Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Giáo trình Văn học trẻ em (Dùng cho ngành GD Mầm non – hệ đào tạo từ xa): Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.55 KB, 38 trang )

CÂU ĐỐ
I - ĐỊNH NGHĨA CÂU ĐỐ
Câu đố là một thể loại văn học dân gian phản ánh thế giới khách quan
bằng phương pháp riêng, không giống với phương pháp phản ánh của bất kỳ thể
loại văn học dân gian nào khác. Đó là một loại phương tiện đặc biệt để nhận
thức và kiểm tra nhận thức về các sự vật, hình tượng trong thế giới khách quan,
đồng thời để mua vui giải trí của nhân dân.
Miêu tả, tường thuật đặc điểm của từng loại sự vật, hiện tượng theo phương
pháp ẩn dụ riêng (ẩn dụ khơng có giới hạn) làm cho người nghe bị đánh lừa và
đoán lệch để sau đó nhận được sự giải đáp bất ngờ nhưng chí lý và thú vị.
Ẩn dụ khơng có giới hạn: Ẩn dụ ca dao, tục ngữ và trong văn học nói
chung bao giờ cũng nhằm nói về con người và xã hội lồi người một cách kín
đáo nghệ thuật. Cịn trong câu đố cái được dấu kín (ẩn đi) khơng nhất thiết là
người mà có thể là bất kỳ sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Câu đố phản ánh đặc điểm của sự vật trong thế giới khách quan bằng phương
pháp dấu tên, phương pháp ẩn dụ riêng của nó.
II- NỘI DUNG Ý NGHĨA CỦA CÂU ĐỐ
Dựa vào đề tài có thể chia câu đố Việt thành các loại hình thức sau đây:
1- Câu đố về các hiện tượng tự nhiên, vũ trụ
2- Câu đố về các loại động vật, thực vật.
3- Câu đố về người.
4- Câu đố về các sự vật văn hoá vật chất và tinh thần.
Câu đố không miêu tả phản ánh từng sự vật riêng biệt, xác định cũng
khơng nói tổng qt về các chủng loại lớn (cây cối, chim muông...) mà chọn
những sự vật mang đặc điểm chung của chủng loại. Cụ thể : rau sam, con chó,
cái chổi... Do đó sự vật được phản ánh trong câu đố tuy cụ thể nhưng khơng xác
định. Đó là cái cụ thể mang tính phổ biến (chứ khơng phải tính cá biệt).
1. Câu đố chứa đựng nội dung về khoa học thường thức
- Câu đố giúp trẻ em nhận biết về các hiện tượng tự nhiên và vũ trụ : Bầu
trời, sao, mặt trời, trăng, sấm, chớp...
Ví dụ:


Khơng sơn mà đỏ, khơng gõ mà kêu, không kều mà rụng.
Lên một lên hai ...
Một mẹ mà có vạn con...


- Câu đố giúp trẻ nhận biết về động vật và thực vật:
Loại này vô cùng phong phú: vật nuôi trong nhà: gà, lợn, vịt... ngồi đồng
: cua, tơm, ốc... Các loại cây lương thực: lúa, ngô, khoai... Các loại rau, cây
trồng:
Mình đen chân trắng, đứng nắng giữa đồng (Cị)
Mình đen mặc áo da sồi, nghe trời chuyển động thì ngồi kêu oan (Cóc).
Vừa bằng thằng bé lên ba
Thắt lưng con cón chạy ra ngồi đồng (Mạ)
- Đặc biệt, giúp trẻ gần gũi với những sự vật do con người làm ra: công cụ, đồ
dùng....
Tay cầm bán nguyệt xênh xang...(liềm)
Vừa bằng lá tre, xun xoe đánh vật (Kéo)
- Giúp trẻ làm quen với một số hành động của con người trong cuộc sống hàng
ngày:
Năm ông cần hai cây sào
Lùa đàn trâu bạc ào ào vào khe (ăn cơm)
Ruộng vuông bốn góc
Trúc mọc thẳng hàng
Ve ngân thánh thót
Gà què nhảy nhót một chân (viết tập)
Thế giới tự nhiên quả là phong phú, đa dạng, đối với trẻ em cần được
phám khá và lý giải - Câu đố đã giúp trẻ em nhận thức được về đặc điểm của
các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên. Tư duy của các em được phát triển nhờ sự
liên tưởng giữa đặc điểm của sự vật, hiện tượng được miêu tả với đặc điểm của
sự vật ẩn dấu đằng sau hình thức ngơn từ.

2. Nội dung và ý nghĩa xã hội của câu đố
Trong câu đố chắc chắn các tác giả dân gian không đặt ra vấn đề và phát biểu
quan niệm của mình về những vấn đề xã hội và nhân sinh. Mặc dù không tự
giác, nhưng khi sáng tác câu đố, các tác giả vẫn cứ để lộ ra những quan niệm của
mình về xã hội, nhân tình thế thái. Bởi trong xã hội phong kiến, đấu tranh giai
cấp ngày càng trở nên gay gắt, quyết liệt:
- Câu đố thể hiện thái độ khinh bỉ, xem thường, giễu cợt giai cấp thống trị
Bằng hạt đỗ ăn cỗ với vua (Ruồi)
Một lũ ăn mày, một lũ quan.. (Đèn kéo quân).


- Câu đố phản ánh tình trạng xấu xa, đen tối của xã hội phong kiến
Con đóng khố, bố cởi truồng

(Tre măng)

Hai thằng có bệnh thì khơng ... ( Đơi kính và mắt).
- Câu đố phản ánh thân phận khổ đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Khi ở với mẹ da đỏ hồng hồng ... (Nồi đất)
Vốn xưa em trắng nhngà ...

(Cái chiếu)

- Câu đố phản ánh thế thái nhân tình bạc bẽo, bất cơng
Ngả lưng cho thế gian...
(Cái phản)
Đem chân che nắng cho người... (cái dại)
- Câu đố chan chứa tình người:
Nắng ba năm ta khơng bỏ bạn
Mưa một ngày bạn nỡ bỏ ta

(Cái bóng)
Qua câu đố, ta thấy một ý vị hài hước kiểu dân gian, thấy trạng thái hồn
nhiên của người nơng dân, đó là chức năng mua vui, giải trí của câu đố. Muốn
làm tròn chức năng phát triển tư duy cho trẻ, câu đố cần có sự tác động tổng hợp
cả vào lý trí, lẫn tình cảm.
III- HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT CỦA CÂU ĐỐ
Câu đố đã khai thác và sử dụng rất nhiều phương tiện và thủ pháp nghệ
thuật của thơ ca để thể hiện nội dung mang tính khoa học của nó.
1. Câu đố giàu âm thanh, vần điệu
Tính cân đối, nhịp nhàng nhưng ngắn gọn được tạo ra nhờ cách miêu tả
trực tiếp (gần như là tả chân) hình dáng, đặc điểm của sự vật.
Chân đen mình trắng, đứng nắng giữa đồng (Con cò)
Phần lớn câu đố được miêu tả theo lối gián tiếp (tả cái này để nói cái kia).
Hai hình tượng tồn tại song song, một hình tượng phơ bày bên ngồi, một hình
tượng ẩn náu bên trong. Hình tượng bên trong là vật đố, hình tượng bên ngồi vật để đố
2. Dùng phương pháp ẩn dụ, hốn dụ
3. Nhiều thủ pháp nghệ thuật khác
Động vật hoá, thực vật hố, tự nhiên hố.
Phương pháp ẩn dụ khơng có giới hạn hay phương pháp chuyển hoá tự do
của câu đố.
4. Dùng các phương pháp chơi chữ
Đối nghĩa, đồng âm, khác nghĩa, trái nghĩa, nói lái...


CÂU HỎI ÔN TẬP
1) Định nghĩa về thần thoại - truyền thuyết. Phân biệt sự khác nhau giữa
hai loại truyện trên các mặt: Hoàn cảnh ra đời, chức năng, đề tài, nhân vật...
2) Lý giải và chứng minh ý kiến sau đây của Mác trên cơ sở những tư liệu
về thần thoại Việt Nam: “Thần thoại nào cũng chinh phục, chi phối và nhào nặn
những sức mạnh tự nhiên trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng”.

(Chú ý xác định khái niệm “sức mạnh tự nhiên” trong câu nói).
3) Phân tích nội dung ý nghĩa và nghệ thuật độc đáo của những truyện
thần thoại sau đây: Thần trụ trời, Chú cuội cung trăng, Nữ thần mặt trời và mặt
trăng, Cóc kiện trời, Lúa thần, Rét nàng Bân, Mười hai bà mụ, Rắn già rắn lột,
Sơn Tinh - Thuỷ tinh ...
4) Tìm và phân tích những yếu tố thần thoại được bảo tồn, lưu giữ trong
những hình thức văn hố khác của dân tộc (phong tục, tín ngưỡng, hội hoạ, điêu
khắc, tục ngữ, ca dao cổ...).
5) Lý giải phân tích mức độ và sự thể hiện của hai tính chất thần thoại và
truyền thuyết trong các truyện: Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, Lạc Long Quân - Âu Cơ,
Thánh Gióng, An Dương Vương. Nên xếp các truyện trên vào thể loại nào? Vì
sao ?
6) Dựa vào những truyền thuyết tiêu biểu về thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc
và Bắc thuộc, lý giải và chứng minh ý kiến sau đây của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng: “Những truyền thuyết dị thường có một cái lõi là sự thực lịch sử mà nhân
dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hoá gửi gắm vào đó tâm tình của mình cùng
với thơ và mộng chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm
nên những tác phẩm văn hoá mà đời đời con người ưa thích”. (Chú ý phân tích
sự kết hợp chặt chẽ giữa hiện thực lịch sử và lý tưởng thẩm mỹ trong phương
pháp sáng tác truyền thuyết. Tại sao Phạm Văn Đồng gọi truyền thuyết dân gian
là những “tác phẩm văn hố”?).
7) Phân tích các nhân vật truyền thuyết sau: Lạc Long Quân, Thánh
Gióng, An Dương Vương, Mỵ Châu, Trọng Thuỷ, thần Kim Quy, Hùng Vương
trong các truyền thuyết thời kỳ Văn Lang.
8) Từ truyện “Thánh Gióng” đến truyện “An Dương Vương” dòng truyền
thống chống xâm lăng của người Việt đã phát triển như thế nào về các phương
diện: Đề tài, chủ đề, cốt truyện, phương pháp xây dựng nhân vật?


9) Phân tích, so sánh ba cái chết của An Dương Vương, Mỵ Châu, Trọng

Thuỷ?


VĂN HỌC TRẺ EM VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Trước cách mạng tháng Tám, trừ văn học dân gian chưa có một nền văn
học cho thiếu nhi ở nước ta. Bởi vì dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến,
quyền tự do làm người và tự do tư tưởng của mỗi người đều bị kìm hãm, quyền
tự do sáng tác văn chương nói chung của những người cầm bút đã bị hạn chế,
nên càng rất ít người nghĩ đến việc sáng tác cho thiếu nhi.
Thời đó, có một số sáng tác cho thiếu nhi của một số nhà văn như Tú Mỡ,
Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài…nhưng những sáng tác của các nhà
văn ấy chưa đủ để làm nên một nền văn học cho thiếu nhi.
Như vậy, dưới thời thực dân, phong kiến, văn chương dân gian mang ý
nghĩa chân chính của cuộc sống và mơ ước đến với tuổi thơ. Kho tàng văn
chương dân gian, từ những lời hát ru, những câu ca dao, tục ngữ, những bài
đồng dao, đến những truyện thần thoại, cổ tích…bao giờ cũng là chiếc nơi êm ả,
ni dưỡng tâm hồn thế hệ trẻ. Thông qua văn chương dân gian, các em biết
phân biệt cái thiện và cái ác, cái chính và cái tà, rồi từ đó cũng hình thành cho
các em những thị hiếu thẩm mỹ quý báu. Vì vậy, có thể nói rằng, dưới chế độ
cũ, văn chương dân gian là nguồn lành mạnh nhất, đáng trân trọng nhất đối với
tâm hồn tuổi thơ.
2. Tư ngày Cách mạng Tháng Tám thành cơng, văn học thiếu nhi Việt Nam
hình thành và phát triển. Chúng ta có thể nhận thấy những chặng chính trên con
đường phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam như sau:
a. Chặng thứ nhất (1945 - 1954): Văn học thiếu nhi trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược. Văn học thiếu nhi chặng đường này chưa thể
coi là định hình với những tác phẩm có giá trị, với những nhà văn có tên tuổi.
Điều đáng chú ý là sự quan tâm của Đảng và Bác Hồ đối với việc xây dựng một

nền văn học thiếu nhi mới. Đó là yếu tố có ý nghĩa lớn đối với sự hình thành và
phát triển của một nền văn học thiếu nhi cách mạng.


Trong những ngày kháng chiến gian khổ, bộ phận văn học thiếu nhi của
Hội văn nghệ đã được thành lập, do nhà văn Tơ Hồi phụ trách. Các nhà văn,
nhà thơ, nhạc sỹ nổi tiếng đều có mặt trong bộ phận này như: Nam Cao, Nguyễn
Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Tuân, Lưu Hữu
Phước…Báo cho thiếu nhi lúc này đáng chú ý nhất là tờ Thiếu Sinh, ngoài ra
cịn có các tờ: Thiếu niên, Tuổi trẻ, Xung phong, Măng non,… Sách đã có các
loại như: Kim Đồng, Hoa kháng chiến…Những sách báo này tuy có ít, in ấn
cịn thơ sơ, nhưng đã có mặt ở khắp chiến khu, đã trở thành những người bạn
thân thiết của thiếu nhi kháng chiến, đã góp phần tích cực vào việc bồi dưỡng
những đức tính tốt, những tình cảm đẹp cho thiếu nhi, và thực sự đã trở thành
vốn quý ban đầu của một nền văn học thiếu nhi mới.
Có thể nói rằng, đây là chặng mở đầu cho nền văn học thiếu nhi của nước
Việt Nam độc lập. Thành tựu về tác phẩm chưa nhiều, đội ngũ người viết chưa
đông đảo, nhưng tất cả nhừng gì đã đạt được ở chặng này đều chứng tỏ rằng nền
văn học thiếu nhi mới đã thực sự hình thành, sinh lực của nó rất dồi dào, nó có
đủ điều kiện để phát triển trong tương lai.
b. Chặng thứ hai (1955 - 1964): Văn học thiếu nhi trong giai đoạn xây
dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước:
Chặng đường này có những sự kiện nổi bật đáng chú ý như sau:
- Tiểu ban Văn học thiếu nhi trong Hội liên hiệp văn học nghệ thuật đã
được thành lập.
- Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai (1957) đã đề ra nhiệm vụ sáng tác
cho thiếu nhi.
- Ngày 17-6-1957, Nhà xuất bản Kim Đồng được thành lập dưới chỉ đạo
của Đoàn thanh niên (ra mắt cùng ngày với Nhà xuất bản Văn học tại Thủ Đô
Hà Nội), đánh dấu một bước chuyển mới của nền văn học thiếu nhi Việt Nam.

- Năm 1962, Bộ giáo dục và Trung ương Đoàn thanh niên phối hợp tổ chức
cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi. Nhiều nhà văn, nhà giáo đã hưởng ứng
nhiệt liệt.


Sáng tác văn nghệ phục vụ thiếu nhi cho đến lúc này đã trở thành một vấn
đề được nhiều giới, nhiều ngành quan tâm.
- Thành tựu của những sáng tác văn nghệ cho thiếu nhi không tách rời sự
lãnh đạo ngày càng sâu sát, cụ thể của Đảng về văn học nghệ thuật nói chung và
xuất bản phẩm cho thiếu nhi nói riêng. Ở mỗi thời kỳ khác nhau. Đảng ln có
những chỉ thị cụ thể về sáng tác văn học cho các em.
Thành tựu của chặng đường này khá rực rỡ. Các đề tài về cách mạng và
kháng chiến, về truyền thống lịch sử được khai thác triệt để, nhằm giáo dục
thiếu nhi lịng u nước thương nịi, góp phần tích cực vào cơng cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước.
Trong chặng đường mười năm này, nền văn học thiếu nhi của ta đã có bước
tiến dài. Số lượng tác phẩm khá lớn, thuộc đủ thể loại (truyện, thơ, kịch…) trong
đó có nhiều tác phẩm thành công. Đội ngũ người viết cho thiếu nhi đã lớn mạnh
nhanh chóng. Sự phát triển đó cho thấy rõ tính chất ưu việt của chế độ ta, một
chế độ rất quan tâm đến tương lai con em và coi đó chính là tương lai của đất
nước, của dân tộc.
c. Chặng thứ ba (1965 - 1975) : Văn học thiếu nhi trong giai đoạn chống
Mĩ cứu nước
Ngày 5-8-1964, Đế quốc Mĩ đã tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc xã hội chủ nghĩa. Đây là một mốc mới trong lịch sử đấu tranh cách mạng
của dân tộc ta, đồng thời cũng là một chặng đường mới trên con đường phát
triển của nền văn học thiếu nhi nước nhà.
Trong mười năm kiến thiết hịa bình (1954 - 1964) nền văn học thiếu nhi
của nước ta đã lớn lên. Với vốn q ấy, nó cùng tồn dân tộc đi vào cơng cuộc
chống Mĩ, cứu nước.

Nhìn chung, văn học thiếu nhi ở chặng đường này đã góp phần biểu dương,
khích lệ những tấm gương sáng của thiếu nhi trong học tập và tham gia vào công
cuộc chống Mĩ, cứu nước của toàn dân tộc. Đặc biệt, ở chặng đường này có
nhiều tác phẩm giá trị và nhiều cây bút nhiếu nhi tài năng xuất hiện như: Trần
Đăng Khoa, Khánh Chi, Cẩm Thơ, Nguyễn Hồng Kiên, Chu Hồng Ngọc, Hoàng


Hiếu Nhân … Sự xuất hiện của hàng loạt nhà thơ thiếu nhi ở đây là một hiện
tượng đầy ý nghĩa. Điều đó chứng tỏ sức mạnh tinh thần, truyền thống nhân văn
của dân tộc đã thấm sâu vào tâm hồn của thế hệ trẻ. Nó cũng chứng tỏ rằng, chế
độ ta, sau hai mươi năm xây dựng và trưởng thành đã thực sự là mảnh đất ươm
cho những tài năng của dân tộc.
d. Chặng thứ tư (1975 đến nay): Văn học thiếu nhi trong thời kì đổi mới
của đất nước.
Lịch sử đã sang trang, đất nước liền một dải, Bắc Nam đã thống nhất, cả
dân tộc bước vào công cuộc xây dựng lại đất nước với những tư tưởng mới và
mở cửa đốn gió bốn phương khá mạnh mẽ. Nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ
sáu, văn học thiếu nhi cũng như các ngành khác được “bung ra” nhằm tìm kiếm
những hướng phát triển mới. Điều này thật đáng mừng, nhưng cũng khơng ít
những điều đáng lo ngại.
Điều đáng mừng là ở những chặng đường này có một số cơng trình nghiên
cứu phê bình về văn học thiếu nhi tương đối dày dặn (chứ không phải là các bài
viết lẻ tẻ như trước đây nữa) đã ra mắt cơng chúng. Đó là những cuốn: Truyện
viết cho thiếu nhi dưới chế độ mới (1982) của Vân thanh; Đôi điều tâm đắc
(1985) của Vũ Ngọc Bình; Hoa trái mùa (1968) của Văn Hồng …
Khác với những năm chống Mĩ, thời kì này có một số truyện viết cho các
em đề cập đến sự khốc liệt của chiến tranh và những tổn thất do chiến ranh
mang lại. Những cuốn: Hồi đó ở Sa Kì (1981) của Bùi Minh Quốc, Cát cháy
(1983) của Thanh Quế, Côi cút giữa cánh đời của Ma Văn Kháng đã đi vào
mảng chủ đề này.

Bên cạnh đó, một số truyện viết cho độ tuổi thiếu niên không những chinh
phục các độc giả nhỏ tuổi mà cả người lớn cũng thích thú, say mê. Đó là những
cuốn: Dịng sơng thơ ấu (1985) của Nguyễn Quang Sáng, Tuổi thơ im lặng
(1987) của Duy Khán, Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, Miền thơ ấu của Vũ
Thư Hiên …
Ngoài ra, một số tác phẩm cũng đề cập đến những vấn đề đạo đức thời nay
như: Bến tàu trong thành phố của Xuân Quỳnh, Chú bé có tài mở khóa của


Nguyễn Quang Thân … Cách viết của các tác giả này đã để lại cho người đọc
khơng ít những suy nghĩ, trăn trở.
Điều đáng lo ngại là thời buổi kinh tế thị trường đã có những tác động lớn
tới việc viết và in sách cho thiếu nhi. Thời kì “bung ra” này khơng biết đã có bao
nhiêu truyện cổ tích và thần thoại nước ngoài được giới thiệu với thiếu nhi, bên
cạnh đó lại khơng biết có bao nhiêu truyện tranh vẽ và in quá ẩu đã ồ ạt đến với
các em …
Một điều đáng lo ngại khác là đội ngũ những người sáng tác phục vụ thiếu
nhi có phần thưa dần. Ngun nhân chính của tình trạng này là những người viết
cho các em ít được quan tâm, nhuận bút không thỏa đáng so với sách viết cho
người lớn hoặc so với các nghề nghiệp khác. Vì thế mà viết cho thiếu nhi ít đi
những người chun tâm.
Nhìn lại những chặng đường phát triển của nền văn học thiếu nhi nước nhà,
chúng ta thấy tự hào về những thành quả mà nó đã đạt được. Ở chỗ này, chỗ
khác tuy cịn có những điều cần phải xem xét, uốn nắn, nhưng đó chỉ là những
cái có tính chất nhất thời, còn những thành tựu và giá trị của nền văn học thiếu
nhi vẫn là cơ bản, nó xứng đáng được khẳng định và trân trọng.
II. GIỚI THIỆ MỘT SỐ CÂY BÚT TIÊU BIỂU
1. Thơ và truyện Võ Quảng
Võ quảng là cây bút khá quyên thuộc của bạn đọc thiếu nhi. Thơ và truyện
của Võ Quảng đều để lại những ấn tượng đẹp, vui tươi đối với các em, được các

em rất ưa thích.
Thơ Võ Quảng có các tập như: Gà mái hoa, Nắng sớm, Thấy cái hoa nở …
Võ Quảng đem đến cho các em những hiểu biết về hàng loạt những sắc màu của
những hoa cà, hoa cải, hoa ớt, hoa bầu … Võ Quảng say mê tái hiện thiên nhiên
một cách đa dạng, cả hình dáng, màu sắc lẫn hoạt động của thiên nhiên đều bước
vào thơ.
Cảnh thiên nhiên bước vào thơ Võ Quảng rất nên thơ: cảnh êm dịu, hiền từ
như “Rong theo bờ tre”; còn vật thì ln ln cựa quậy, nhảy nhót, vui nhộn như
“Chú chẫu chàng”. Câu thơ đầy tiếng kêu, nhiều động từ, lắm xê dịch, chạy


nhảy … hết như tính hiếu động của trẻ nhỏ. Song nhìn chung, thơ Võ Quảng ít
được trẻ nhỏ thuộc và nhớ. Có lẽ vì tác giả đã dụng cơng tìm tịi ngơn từ cho thật
hợp với nội dung, nên đôi khi câu thơ lại trúc trắc, không sát với đối tượng (như
một vài đoạn trong “Gà mái hoa”). Ở đây, sự sáng tạo của nhà thơ đã “Vượt qua
cơ sở âm điệu của đồng dao”, câu thơ mang màu sắc cách tân, hiện đại, nhưng
có phần hơi xa lạ với tuổi thiếu nhi.
Truyện của Võ Quảng có các tập tiêu biểu như: Cái Thăng, Tảng sáng, Quê
nội, Cái mai … Đó là những truyện viết về các đề tài cách mạng và kháng chiến
cũng như xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mỗi truyện của Võ Quảng đều đem lại cho
các em những hiểu biết về quê hương đất nước, về tuổi nhỏ cùng cha anh đánh
giặc giữ làng và xây dựng đất nước …
Truyện của Võ Quảng được các em ưa thích bởi nhiều lẽ, trước hết phải kể
đến cái vui tươi, dí dỏm mà nhà văn đem đến cho các em. Có lẽ các em khơng
khỏi mỉm cười khi đọc đoạn văn sau: “Trước khởi nghĩa, cha tôi đi làm xa, sau
không thấy về. Trước lúc cha tôi đi, một hôm mẹ tôi giở cối xay ra quét. Bà lấy
tăm hương xỉa răng cối, rồi lấy lông gà qt khơng cịn hạt cám. Thấy vậy, lũ
chuột gào lên chít chít rồi bỏ đi nơi khác” (Cái Thăng). Cái “mỉm cười” hoặc
“tủm tỉm cười” kia là do những sự việc như: “Lấy tăm hương xỉa răng cho cối”,
“lấy lông gà quét cối”, lũ chuột gào lên” … đem lại.

Truyện của Võ Quảng hấp dẫn thiếu nhi còn do chỗ tác giả sử dụng lối văn
miêu tả mang tính khắc họa đặc sắc. Đây là đoạn miêu tả con sông Thu Bồn ở
mạn thượng du:
“Nó vùng vẩy, nhảy nhót, chốc chốc chơi trị nhào lộn”. Những con sóng
lực lưỡng quất thẳng vào vách đá. Chúng nhảy chồm lên, tung bọt, gào rống, rồi
kéo nhau vút chạy” (Tảng sáng).
Ba câu văn đầy ắp những vần trắc, trãi đều ở các câu (vung vẩy, nhảy nhót,
nhào lộn, quất thẳng vào vách đá, gào rống, vụt chạy …), chúng tạo nên những
âm thanh khỏe, chắc, làm cho người đọc hình dung được đúng một dịng sơng ở
sát ngọn nguồn, vách núi.


Và đây là những đoạn miêu tả con sông chảy ở đồng bằng: “Con sông Thu
Bồn tả xung hữu đột ra khơi Phường Rạch mới thở phào, xả hơi, bước những
bước khoan thai, lượn giữa những ngàn dâu và bãi dâu xanh xuống Hoa Phước,
dang đơi tay ơm vào lịng thơm đất Gò Nổi” (Trăng Sáng).
Cả câu văn dài dằng dặc bốn mươi tư tiếng, vòng lượn khoan thai, rõ ra một
khúc sông êm ả trên một dải đồng bằng phì nhiêu mầu mỡ. Cách miêu tả có tính
khắc hoạ như vậy khơng chỉ riêng các em ưa thích, mà người lớn cũng say mê.
Tóm lại, Võ Quảng là cây bút viết nhiều cho thiếu nhi. Số lượng thơ và
truyện của ơng đã có một vị trí xứng đáng trong nền văn học thiếu nhi nước nhà.
Nét phong cách của thơ và truyện Võ Quảng được nền văn học thiếu nhi ghi
nhận.
2. Thơ Phạm Hổ
Phạm Hổ là cây bút sáng tác nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, truyện vừa,
tiểu thuyết và cũng viết cả phê bình nữa. Nhưng Phạm Hổ thành công hơn cả
vẫn là ở mảng viết cho thiếu nhi … Phạm Hổ viết khá nhiều. “Em vẽ Bác Hồ” là
tập thơ Phạm Hổ viết trong thời kì khánh chiến chống Pháp (1948), in ở Liên
khu V); đây cũng là tập thơ đầu tay ông viết cho các em.
Say này, Phạm Hổ có hàng loạt tác phẩm thơ viết cho các em như: Em

thích em yêu, những người bạn nhỏ, Bạn trong vườn, Chú bị tìm bạn, Từ khơng
đến mười, Mẹ, Mẹ ơi, Cô bảo … và cuốn Điều gì tốt, điều gì xấu (dịch thơ
V.Maiacốpski).
Ai cũng biết trẻ nhỏ rất thích và yêu những bạn trong vườn, trong sân trong giới tự nhiên; đó vốn là “xã hội trực tiếp” của các em. Đó là những bạn
cùng lứa tuổi như: mèo và chó con, gà vịt con, con ve và cái kiến … qua trí
tưởng tượng của các em, chúng như cùng lứa tuổi, cùng vui chơi, cùng nghỉ ngơi
và ăn nói như mình. Vì vậy, trong “Những người bạn nhỏ”, Phạm Hổ đã giúp
các em quan sát cách sắp xếp lá trong bắp cải xanh, màu sắc của củ cà rốt, cái
đẹp rực rỡ của rong và cá …
Phạm Hổ có cái khiếu quan sát tinh tế mà dí dỏm theo lối nhìn, cách nghĩ
và kiểu nói của trẻ, đôi khi đến nghịch ngợm như ở các bài Ngủ rồi, Chơi ú


tim… Câu thơ, lời thơ của Phạm Hổ thường “thay đổi, biến hóa khơng ngừng”
như chính ơng vẫn từng quan niệm. Đôi bài phảng phất phong vị đồng dao như:
Bắp cải xanh, Củ cà rốt… rất dễ hiểu, dễ nhớ đối với các em, và đã trở thành bài
hát của trẻ mẫu giáo. Phạm Hổ có tài dựng lại một cách hồn nhiên những trò
chơi dân gian của con trẻ như: dung dăng dung dẻ, chồng nụ chồng hoa, nu na
nu nống … Nhà thờ cũng đem đến cho các em nhiều truyện rất thật, mà cũng lạ
vô cùng của trời đất: lạc ra hoa rồi mang giấu củ xuống đất, tai châu chấu ở chân
chứ không phải ở đầu, đom đóm thắp đèn bằng ngọn lửa nào … Nhà thơ có cách
nói thật gợi cảm về tình cảm, về tình bạn, tình mẹ con, bà cháu, tình u cơ giáo,
yêu lớp, yêu trường, tình yêu đối với thiên nhiên … Thơ Phạm Hổ quả đã làm
cho tâm hồn của trẻ thơ thêm phong phú.
Thơ Phạm Hổ thật sự đã đem lại cho các em cái quan sát tinh tế, cái cười
rất hóm hỉnh rồi dừng lại ở đó. Do vậy, bài thơ tuy dễ thuộc; nhưng lại dễ bay vì
nhẹ nhõm.
Thơ thiếu nhi, như Phạm Hổ nói: “Cần có ý nghĩa về xã hội, các em đọc
thấy thích về phần tiếp thu của các em, người lớn đọc cũng có chuyện để ngẫm
nghĩ”. Phải chăm lo cho chủ đề, tính tư tưởng và tính triết lý của thơ, để đem

đến cho thơ những tư tưởng và tình cảm lớn của thời đại, được trẻ thích và
người lớn cũng ưa. Làm thơ cho lứa tuổi giàu bản năng không thể viết một cách
bản năng, dễ dãi, nặng về cái đẹp, cái vui, mà lãng quên cái bên trong dí dỏm
của hình tượng thơ.
Đọc những câu thơ này của Phạm Hổ, người ta sẽ thấy vui lây vì sự “ngồ
ngộ” của nó:
Mẹ gà hỏi con:
- Ngủ chưa đấy hả?
Cả đàn nhao nhao:
- Ngủ rồi đấy ạ!
(Ngủ rồi)
Đã ngủ rồi mà vẫn “nhao nhao” trả lời mẹ được. Cái điều thật “vô lí” đối
với người lớn, mà vẫn “có lí” đến buồn cười của trẻ thơ.


Đôi khi, Phạm Hổ sử dụng cả lối miêu tả mang tính mơ phỏng trong thơ,
đem lại cho các em những điều lí thú. Bài thơ nhịp hai mơ phỏng nhịp đi của
đoàn tàu đã đến với các em một cách thật tự nhiên: “Hai toa - Ba toa - Bốn toa Bé đếm - Đếm mãi - tàu còn - Trơi qua - Bé đếm - Cịn đếm - Đầu tàu - Đã xã Đuôi dài - Rồng rắn - Toa cịn - Níu toa - Kìa đạn - Kìa gạo - Ghé mắt - Nhìn
ra…” Hình thức bài thơ hai chữ vừa mô phỏng được nhịp đi đều đặn của đoàn
tàu, vừa nhu cho thấy một đoàn tàu có nhiều toa níu kéo nhau.
Tóm lại, Phạm Hổ là một cây bút được các em rất mến mộ. Nhiều bài thơ
của Phạm Hổ đã đi vào các trang sách tuổi thơ, có tác dụng khơng nhỏ trong
việc hình thành nhân cách của các em ngay từ lúc còn là “mầm non”.
3. Truyện Tơ Hồi viết cho thiếu nhi
Tơ Hồi là một trong những cây bút viết rất nhiều cho thiếu nhi. Từ trước
Cách mạng Tháng Tám, Tơ Hồi có Dế Mèn phiêu lưu kí (1941) làm cho độc giả
nhỏ tuổi say mê. Từ sau kháng chiến chống Pháp thành cơng, Tơ Hồi lại có
thêm nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi, bao gồm truyện đồng thoại, truyện lịch
sử và truyền thuyết, truyện sinh hoạt như: Chim chích lạc rừng, Con mèo lười,
Đàn chim gáy, Kim Đồng, Đảo hoang, Chuyên ơng Gióng …

Truyện của Tơ Hồi viết cho thiếu nhi, dù là tryện đồng thoại hay truyện
lịch sử, dù là truyện loài vật hay truyện loài người đều thể hiện một khả năng
quan sát và miêu tả tinh tế, dí dỏm thật khó lẫn với khác người. Tuy viết cho
tuổi nhỏ, nhưng truyện của Tơ Hồi ln hàm chứa những nội dung xã hội sâu
sắc, khiến người lớn cũng phải suy ngẫm.
Độc giả nhỏ tuổi, khi đọc Dế Mèn phiêu lưu kí có lẽ rất khó qn đoạn Tơ
Hồi vừa kể vừa tả nhằm khắc họa tính cách của chú Mèn thời trai tráng:
“Tôi đi đứng oai vệ. Mỗi bước đi, tôi làm điệu nhún nhảy các kheo chân,
rung lên, rung xuống hai chiếc râu cho ra kiểu con nhà võ. Tôi tợn lắm, dám cà
khịa với tất cả bà con trong xóm. Khi tơi to tiếng thì ai cũng nhịn, khơng ai đáp
lại. Bởi vì quanh quẩn, ai cũng quen thuộc mình cả. Khơng nói, có lẽ họ nể hơn
là sợ. Nhưng tôi lại tưởng thế là không ai dám ho he. Ấy vậy, tôi cho là tôi giỏi.
Những gã xốc nổi thường nhầm cử chỉ ngông cuồng là tài ba. Tôi đã quát mấy


chị Cào Cào ngụ ngoài đầu bờ, khiến mỗi lần thấy tôi đi qua các chị phải núp
khuôn mặt trái xoan dưới nhánh cỏ, chỉ dám đưa mắt nhìn trộm. Thỉnh thoảng,
tôi ngứa chân đá một cái, ghẹo anh Gọng vó lấm láp vừa ngơ ngác dưới đầm lên.
Tơi càng tưởng tơi là ghê gớm, có thể sắp đứng đầu thiên hạ rồi”.
Và đây là nét đặc sắc của ngòi bút Tơ Hồi khi miêu tả cảnh vật lúc trời đổ
mưa dữ dội:
“Mưa đến rồi, lẹt đệt… lẹt đẹt… Mưa giáo đầu. Những giọt nước to lăn
xuống mái phên nứa. Mưa thực rồi. Mưa ù xuống khiến cho mọi người khơng
tưởng được là trời mưa lại kéo đến chóng thế. Lúc nãy là mấy giọt lách tách, bây
giờ bao nhiêu là nước tuôn rào rào. Nước xiên xuống, lao xuống, lao vào trong
bụi cây. Lá đào, lá na, lá sói vẫy tai run rẩy. Con gà sống ướt lướt thướt ngập
ngưỡng tìm chỗ trú. Mưa xuống sầm sập, giọt ngã, giọt bay, bụi nước tỏa trắng
xóa. Trong nhà bỗng tối sẫm, một mùi nồng ngai ngái, cái mùi xa lạ, man mác
của những trận mưa mới đầu mùa. Mưa rào rào trên sân gạch. Mưa dồn dập trên
nứa, đập lùng bùng vào lòng lá chuối. Tiếng gianh đổ ồ ồ…”.

Văn miêu tả của Tơ Hồi quả thật đã đem lại cho người đọc những ấn
tượng mạnh mẽ, khó nhầm lẫn, càng đọc càng thấy lí thú.
Nhìn chung, sự nghiệp viết văn của Tơ Hồi đã được đánh giá như sau:
“Tơ Hoài viết đều, viết nhiều và sử dụng nhiều thể loại văn xi, trong thể
loại nào cũng có những đóng góp đáng chú ý. Ơng góp phần khai phá đề tài
miền núi và có những tác phẩm đạt thành tựu chắc chắn cho đề tài này. Ơng có
nhiều tác phẩm tốt cho thiếu nhi, được bạn đọc nhỏ tuổi ưa thích. Năng lực quan
sát và miêu tả tinh tường, vốn hiểu biết đời sống, phong tục các dân tộc khá
phong phú, lối văn giàu hình ảnh và ln biến đổi nhịp điệu, những tìm tịi sáng
tạo về ngơn ngữ, có thể coi đó là những nét nổi bật trong sáng tác của Tơ Hồi
đóng góp vào văn xi hiện đại Việt Nam” (Từ điển văn học Việt Nam tập 2,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr.404).
III. KẾT LUẬN
1. Từ cách mạng Tháng tám đến nay, nền văn học thiếu nhi của ta đã có
một bước tiến khá dài. Viết cho các em khơng cịn là việc làm “tay trái” của một


số nhà văn nữa. Bên cạnh những nhà văn chuyên viết cho các em, chính các em
cũng viết. Tiếng nói của các em bằng nghệ thuật văn chương đã có vị trí đáng kể
trong nền văn học thiếu nhi nước nhà. Nhiều cây bút “từ các em” đã trưởng
thành với những bước đi khá vững vàng, độc đáo trong nền văn học Việt Nam
hiện đại.
2. Văn học thiếu nhi đã đi vào những trang sách giáo khoa trong nhà
trường; nhiều cuốn sách hay đã trở thành “sách gối đầu giường” của bạn đọc
nhỏ tuổi. Những trang sách hay, thông qua sự giảng dạy của các thầy cô giáo đã
thực sự trở thành người bạn đường quí báu của các em trong những năm ngồi
trên ghế nhà trường, góp phần tạo nên nhân cách của các em và sẽ là hành trang
tinh thần để chuẩn bị cho các em bước vào cuộc sống.
3. Xây dựng nên những đức tính của tuổi thơ, văn học thiếu nhi đã có
những thành tích xứng đáng. Nó có khả năng làm cho thiếu nhi biết “Yêu Tổ

Quốc, thương đồng bào, chuộng lao động, giữ kỉ luật, biết vệ sinh và học văn
hóa” như lời Bác Hồ dạy, để trở thành những chủ nhân xứng đáng của tương lại.
Nhiệm vụ đó thật vơ cùng lớn lao; nhà văn và nhà giáo phải cùng nhau đảm
nhiệm.
Phục vụ thiếu nhi là một niềm vui lớn. Sáng tác văn chương cho thiếu nhi
và dắt dẫn các em đến với cái hay, cái đẹp trong văn chương cho thiếu nhi cũng
nằm trong cái hạnh phúc lớn lao đó.

BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Học sinh tập phân tích một tác phẩm của Tơ Hồi (Dế Mèn phiêu lưu kí,
Chim Chính lạc rừng…)
2. Lựa chọn một số bài thơ hay của Phạm Hổ, Võ Quảng cho học sinh tập
đọc diễn cảm, phân tích.


THƠ DO TRẺ EM VIẾT
I. MẤY NÉT VỀ HÌNH TƯỢNG TRẺ EM LÀM THƠ
1. Một hiện tượng độc đáo của văn học trẻ em
Trong nền văn học nước nhà, một hiện tượng rất đáng được chú ý là: Bên
cạnh các nhà văn, nhà thơ viết cho các em và viết về các em thì các em cũng
viết. Các em viết truyện, vẽ tranh cũng nhiều, nhưng thành tựu của các em đạt
được lớn hơn cả vẫn là ở lĩnh vực thơ.
Cuộc sống thời hiện đại dường như làm cho các em không lớn nhanh hơn
và tạo nên một lứa tuổi thiếu nhi biết viết văn, làm thơ hơn hẳn bất cứ thời kỳ
nào trước đây. Nói cho cơng bằng, trước đây các em cũng đã viết, nhưng bây giờ
các em viết nhiều hơn và viết cũng khá hơn.
Thơ của em đã được giới thiệu trên các báo Đảng, báo Đoàn, báo Nhi
Đồng, báo Thiếu niên và còn ở hàng loạt tờ b khác nữa như: Khăn qng đỏ,
Mực tím, Áo trắng…Song tập trung nhất vẫn là ở những cuốn sách giới thiệu
riêng những sáng tác của các em, do Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành như:

“Tấm lòng chúng em” (1965), “Từ góc sân nhà em” (1968), “Đời đời ơn
Bác”(1970), “Bông hồng đỏ” (1970), “Em kể chuyện này”(1971), “Nối dây cho
diều”(1971).
Các em đã có những “cây bút” viết nhiều và xuất sắc như: Trần Đăng
Khoa, Khánh Chi, Nguyễn Hồng Kiên, Chu Hồng Quý, Cẩm Thơ…Đến nay,
những cây bút này đã có những vị trí nhất định trong làng thơ Việt Nam. Cịn
“hiện tượng một bài” của các em thì khơng sao kể xiết được.
Tất cả những điều nói trên đều khẳng định rõ một hiện tượng độc đáo của
văn học trẻ em nước nhà ở lĩnh vực thơ.
2. Một số gương mặt thi sĩ nhỏ tuổi.
Như trên đã nói, các em đã có những cây bút viết nhiều và viết cũng thật
xuất sắc. Dưới đây là một vài cây bút tiêu biểu.
Có lẽ trước hết phải kể đến Trần Đăng Khoa. Đây là cây bút nổi từ 9 tuổi.
Thơ Trần Đăng Khoa lớn lên “Từ góc sân nhà em” để rồi vươn ra hơn đến với
những “khoảng trời”…Những bài: “Hạt gạo làng ta”, “Ị ó o”. “Góc sân và


khoảng trời”, “Trăng sáng sân nhà em”, “Trăng ơi từ đâu đến”, “Nghe thầy đọc
thơ”, và các bài: “Mẹ ốm”, “Hà Nội có Bác Hồ”, “Kể cho bé nghe”, “Sao không
về vàng ơi”…đã được nhiều người biết đến và thuộc lòng. Thơ Khoa ngày từ lúc
trẻ thơ mà đã tỏ ra sâu sắc. Khoa thực sự là niềm tự hào của nền văn học thiếu
nhi nước nhà. Khi lớn lên Khoa đi bộ đội rồi đi học ở trường viết văn mang tên
Gorki, thuộc Cộng hòa liên bang Nga (Liên Xô cũ) và vẫn không ngừng làm
thơ. Sau khi về nước, Trần Đăng khoa cơng tác tại Tạp chí Văn Nghệ quân đội.
Hiện Khoa là một nhà thơ đang ở độ tuổi chín và sung sức.
Cùng lứa tuổi với Trần Đăng Khoa là cây bút Khánh Chi cũng viết nhiều và
không kém phần sáng tạo. Đây là những vần thơ của Khánh Chi:
Cây lúa hai tay bới tóc
Làm cả buổi chiều xôn xao…
(Em ra ngoại thành)

Và đây là cảnh Sông Hồng:
Nước như rắn uốn mình lấp lánh
Gió thổi làm nghiêng hai bờ
Cánh buồn như đám mây nhỏ
Chở truyện cổ tích mà bay.
(Sơng Hồng)
Nhà thơ Xn Diệu có nhận xét rằng: Trần Đăng Khoa nở ra ở nơng thơn
có nhiều tươi mát. Thơ của Khánh Chi đậm màu thành thị, có chất trí tuệ và “mơ
đéc”. Nhưng Huy Cận thì lại cho là: mọi khái qt tất nhiên là khơng hồn tồn
chính xác, vì trong thơ Trần Đăng Khoa cũng có bài có chất trí tuệ và thơ Khánh
Chi cũng có nhiều bài mang cảm xúc thiên nhiên; nhưng quả thật hai tâm hồn
thơ này đều có chỗ độc đáo như Xuân Diệu phát hiện.
Gần đây, ở Thành phố Hồ Chí Minh có bé Phương Loan đã thể hiện những
cảm xúc của mình qua hai tập thơ “Hoa phượng” và “Ngày tựu trường”. Thơ
Phương Loan cũng có những cảm xúc như các anh chị Trần Đăng Khoa và
Khánh Chi ngày trước, và bé Loan cũng có những câu, những bài đặc sắc như:
Nhìn đảo xa tít kia


Có những ngọn núi đá
Đang ơm nhau chạy dài
Ơi Vũng Tàu đẹp quá.
(Vũng Tàu)
Bầu trời như ai đây
Nhìn mãi chẳng thấy đâu.
(Bầu trời)
Bé Loan cũng có những vần thơ lục bát khơng kém phần tinh xảo:
Nhà sàn gió mát bay bay
Đường đi khúc khủy nhưng đầy tình quê.
(Quê ngoại)

Chùa như tay chắp niệm trời
Cây luôn che chở Phật ngồi anh linh
(Chùa)
Thuyền xa bến lặng trông theo
Ánh trăng thu cũng vàng treo nơi đâu.
(Ánh trăng)
Nhà thơ Huy Cận có nhận xét về thơ của be Phương Loan như sau: “Cái
đặc sắc, cái độc đáo của bé Loan là cảm thụ xã hội, cảm xúc xã hội phát triển
sớm, mà vẫn hồn nhiên… Vẫn hồn nhiên vì cảm xúc của bé ở đây đã thành tiềm
thức do giáo dục xã hội, giáo dục gia đình. Như chúng ta đều biết: Thói quen là
tự nhiên thứ hai, mà giáo dục là thói quen có hệ thống. Có phải vì thế chăng mà
bé Loan cảm thụ, cảm xúc xã hội cũng hồn nhiên như khi cảm xúc cảnh vật
thiên nhiên và cảm xúc xã hội của cháu nhiều khi cũng quyện vào cảm xúc thiên
nhiên…”. Nhận xét của nhà thơ Huy Cận đã dương như khẳng định những phẩm
chất nhân văn và những phẩm chất thơ chính là do sự ưu việt của một nền giáo
dục quốc gia và nếp giáo dục gia đình mang lại.
Đây là những bài thơ cua bé Phương Loan kết hợp một cách hài hòa cả cảm
xúc thiên nhiên và cảm xúc xã hội:
Hộp quẹt đang ngủ


Ba em cầm lên
Xoa đầu thật mạnh
Lửa thức bừng lên.
(Hộp quẹt)
Và ở bài thơ dưới đây cảm thụ thiên nhiên được khép lại bằng một câu hỏi
thật hồn nhiên, nhưng lại bâng khuâng một nỗi niềm xã hội:
Em đi ra đường
Bao nhiêu bóng nắng
Cây che cho em

Vậy ai che sao?
(Cây sao)
Cịn đây là mía:
Đi vào vườn mía
Mía đỏ, mía xanh.
Tuy là khác màu
Nhưng đều ngọt lịm.
(Cây mía)
Trên đây là ba gương mặt các thi sĩ nhỏ tuổi. Nhỏ tuổi nhưng các em đã có
được những vần thơ lay động lịng người thật lớn, đáng quý và đáng trân trọng
biết bao.
II. ĐẶC SẮC THƠ CỦA EM
1. Cuộc đời qua những cặp mắt xanh non
Tuổi thơ của các em thường rất gần gũi với những cái nên thơ của thiên
nhiên, tạo vật. Các em yêu thiên nhiên, tạo vật bằng tấm lòng thiết tha, trìu mến
của mình.
Em be Ngơ Thị Bích Hiền, lúc mới 5 tuổi, chưa biết viết, nhưng thuộc
nhiều bài thơ: Em đã làm thơ ứng khẩu và nhờ mẹ chép lại cho. Đây là những
vần thơ em viết về mưa:
Mưa mưa mưa
Rơi rơi rơi


Lộp bộp bộp
Trên mái nhà
Thành chùm hoa
Dưới hồ nước
Ướt ướt ướt
Trên cành cây
Lay lay lay

Cánh cửa sổ
Sạch đường phố
Mát đôi chân
Trời tạnh dần
Yê mưa lắm
(Mưa)
Và về trăng:
Ông giăng ơi
Cháu đi
Sao Ông lại đi?
Cháu đứng
Sao Ông lại đứng?
Ông đứng nhìn ai?
Cháu vào nhà
Sao Ông chẳng vào?
Mẹ cháu đi làm
Sao Ông chẳng ra?
Mẹ cháu về nhà
Sao lại gặp Ông?
Sao Ông to thế
Mẹ Ơng tên gì?
Nói cho cháu biết
Để cháu lên chơi.


(Ơng Giăng)
Đó là những vần thơ được hình thành từ một tâm hồn trẻ thơ, bằng con mắt
thơ về những sự vật nên thơ: Hạt mưa, Ông Giăng. Hạt mưa là cho khí trời mát
mẻ, đường phố sạch sẽ, mát bàn chân em đi và cho cỏ cây tươi tốt. Ông Giăng
là người bạn muôn đời của trẻ thơ và của thi nhân. Ngắm trăng là thú vui của trẻ

nhỏ và của cả thi nhân. Nhưng hỏi trăng: “Mẹ Ông tên gì? Nói cho cháu biêt” thì
thật là trẻ thơ mà cũng thật là thơ; và “Để cháu lên chơi” thì lại thành “mơ” rồi!
Cái vui tươi và ngộ nghĩnh thật đáng u… Em Hồng Hiếu Nhân ở Quảng bình
thì rất mê quả địa cầu của chú tặng cho:
Chú cho em quả đị cầu
Em nhìn bốn biển năm châu rành rành
Trụ này em vặn em quay nhanh,
Em đi máy đợt vòng quanh địa cầu.
Á, Âu, Phi, Mĩ, Úc châu,
Đất nào đẹp, nước nào giàu tìm xem.
Ở đâu bằng đất nước em,
Đã giàu đẹp lại vang tên anh hùng.
Chỉ một loáng mà đã đi được mấy đợt vòng quanh địa cầu thì nghe vơ lí,
những vẫn có lí mà lại hóm hỉnh nữa. Điều đáng khen là em Nhân đã biết mượn
quả địa cầu để nói lên lịng u đất nước Việt Nam của mình.
Cịn Trần Đăng Khoa lại có những vần thơ về thiên nhiên, tạo vật đặc sắc
theo một cách riêng. Nghe tiếng gà gáy mà em tưởng như tiếng gà ấy đang “gọi
ông mặt trời nhô lên rửa mặt” và giục đàn sao trên trời chạy trốn” rồi “giục quả
na mở mắt trồn xoe”… Một hiện tượng bình thường khác là kiến tha giun về tổ
làm mồi, nhưng dưới con mắt thơ của Khoa thì đó là một “đám ma” với đủ các
thành phần, các chủng loại trong họ hàng nhà kiến đến thăm viếng và tiễn đưa
“bác giun” về nơi yên nghỉ cuối cùng. Nhìn và nghĩ ra được như thế thì thật là
tuyệt.
Người ta bảo: ban đêm mà hái trầu thì cây trầu sẽ “nổ đốt” mà chết. Nhưng
bà ngoại đến chơi nhà Khoa vào lúc tối, mà bà lại nghiện trầu thuốc thì làm thế


nào để có trầu tươi mời bà? Cứ tự nhiên mà hái trầu thì trầu sẽ chết mất. Thế là
Khoa đã nghĩ ra cách “đánh thức trầu” để xin trầu cho lá. Vậy là những “mắt
xanh” của trầu thức dậy và “chìa ra” những lá định cho Khoa. Xem như vậy đủ

biết Khoa đã hiểu cây trầu và trân trọng nó đến nhường nào.
Bé Khoa cũng như bao em bé khác được sống giữa thiên nhiên và chính
thiên nhiên ấy đã em lại cho các em những cảm hứng thơ. Những “hoa cau”,
“hoa bưởi” vốn đã thơm trong tự nhiên, khi đi vào thơ Khoa nó lại trở nên thơm
hơn và đã làm cho thơ Khoa thơm mãi:
- Nửa đêm nghe ếch học bài,
Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây,
Nghe trời trở gió heo may,
Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau …
(Hoa cau)
- Đêm qua hoa rụng cánh rời,
Sớm nay cái cuống đã trồi quả non.
Hoa rơi trắng mảnh sân con,
Ơi hoa đã rụng vẫn cịn ngát hương! …
(Hoa bưởi)
Đó là những “tấm lịng thơ” của các em đối với cuộc đời, đối với thiên
nhiên và tạo vật, tấm lịng thơ đó chắc chắn sẽ là cơ sở cho lòng yêu quê hương
đất nước ở các em thêm đậm đà, sâu sắc.
2. Lịng nhân hậu và tình u của trẻ thơ
Yêu thiên nhiên, tạo vật, nhìn cuộc đời qua những cặp mắt xanh non,
nhưng các em cũng biết dành tấm lịng nhân hậu và tình u của mình cho
những người gần gũi, thân thiết với các em. Đó là những người trong gia đình
như ơng bà, cha mẹ, anh chị em, rồi đến anh giải phóng quân đã gìn giữ cho
cuộc sống hịa bình cho các em và Bác hồ - người đã đem lại cho các em tất cả
những gì q giá nhất trên đời này …


Những bài thờ như “Tía em” (Bố em), “Chú giải phóng quân của em” của
Cẩm Thơ là những bài thơ hay nói về những người u của mình. Các bài thơ
“Ông em”, “Bố em” của Nguyễn Hồng Kiên cũng vậy.

Nhiều em đã dành những vần thơ hay nhất để viết về Bác Hồ, nhưng có lẽ
tập trung hơn cả phải kể đến thơ Trần Đăng Khoa.
Nhìn hình ảnh Bác mỉm cười mà Khoa thấy:
Em nghe như Bác dạy lời,
Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa.
Trồng rau, quét bếp, đuổi gà,
Thấy tàu bay Mĩ nhớ ra hầm ngồi.
(Ảnh Bác)
Mỗi lần nghe Bác nói trên đài, mỗi năm nghe Bác chúc tết tồn dân, Khoa
lại nhìn lên ảnh Bác với tấm lịng chứa chan thành kính:
Nghe lời Bác, cháu nhìn lên ảnh Bác
Lửa bánh chưng rung rinh tóc bạc
Bác vẫn nhìn em ánh mắt sáng ngời
Miệng em thầm nhắc: Bác Hồ ơi!
(Nghe Bác nói)
Kính u Bác, khoa mong có dịp sẽ được gặp Bác cho thỏa lòng ước ao.
Khi Bác gần tám mươi tuổi, Khoa đã lo lắng hỏi:
Sang năm Bác tám mươi tuổi rồi,
Bác ơi! Bác thấy trong người khỏe không?
Cái lo của Khoa cũng là cái lo chung của nhiều người. Là người Việt Nam,
ai chẳng mong Bác sống lâu và khỏe mạnh. Nhưng sự thật đau thương không
tránh khỏi là: Bác đã về nơi vĩnh hằng. Khoa không cịn được gặp Bác nữa rồi.
Tiếng khóc tiếc thương Bác của muôn dân trong cả nước như chẳng bao giờ dứt
được. Trong tiếng khóc ấy, có cả tiếng thơ trần nước mắt của Khoa:
Cháu buốt ở trong tim này,
Chổ đeo tang suốt đêm ngày Bác ơi!
Cháu khơng nói được nên lời,


Cháu ngồi cháu khóc đất trời đổ mưa.

Biết chẳng bao giờ được gặp Bác nữa, Trần Đăng Khoa và cũng là tất cả
thiếu nhi Việt Nam lúc đó đã hứa với Bác:
Cháu thề phấn đấu suốt đời,
Như lời Bác dạy, nên người Bác mong.
Lời hứa ấy đã thôi thúc Khoa và cả thế hệ của Khoa chăm học, chăm làm
và không ngừng phấn đấu theo lời Bác dạy, theo gương Bác đã sống và làm việc

Tình cảm của các em phong phú, nhiều vẻ. Những tình cảm đó thường là
động lực giúp các em đi đến những hành động, những việc làm tuy nhỏ nhưng
mang ý nghĩa lớn.
Có em gặp chú lái xe trên đường ra hỏa tuyến đã lo lắng vì lá ngụy trang
khơ héo, đã thương chú lái xe quá nhiều đêm không ngủ. Em biết phải làm gì để
giúp chú lái xe đưa hàng ra tiền tuyến an tồn:
Đơi bàn tay nho nhỏ
Chặt cành lá ngụy trang
Cháu che cho xe hàng
An tồn ra tiền tuyến.
(Gặp chú hơm nay - Nguyễn Bá Trợ, 14 tuổi)
Có ai đi lượm nhặt từng hạt thóc rơi vãi trong ngày mùa đem gửi vào kho
lương để cha anh thêm no lòng và n tâm đánh giặc ở ngồi tiền phương:
Hạt thóc be bé
Thóc vào kho lương
Rồi mai đây
Thóc ra chiến trường
Thóc đi đánh Mĩ
Góp phần hậu phương
(Đỗ Quang Vũ, 10 tuổi)
Trong những năm đánh Mĩ, người Hà Nội, người Việt Na, và lồi người
tiến bộ đều khơng qn mười hai ngày đêm máy bay B52 Mĩ ném bom rải thảm



×