của một số tác giả (hoặc tập thể tác giả)
trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp logic -

lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát.
6. Cái mới của luận văn:
- Luận văn đã góp phần phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện trách
nhiệm xã hội của con người Việt Nam hiện nay.
- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao trách nhiệm
xã hội của con người Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
- Ý nghĩa lý luận:
+) Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm xã hội.



9
+) Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu và
giảng dạy đạo đức học.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn có ý nghĩa khuyến nghị đối với công tác xây dựng trách nhiệm ở
nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương, 5 tiết và các tiểu mục.



10
Chƣơng I
THỰC CHẤT, VAI TRÒ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ QUY ĐỊNH
SỰ HÌNH THÀNH TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
1.1. Thực chất và vai trò của trách nhiệm xã hội
Trách nhiệm xã hội (Social Responsibility) là chủ đề đang được đề cập

đến rất nhiều trên các diễn đàn, trong các cuộc trao đổi thảo luận cả về mặt
học thuật lẫn thực tiễn xã hội, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con
người hiện nay. Do vậy, việc làm rõ nội hàm khái niệm trách nhiệm, trách
nhiệm xã hội là một việc làm hết sức cần thiết.
Về mặt thuật ngữ, “trách nhiệm” được bắt nguồn từ tiếng Latinh
“Respondere” - có nghĩa là “đáp lại”.
Theo từ điển Triết học (1975), nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva: Trách
nhiệm thuộc phạm trù đạo đức và luật học, phản ánh trình độ xã hội đặc biệt
và thái độ đạo đức – pháp luật của cá nhân đối với xã hội (đối với nhân loại
nói chung); thái độ này biểu thị sự hoàn thành nghĩa vụ đạo đức của mình và
các tiêu chuẩn pháp luật.[100;tr.595]
Từ điển Tiếng Việt (1999), nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, Hà Nội:
Trách nhiệm là điều phải làm, phải gánh vác, hoặc phải nhận lấy về
mình.[99;tr.1678]
Trong từ điển Tiếng Việt (2004) của Viện ngôn ngữ học, nhà xuất bản
Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học: Trách nhiệm được hiểu là sự ràng buộc
đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải chịu
phần hậu quả.[101;tr.1020]
Trong tác phẩm “Đạo đức học hiện đại: cội nguồn và những vấn đề”
(1998) tác giả E.V.Zolotokhina Abolina - một nhà nhân văn triết học người
Nga lại quan niệm rằng: trách nhiệm được đặt trong mối quan hệ với tự do, là



11
mặt trái của tự do, trách nhiệm gắn liền và luôn đi kèm với tự do, kẻ nào hành
động tự do thì phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì họ đã làm. Trách
nhiệm đó chính là sự phản ứng lại thử thách mà tình huống đặt ra cho ta, và
phản ứng lại yêu cầu từ phía người khác. Trách nhiệm cũng có nghĩa là khả
năng hiểu đúng những nhu cầu của người khác và nhu cầu của chính

mình.[40;tr.194].
Như vậy, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về trách nhiệm xã hội, mỗi
quan điểm đều có một cách tiếp cận riêng và những điểm hợp lý riêng. Tuy
nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, về mặt nội hàm của thuật ngữ trách
nhiệm được hiểu là: trách nhiệm bao giờ cũng gắn liền với con người, bị quy
định bởi những nhu cầu phát triển của đời sống con người, về thực chất, đó
chính là khả năng nhận thức về bổn phận, nghĩa vụ và hậu quả do những hành
động của bản thân con người đưa lại. Do đó, hiểu một cách chung nhất, trách
nhiệm đó là khái niệm của đạo đức học và luật học, nó nói lên một đặc trưng
của nhân cách trong việc thực hiện nghĩa vụ do xã hội đề ra. Từ phương diện
thuật ngữ, trách nhiệm khi được gắn liền với nội dung xã hội hóa, mở rộng
phạm vi ứng dụng và thực thi ra toàn xã hội thì thường được sử dụng với
thuật ngữ Trách nhiệm xã hội, và do vậy, xét về bản chất hai khái niệm này có
nội hàm tương đương như nhau. Từ đây, có thể đưa ra một cách định nghĩa
chung về khái niệm này như sau:
Trách nhiệm xã hội theo nghĩa hẹp, được hiểu là bổn phận của cá nhân
cũng như của cộng đồng xã hội đối với những quyết định và hành động nhằm
làm tăng nghĩa vụ và quyền lợi đối với mỗi thành viên trong xã hội. Trách
nhiệm xã hội còn được coi là trách nhiệm đạo đức của mỗi cá nhân trong việc
giải quyết vấn đề chung, được thể hiện thông qua các yếu tố như sự tôn trọng
luật pháp, trách nhiệm với môi trường sống, trách nhiệm trong mối quan hệ
giữa các thành viên trong cộng đồng, v.v Tuy mang ý nghĩa là bổn phận



12
nhưng về bản chất, trách nhiệm xã hội là một sự tự nguyện, đứng trên trách
nhiệm luật pháp với ý nghĩa điều chỉnh các hành vi của cá nhân trước và trong
khi hoạt động chứ không phải là tiêu chí đánh giá cá nhân sau khi hoàn tất
hoạt động của mình. Chính vì vậy, trách nhiệm xã hội có thể bị phủ định trong

trường hợp nó kiềm chế hoạt động của cộng đồng, và ngược lại, nó có thể
được khẳng định khi mang ý nghĩa trách nhiệm trong hoạt động, tức là mang lại
nhiều lợi ích đối với các thành viên cũng như cho cả xã hội.
Tuy nhiên, trách nhiệm xã hội không đơn thuần chỉ là trách nhiệm của
mỗi cá nhân trước những vấn đề chung. Chúng ta đều biết rằng mỗi cá nhân
chỉ tồn tại thực sự trong một xã hội nhất định, tồn tại trong quan hệ với những
cá nhân khác, như C.Mác nói trong tính hiện thực của nó bản chất con người
là tổng hòa các quan hệ xã hội, do đó, mỗi cá nhân trong quá trình hoạt động
(lao động) của mình sẽ tự điều chỉnh bản thân mình theo chiều hướng hoạt
động có trách nhiệm, làm cho hoạt động của mình phù hợp với các lợi ích của
xã hội. Đồng thời, trách nhiệm xã hội không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa là
những đòi hỏi, yêu cầu của xã hội đối với cá nhân (nghĩa vụ xã hội của cá
nhân) mà còn bao hàm cả những đòi hỏi, yêu cầu của cá nhân (quyền của cá
nhân) đối với xã hội. Điều này thể hiện rõ:
Một là, trong xã hội, các cá nhân luôn luôn tồn tại và bị qui định bởi rất
nhiều các mối quan hệ mang tính tất yếu khách quan. Những tất yếu khách
quan này biểu hiện cụ thể trong đời sống thành những qui tắc, chuẩn mực điều
chỉnh hành vi của con người. Trách nhiệm xã hội của bản thân mỗi người lúc
này chính là hoạt động tuân thủ theo những quy tắc, chuẩn mực đó của xã hội,
nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của xã hội.
Hai là, trong khi thực hiện trách nhiệm của cá nhân đối với cộng đồng,
bản thân các chủ thể hoạt động đó cũng yêu cầu xã hội phải có trách nhiệm
trong việc tạo ra những không gian hoạt động nhất định trong đó cá nhân có



13
thể hoàn toàn tự do hoạt động, tự do lựa chọn phương thức, hình thức hoạt
động của bản thân nhằm thỏa mãn những nhu cầu cá nhân mà không xâm hại
đến lợi ích của cả cộng đồng.

Như vậy, trách nhiệm xã hội đó chính là cá nhân có nghĩa vụ, có trách
nhiệm đối với xã hội và ngược lại, xã hội cũng có nghĩa vụ và trách nhiệm
đáp ứng các quyền lợi của cá nhân. Xét về thực chất, đó chính là quyền và
nghĩa vụ của cá nhân đối với xã hội và của xã hội đối với mỗi cá nhân. Vậy
nên, trách nhiệm xã hội còn bao hàm cả trách nhiệm của toàn thể xã hội trong
việc đảm bảo sự hoạt động của cá nhân mỗi con người trong hoạt động thực
tiễn, trong mối quan hệ nhân quả với những cá nhân khác trong xã hội. Đây là
cách hiểu trách nhiệm xã hội theo nghĩa rộng, và nó được thể hiện ở chỗ xã
hội cần xây dựng một cơ chế xã hội, một hiện thực xã hội rõ ràng, đầy đủ sức
mạnh cần thiết đề tạo môi trường cho các cá nhân thực hiện và nâng cao trách
nhiệm của mình trước cộng đồng. Bên cạnh đó, trách nhiệm xã hội được thể
hiện ở việc xây dựng một hệ thống giáo dục vững chắc để đào tạo, nâng cao ý
thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, làm cho họ có tinh thần trách nhiệm và
nhận thức được một cách đúng đắn, đầy đủ nhất về trách nhiệm cũng như
nghĩa vụ xây dựng xã hội, nghĩa vụ đối với các mối quan hệ xung quanh mình
để không xâm hại đến lợi ích của xã hội cũng như của các cá nhân khác.
Từ những phân tích về thực chất của trách nhiệm xã hội, thấy rõ rằng
trách nhiệm xã hội là một khái niệm khá rộng. Bên cạnh đó, khi xét về mặt
chủ thể thực hiện trách nhiệm, thì trách nhiệm xã hội có rất nhiều cấp độ biểu
hiện. Trách nhiệm xã hội là trách nhiệm của cá nhân đối với xã hội (đối với
gia đình, tập thể, đơn vị công tác, Tổ quốc, nhân loại nói chung ); là trách
nhiệm của cá nhân đối với cá nhân khác với tư cách là một con người, một
thành viên của xã hội khi tham gia vào đời sống cộng đồng; là trách nhiệm
của xã hội (của nhà nước, tập thể, gia đình…) đối với cá nhân. Như vậy, dù



14
theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì trước hết, trách nhiệm xã hội cũng phải là
bổn phận của cá nhân cũng như của cả cộng đồng xã hội trước những vấn đề

chung liên quan tới sự duy trì cuộc sống của con người. Vì vậy, trách nhiệm xã
hội chính là trách nhiệm đối với sự phát triển của xã hội loài người qua từng
gian đoạn lịch sử nhất định. Trách nhiệm xã hội biến đổi theo sự phát triển của
xã hội loài người và tùy ở từng cộng đồng, từng dân tộc, từng quốc gia nhất
định mà có những biểu hiện, những hình thức thể hiện khác nhau. Trong khuôn
khổ nghiên cứu của đề tài, bước đầu chúng tôi chỉ đề cập đến trách nhiệm xã
hội của cá nhân với tư cách là chủ thể thực hiện trách nhiệm xã hội trên cơ sở
đáp ứng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cá nhân khi tham gia
vào đời sống xã hội. Trách nhiệm này vừa mang tính bắt buộc (trách nhiệm
pháp lý) vừa mang tính tự nguyện (trách nhiệm đạo đức).
Thông qua hoạt động thực tiễn và quá trình tham gia vào các mối quan
hệ xã hội, mỗi cá nhân dần dần lĩnh hội được những yêu cầu, chuẩn mực đạo
đức của xã hội, biến những yêu cầu, chuẩn mực ấy thành những hiểu biết của
riêng mình, từ đó hình thành nhận thức đạo đức của mỗi cá nhân. Khi những
yêu cầu, chuẩn mực đạo đức đã được lĩnh hội trở nên phù hợp với những nhu
cầu phát triển của cá nhân và cộng đồng, lúc này nhận thức về trách nhiệm và
hành vi có trách nhiệm với tư cách là mặt biểu hiện của hành vi có đạo đức đã
dần hình thành. Khi nhận thức và hành động có trách nhiệm trở thành một
thói quen tự nhiên trong hoạt động của mỗi cá nhân sẽ dẫn đến trách nhiệm
đạo đức. Có trách nhiệm đạo đức, con người tự giác hành động, làm theo lẽ
phải, biết lựa chọn đúng sai, nhận thức được cái nên làm, phải làm vì sự phát
triển chung của cả cộng đồng. Và khi thực hiện trách nhiệm đạo đức, hoàn
thành trách nhiệm đạo đức có nghĩa là bản thân mỗi cá nhân đã đem lại hạnh
phúc cho người khác và nhất là cho chính bản thân mình. Đồng thời, khi thực
hiện trách nhiệm đạo đức một cách tự nguyện, tự giác, con người sẽ luôn cảm



15
thấy được sự thanh thản trong tâm hồn, cảm thấy hạnh phúc. Chính điều này

càng thôi thúc con người hành động tốt hơn, hướng đến điều thiện nhiều hơn
và mong muốn đem lại hạnh phúc cho những người khác, cho cộng đồng
nhiều hơn.
Từ phương diện trách nhiệm xã hội của cá nhân, trách nhiệm của con
người có nội dung khách quan, và nội dung này suy cho cùng, do những yêu
cầu của xã hội quy định. Việc đưa những yêu cầu, quy định, quy tắc, điều
luật… này của xã hội chính là để tạo ra một cơ chế hoạt động của xã hội mà
mỗi cá nhân với tư cách là thành viên trong xã hội phải nhận thức, thấu hiểu
và tuân thủ nghiêm ngặt nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của xã hội.
Hoạt động của con người càng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của xã hội thì nội
dung của trách nhiệm xã hội càng phong phú, đa dạng. Việc ý thức một cách
sâu sắc những yêu cầu mang tính quy luật đó sẽ cho phép con người quyết
định và lựa chọn hành động, hành vi một cách đúng đắn hơn, có trách nhiệm
hơn. Đồng thời, sự phát triển của xã hội và lịch sử nói chung chỉ có thể diễn
ra bình thường, lành mạnh, đi đúng quy luật khi mỗi cá nhân nhận thức tự
giác về mối quan hệ cá nhân – xã hội nên xét về khía cạnh lợi ích, vai trò và
chức năng của trách nhiệm xã hội thể hiện ở chỗ nó có thể kiềm chế và kích
thích con người trong mọi hành động, nó góp phần điều chỉnh hệ thống các
nhu cầu của con người trên cơ sở sự thống nhất các lợi ích. Như C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “chừng nào con người còn ở trong xã hội hình thành
một cách tự nhiên, do đó chừng nào còn có sự chia cắt giữa lợi ích riêng và
lợi ích chung, do đó chừng nào còn có sự phân chia hoạt động còn được tiến
hành không phải một cách tự nguyện mà một cách tự nhiên thì chừng đó hành
động của bản thân con người sẽ trở thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con
người, và nô dịch con người, chứ không phải bị con người thống trị”[81;tr47].
Vì vậy, sự thống nhất biện chứng của các loại lợi ích trong quan hệ cá nhân -



16

xã hội chính là cơ sở, động lực thúc đẩy cá nhân hành động. Mối quan hệ biện
chứng giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chỉ có thể được thực hiện đúng
đắn khi quan hệ lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội được giải quyết một cách hài
hòa. Đó là quá trình mà lợi ích cá nhân này không xâm phạm đến lợi ích của
cá nhân khác và của toàn xã hội. Như trong quan niệm của Hồ Chí Minh đã
nêu: " lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích tập thể, là bộ phận của lợi ích tập
thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới
có điều kiện để được thỏa mãn". Người luôn coi sự thống nhất giữa lợi ích tập
thể và lợi ích cá nhân là một nguyên tắc cơ bản có tính quy luật của xã hội ta
hiện nay. Tuyệt nhiên, đó không phải là sự thống nhất máy móc, khô cứng,
nhất thành bất biến, mà là sự thống nhất luôn nằm trong sự vận động, trong đó
những mâu thuẫn, xung đột vẫn thường nảy sinh và được giải quyết.
Phương thức để giải quyết mọi mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa lợi
ích chung của tập thể, xã hội và lợi ích riêng của cá nhân chỉ có thể tìm được
trên cơ sở của những nhận thức và hành vi đạo đức, hành vi mang tinh thần
trách nhiệm. Như Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ, tất cả cán bộ, đảng viên dù ở
bất cứ cương vị nào, muốn giữ vững đạo đức cách mạng đều phải kiên trì tu
dưỡng, rèn luyện các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính và hành động theo
nguyên tắc đạo đức chí công vô tư. Đây chính là cơ sở để giải quyết thỏa đáng
và hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. C.Mác và
Ph.Ăngghen cũng đã nhấn mạnh: "Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của
toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá
biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người"[80;tr.199-200]. Điều này chỉ
có thể thực hiện được khi mỗi cá nhân luôn luôn có ý thức trách nhiệm xã hội
và năng lực chịu trách nhiệm đối với mỗi hoạt động của bản thân mình. Khi
mỗi người sống có trách nhiệm với nhau, khi con người ý thức được sự cần
thiết phải hợp tác trong các quan hệ xã hội thì tất yếu sẽ nảy sinh ở mỗi cá




17
nhân xu hướng tương trợ nhau, có quan hệ bình đẳng và công bằng đối với
nhau. Cho nên, hiểu một cách đầy đủ, trách nhiệm xã hội chính là năng lực
xác định được lợi ích hoặc tác hại đối với người khác, đối với toàn xã hội của
hành động.
Như đã khẳng định, mỗi con người khi hoạt động đều nhằm đạt đến
một mục đích nhất định, nhưng không phải tất cả đều chỉ nhằm đạt đến cái lợi
cá nhân mà chà đạp lên lợi ích chính đáng của người khác, hoặc bất chấp các
quy phạm, các chuẩn mực đạo đức của xã hội. Nền kinh tế thị trường là môi
trường thuận lợi cho con người tìm kiếm lợi nhuận nhưng không phải chỉ cho
riêng mình mà cho sự tiến bộ chung của cả cộng đồng. Do vậy, những cá
nhân, những doanh nghiệp, những cá nhân có chỗ đứng vững vàng trong cơ
chế thị trường từ trước đến nay, ngoài năng lực trí tuệ, khả năng thích ứng
nhanh trên thương trường, họ luôn luôn đặt chữ tín làm đầu, trọng đạo nghĩa,
luôn biết điều chỉnh hoạt động của bản thân trong khuôn khổ những chuẩn
mực pháp lý, chuẩn mực đạo đức. Điều này trở thành yêu cầu về trách nhiệm
đạo đức đối với mỗi cá nhân trên tất cả mọi lĩnh vực hoạt động. Để có được
trách nhiệm con người cũng cần phải có được nững hiểu biết cần thiết trong
hoạt động và cuộc sống của mình (chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp).
Những hiểu biết này giúp họ thực hiện có hiệu quả và do đó có trách nhiệm
hơn trong công việc của mình; đồng thời giúp họ có được những ứng xử hợp
chuẩn xã hội, tức là có trách nhiệm trong cuộc sống. Để có được trách nhiệm
con người còn phải có năng lực chịu trách nhiệm. Năng lực này biểu hiện ở ý
thức về hậu quả của hành động, hành vi; ở ý chí vượt khó hoàn thành nghĩa
vụ, ngăn chặn những tác động tiêu cực của hành động và phát huy tác động
tích cực của hành động đối với lợi ích xã hội. Tất cả những điều kiện của sự
hình thành và phát triển trách nhiệm đều liên quan và bị quy định bởi sự phát
triển nhận thức, đạo đức và nói chung là nhân cách con người, và điều này chỉ




18
có thể có được khi con người tham gia vào mọi hoạt động của đời sống cộng
đồng một cách có đạo đức, có ý thức trách nhiệm. Do đó, trách nhiệm xã hội
góp phần điều chỉnh, định hướng và phát triển nhân cách con người theo
hướng ngày càng tiến bộ.
Bên cạnh đó, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của con người luôn gắn
liền với sự phát triển của đời sống kinh tế, chính trị, có tác động đến các quan
hệ lợi ích, có tác động đến đời sống tinh thần của xã hội. Cùng với đạo đức,
trách nhiệm xã hội là một trong những yếu tố đảm bảo sự ổn định về chính trị
và tạo điều kiện thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển lành mạnh. Do đó,
Việc tham gia rộng rãi vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội sẽ làm
phong phú và nâng cao vai trò của trách nhiệm như là động lực của sự phát
triển xã hội. Trên thực tế, sự phát triển của trách nhiệm xã hội, trách nhiệm
đạo đức sẽ đảm bảo cho xã hội bớt đi những tác động trái chiều do mặt trái
của kinh tế thị trường mang lại, trong nhiều trường hợp có thể căn cứ trên
những chuẩn mực đạo đức, những yêu cầu về trách nhiệm đạo đức để ngăn
chặn các hành vi vô trách nhiệm, thiếu ý thức tôn trọng cộng đồng. Tiêu biểu
như trong hoạt động kinh tế, với tính chất đào thải, cạnh tranh hết sức khắc
nghiệt, bất kỳ một doanh nghiệp hay cá nhân nào khi tham gia vào thị trường
đều chỉ có thể thành công và tồn tại lâu dài nếu như nhà quản lý biết khơi dậy
và phát huy tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác, lương tâm nghề nghiệp của
tập thể mình. Một khi bản thân nhà kinh doanh biết quan tâm đến hiệu quả,
đến các giá trị đích thực, trọng chữ tín, tôn trọng con người và môi trường tự
nhiên thì hoạt động của họ sẽ thu hái được thành công và nhận được sự đồng
tình ủng hộ của cộng đồng xã hội. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta trong những
năm vừa qua đã chứng thực một điều rằng những cá nhân, những doanh
nghiệp đã gặt hái được những thành công trên thương trường thì hoạt động
của họ luôn có sự tôn trọng những chuẩn mực đạo đức và sự tuân thủ pháp




19
luật. Đó chính là ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, mỗi công dân trong giai
đoạn phát triển mới của đất nước, là sự thể hiện thái độ chính trị tích cực cũng
như lối ứng xử văn minh trong thời đại mới. Đây đồng thời cũng chính là sức
mạnh của mỗi cá nhân, của xã hội, là nhân tố tạo ra năng lực cạnh tranh hiệu
quả trong nền kinh tế thị trường, trong sự hội nhập và giao lưu với khu vực và
quốc tế. Trong thời đại ngày nay, nhân loại tiến bộ đã ý thức được rằng,
những giá trị, những chuẩn mực đạo đức, những yêu cầu trách nhiệm đạo đức
vẫn luôn là vấn đề có ý nghĩa hết sức cần thiết đối với bất kỳ xã hội nào, thời
đại nào. Việc đánh giá trình độ phát triển, tiến bộ của xã hội luôn luôn gắn
liền với những chuẩn mực giá trị, những yêu cầu đạo đức, nó được coi là nền
tảng tinh thần, là nội lực thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội.
1.2. Những nhân tố quy định sự hình thành trách nhiệm xã hội
1.2.1. Nhân tố kinh tế
Như trên đã chỉ ra, trách nhiệm xã hội của được hình thành từ trong lao
động và các hoạt động xã hội của con người nhằm điều chỉnh quan hệ lợi ích
giữa cá nhân với gia đình và cộng đồng, xã hội. Sự điều chỉnh này được thực
hiện thông qua các nguyên tắc phát triển, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật
phản ánh các yêu cầu của xã hội đối với cá nhân. Đến lượt mình, các yêu cầu
của xã hội thể hiện trong các nguyên tắc, các chuẩn mực về trách nhiệm và
mức độ chịu trách nhiệm chính là sự phản ánh một trình độ phát triển kinh tế -
xã hội nhất định và phản ánh những đòi hỏi đảm bảo cho sự phát triển ổn định
của xã hội tương ứng với trình độ phát triển đó. Nói một cách khác, mỗi thời
đại kinh tế - xã hội nhất định sẽ có những đòi hỏi tương ứng về trách nhiệm
xã hội của mỗi cá nhân với tư cách là thành viên của cộng đồng. Do vậy, khi
cơ sở kinh tế đã thay đổi sẽ là nhân tố quy định sự hình thành và biến đổi của
trách nhiệm xã hội.




20
Lịch sử phát triển của đời sống đạo đức nhân loại đã cho thấy, một mặt,
trình độ phát triển của kinh tế - xã hội quy định những yêu cầu về trách nhiệm
xã hội của mỗi cá nhân, tổ chức và toàn xã hội; mặt khác, trên cơ sở tính quy
định của kinh tế - xã hội, các yêu cầu về trách nhiệm lại tác động ngược trở
lại và trở thành một trong những nhân tố có tác dụng làm bình ổn sự phát triển
của đời sống kinh tế - xã hội. Trước đó, trong xã hội nguyên thủy, khi sản
xuất còn ở trình độ thấp kém, thô sơ, sản phẩm xã hội chỉ đủ đáp ứng nhu cầu
của con người. Lợi ích cá nhân phụ thuộc trực tiếp vào lợi ích sống còn, hàng
ngày của cộng đồng. Trong xã hội này không những lợi ích cá nhân mà vai trò
của cá nhân cũng “tan biến” vào trong cộng đồng, các cá nhân sống phụ thuộc
vào nhau, và tất nhiên, ý thức trách nhiệm cộng đồng cũng từ đó mà hình
thành và phát triển. Để đảm bảo cho sự bình ổn của xã hội thì chuẩn mực về
trách nhiệm chính là làm thế nào để đảm bảo được sự phân phối công bằng
cho tất cả mọi thành viên trong cộng đồng.
Đến những giai đoạn phát triển tiếp sau - khi xã hội chuyển sang chế độ
chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến với sự phát triển hơn về kinh tế, sự hoàn
thiện về mặt trí tuệ, thể lực, lúc này những chuẩn mực đạo đức xã hội đối với
con người cũng ngày càng được nâng cao hơn, điều này kéo theo những yêu
cầu về trách nhiệm của mỗi thành viên trong xã hội cũng ngày càng chặt chẽ
hơn. Đặc biệt, khi bước vào giai đoạn nền kinh tế thị trường bắt đầu hình
thành và phát triển, đời sống hiện thực xã hội lúc này biến đổi từ một xã hội
bình quân, nghèo nàn và trì trệ từng bước trở thành xã hội năng động, cơ cấu
lợi ích trong xã hội và nhu cầu con người cũng biến đổi. Việc phát triển kinh
tế thị trường đã tạo ra một môi trường tốt cho việc phát huy nhân tố con
người.
Kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường tuân theo qui luật giá trị, qui luật
thị trường đã tạo ra môi trường kinh tế để kích thích sự phát triển các năng lực




21
cá nhân, đảm bảo cho con người quyền chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của chính mình. Trong cơ chế thị trường và với cơ chế thị trường, cơ hội tìm
kiếm việc làm và thu nhập đã mở ra cho tất cả mọi người, đồng thời mọi
người cũng phải làm quen, thích ứng với yêu cầu về những đòi hỏi nghiêm
ngặt của năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc, sự sàng lọc và thải loại
những giả giá trị, cả tâm lý thụ động, ỷ lại, lối sống ký sinh, ăn bám vào người
khác, vào nhà nước. Đó thực sự là môi trường kinh tế để khẳng định cá nhân,
quyền và lợi ích cá nhân trong lao động. Nó khuyến khích và đòi hỏi sự tháo
vát, năng động, sự đổi mới; nó xa lạ với thói dựa dẫm, bảo thủ, trì trệ, thói
phù phiếm, lãng phí, vô trách nhiệm không chỉ với cộng đồng xã hội, mà với
cả chính mình. Khi con người làm giàu bằng lao động chính đáng được
khuyến khích cũng như mọi lao động có ích cho bản thân và xã hội đều là lao
động được thừa nhận về phương diện đạo đức. Do vậy, trách nhiệm của con
người lúc này được xác định một cách cụ thể trên cơ sở tuân thủ các quy luật
hoạt động kinh tế, quy luật hoạt động của thị trường cùng với sự mở rộng của
những mối quan hệ mua - bán, trao đổi, hình thành nhiều chuẩn mực trong
kinh doanh như: cạnh tranh lành mạnh, không dùng thủ đoạn, mánh lới trong
giao thương, tôn trọng đối tác… Những phẩm chất tốt đẹp như tính độc lập, tự
chủ, tự quyết định bản thân, tự chịu trách nhiệm về hành vi là những quan hệ của
mình đối với người khác và đối với xã hội được coi trọng. Tuy nhiên, đi liền với
sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của sản xuất, đời sống vật chất của con người
ngày càng được nâng cao thì cũng nảy sinh rất nhiều những vấn nạn về đạo đức
trong đời sống kinh tế - xã hội, và do đó, vấn đề trách nhiệm xã hội ở nhiều nơi,
nhiều lĩnh vực không được thực hiện một cách tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu
bên trong của con người.
Như vậy, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của kinh tế - xã

hội, trách nhiệm xã hội cũng đã dần dần được định hình. Ban đầu là mang



22
tính chất tự nhiên, sau đó dần trở thành những chuẩn mực của đời sống, và
ngày nay, trách nhiệm xã hội đã trở thành một đòi hỏi mang tính tự giác
không thể thiếu của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức và của toàn xã hội.
1.2.2. Nhân tố chính trị
Cần nhận thấy rằng, sự hình thành của ý thức trách nhiệm, hành vi
trách nhiệm không chỉ chịu sự chi phối của cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, của
môi trường sống, mà còn chịu sự quy định và tác động qua lại với những hình
thái ý thức xã hội khác, mà tiêu biểu là ý thức chính trị. Với tư cách là một
hình thái kinh tế - xã hội, chính trị có quan hệ qua lại, thậm chí là có tác động
điều chỉnh và chi phối các hình thái ý thức xã hội, trong đó bao gồm cả đạo
đức với những chuẩn mực của nó (do đó, điều chỉnh cả những yêu cầu về ý
thức trách nhiệm). Trên thực tế, chính trị đã sử dụng đạo đức như là phương
tiện tinh thần để bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp cầm quyền trong những
chế độ xã hội nhất định. Tuy nhiên, đạo đức xã hội với những yêu cầu và
chuẩn mực hành vi của nó cũng có tính độc lập tương đối, và do vậy, nó có
tác động trở lại đối với chính trị. Trong một chừng mực nhất định có thể thấy
được rằng khi những tư tưởng chính trị của một chế độ xã hội đã trở nên lỗi
thời, thậm chí suy thoái, không phù hợp với đạo lý làm người trong xã hội thì
bản thân cộng đồng đó sẽ kiên quyết đứng lên đấu tranh để bảo vệ những giá
trị chân chính, những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của cả cộng đồng. Đó chính
là khi một chế độ xã hội phải coi dân chủ là tiêu chí hàng đầu của cả nền
chính trị. Do đó, nếu như kinh tế là nhân tố quy định sự hình thành trách
nhiệm xã hội của mỗi cá nhân ở khía cạnh nghĩa vụ phải thực hiện các yêu
cầu, chuẩn mực bắt buộc của xã hội thì việc đảm bảo thực hiện dân chủ sẽ là
nhân tố làm gia tăng và phong phú các quyền của cá nhân cũng như những

đảm bảo xã hội cho sự thực hiện các quyền đó trở thành tiêu chí của sự phát



23
triển tự do và tiến bộ xã hội - mặt biểu hiện hành động thực hiện trách nhiệm
một cách tự giác, tự nguyện.
Nếu xét từ bình diện lịch sử thì trách nhiệm xã hội của con người trong
thời nguyên thủy là mang tính tập tục, tập quán; khi xã hội bắt đầu phân chia
giai cấp, trách nhiệm đã bắt đầu mang tính bắt buộc (trách nhiệm pháp lý) trội
hơn trách nhiệm đạo đức. Gắn liền với sự hình thành và phát triển của luật
pháp thì quá trình phát triển của dân chủ đã tạo điều kiện cho sự phát triển
trách nhiệm cả về mặt pháp lý, cả về mặt đạo đức. Dân chủ chính là sự mở
rộng các quyền của con người: quyền tự do kinh doanh, tự do cư trú, tự do tôn
giáo, tự do lập hiệp hội, quyền tự do tham gia rộng rãi vào đời sống chính trị,
xã hội… tất cả những điều này làm cho hoạt động của con người ngày càng
được tự do và đảm bảo hơn. Thông qua đó, trách nhiệm của con người đối với
cộng đồng, xã hội và nhân loại cũng ngày càng được mở rộng và nâng cao.
Con người thực hiện trách nhiệm pháp lý ngày càng tự giác hơn và khả năng
chuyển hóa từ trách nhiệm pháp lý thành trách nhiệm đạo đức cũng cao hơn.
Một nền dân chủ chân chính, tiến bộ và hiện đại bao giờ cũng gắn liền với
quyền và nghĩa vụ, lợi ích với trách nhiệm. Đó là quan hệ mật thiết không thể
tách rời, nó thấm nhuần trong các quan hệ giữa công dân với nhà nước, cá
nhân với xã hội, thành viên với cộng đồng.
Chính từ chỗ nhận thức sâu sắc mối quan hệ giữa dân chủ, kỷ cương và
trách nhiệm xã hội của con người, Đảng Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam
luôn coi “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân
dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi

đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phản ánh lợi
ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách



24
nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước”[36;tr.44]. Điều này có nghĩa là, mọi đường lối,
chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của
đất nước và nhân dân lao động, đồng thời nhân dân phải có trách nhiệm tham
gia vào việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Điều này phản ánh thực chất Nhà nước “của dân, do
dân và vì dân”. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân có quyền làm chủ
thì đồng thời cũng có nghĩa vụ của người chủ, do vậy, nhân dân thông qua
trách nhiệm của mình đối với đất nước, với bản thân mà thể hiện quyền làm
chủ của mình.
Như đã chỉ ra, trách nhiệm phản ánh mối quan hệ qua lại giữa cá nhân
với xã hội, giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã
hội. Bởi thế, vấn đề không chỉ là ở chỗ đẩy mạnh dân chủ và đề cao trách
nhiệm của quần chúng nhân dân. Để có thể xây dựng một xã hội dân chủ còn
phải “đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với nhân dân”.
Nếu không thấy được sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện đó của
trách nhiệm thì có thể làm cho một số cá nhân chỉ biết đến quyền hạn của
mình và chỉ muốn dùng quyền hạn đó phục vụ lợi ích riêng. Tình trạng “dân
chủ ở nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm, quan liêu,
tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng” trong thời gian qua cho thấy, sự cần
thiết phải nâng cao trách nhiệm xã hội của các tổ chức Đảng, Nhà nước, các
cán bộ, viên chức nhà nước đối với đất nước, nhân dân. Đảng Cộng Sản Việt
Nam “chủ trương xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và
công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân

dân”[36;tr.44-45]. Đó chính là sự khẳng định và nhấn mạnh trách nhiệm của
các tổ chức Đảng, Nhà nước, cán bộ công chức đối với nhân dân. Việc đổi
mới đất nước, phát triển kinh tế, xã hội phụ thuộc nhiều vào hoạt động, tài

×