Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Di dân và quản lý di dân trong giai đoạn phát triển mới: Một số suy nghĩ từ góc độ nghiên cứu - Đặng Nguyên Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.63 KB, 6 trang )

XÃ hội học số 3&4 (67&68), 1999

39

Di dân và quản lý di dân
trong giai đoạn Phát triển mới:
Một số suy nghĩ từ góc độ nghiên cứu
Đặng Nguyên Anh
Trong một số bài viết trớc, chúng tôi đà bàn đến nguyên nhân và đặc trng của quá
trình di dân với mục đích làm sáng tỏ các mô hình và xu hớng di c trong bối cảnh đổi mới
của đất nớc. Hy vọng rằng các bài viết đó đà góp phần làm thay đổi nhận thức đối với vấn đề
di dân một cách khoa học hơn.
Nhằm phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế đợc mặt tiêu cực của di dân, bài viết
tập trung xem xét quá trình này trên bình diện quản lý. Những suy nghĩ, trao đổi trong bài
là những ý kiến đóng góp cho công tác đổi mới chính sách di dân và quản lý dân c ở Việt
Nam. Đây cũng là một trong những mục tiêu cơ bản đợc đặt ra trong dự thảo chiến lợc
quốc gia về dân số và phát triển thời kỳ 2000-2010.
Do khuôn khổ bài viết có hạn nên thay vì đề cập tất cả các hình thái di c (vốn rất đa
dạng và phức tạp), chúng tôi sẽ chỉ xem xét loại hình di c tự phát, hiện phát triển với quy
mô ngày càng lớn, đặt ra nhiều cơ hội và thách thức hiện nay. Trong khi di dân kế hoạch có
đợc nhiều thuận lợi với sự hỗ trợ và đầu t của nhà nớc, di dân tự phát hoàn toàn do ngời
lao động thực hiện. Hình thái di dân này đang đặt ra những đòi hỏi mới về chính sách quản
lý. Di c theo kế hoạch mặc dù quan trọng song do tính đặc thù riêng nên sẽ đợc chúng tôi
bàn đến trong một dịp khác.
Di dân - sự lựa chọn hay đòi hỏi của cuộc sống?
Tính đến cuối năm 1999, theo thống kê chính thức thì số hộ di chuyển tự phát đến
nông thôn là 280 nghìn hộ với tổng số 1,33 triệu ngời, chủ yếu đến vùng Tây Nguyên (Đắc
Lắc), Đông Nam Bộ (Đồng Nai). ở miền núi phía Bắc, ớc tính đà có trên 26.000 đồng bào
dân tộc tham gia vào quá trình di chuyển tự phát. Nhu cầu du canh, du c của đồng bào dân
tộc chủ yếu là do thiếu đất sản xuất lơng thực và khan hiếm nguồn nớc sinh hoạt. So với di
dân đến các vùng nông thôn, di chuyển dân số ra thành thị đa dạng hơn về thể loại. Mặc dù


khó ớc tính đợc chính xác quy mô của dòng di c này song số ngời di dân ra đô thị tính
đến thời điểm hiện tại đà lên đến hàng triệu ngời, tập trung ở các trung tâm đô thị, các
thành phố lớn khắp toàn quốc. Mức tăng trởng và tỷ lệ tạo việc làm của khu vực kinh tế dịch
vụ trong những năm 90 đà thu hút khá hiệu quả lực lợng lao động nhập c.
Khách quan mà nói, mặt tích cực của di dân là không thể phủ nhận. Nông thôn nớc
ta hiện không có đủ đất canh tác so với mức tăng trởng dân số và lao động trong khi ngành
nghề phi nông nghiệp lại cha phát triển. Vẫn còn ít nhất 7 triệu lao động ở nông thôn không
có đất canh tác, đang rất cần thu nhập và việc làm. Đó là cha kể đến con số 80 vạn ngời
hàng năm ra nhập lực lợng lao động nông nghiệp. Trong khi đó, mỗi năm có từ 25-30 nghìn
B n quy n thu c Vi n Xã h i h c.

www.ios.org.vnB n quy n thu c Vi n Xã h i h c.

www.ios.org.vn


40

Di dân và quản lý di dân trong giai đoạn phát triển mới ...

ha đất canh tác bị chuyển dụng sang những mục đích khác. Vậy mà vốn đầu t vào khu vực
nông thôn chỉ bằng 1/10 so với khu vực thành thị. Sau thời vụ cấy hái, ngời nông dân lại rơi
vào tình trạng thiếu việc làm có thu nhập. Mức độ chênh lệch quá lớn về giá cả ngày công lao
động giữa hai khu vực đà khiến ngời nông dân tự nguyện rời bỏ quê hơng ra thành phố
kiếm việc làm. Họ chấp nhận cả những công việc nặng nhọc, vất vả và nguy hiểm, những
ngành nghề mà pháp luật không nghiêm cấm, để có đợc đồng lơng mu sinh ở thành phố,
và có cái ăn, cái mặc gửi về cho gia đình.
Di dân thực tế là sự chuyển dịch dân số đến nơi đất lành, chim đậu. Thông qua khối
lợng hàng tiền mà ngời di c mang, chuyển, gửi về cho gia đình, di c đang góp phần điều
chỉnh lại sự chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Lao động ngoại tỉnh cha

bao giờ là mối đe dọa thất nghiệp của ngời dân thành phố. Trái lại, họ đà trở thành nguồn
nhân lực không thể thiếu trong mọi nhu cầu dịch vụ đa dạng và năng động ở các đô thị. Sự
chuyển hóa nghỊ nghiƯp cđa ng−êi di c− lµ u tè quan trọng góp phần biến đổi cơ cấu lao
động giữa các vïng, miỊn l·nh thỉ vµ khu vùc kinh tÕ hiƯn nay.
Song mấy ai nghĩ đợc nh vậy? Xuất phát từ nhận thức thiếu cơ sở khoa học và định
kiến hẹp hòi mà không ít ngời thành phố, trong đó có cả một số các nhà quản lý, đà có
những nhìn nhận tiêu cực đối với di c. Hình nh đà quá nhàm mắt trớc những cảnh lam lũ
của ngời lao động nhập c, đến nỗi có ngời lạnh tanh mà nói rằng "Trời bắt mỗi ngời mỗi
phận". Tức là bổn phận của ngời di c từ nông thôn ra thành phố là oằn lng gánh gạo đến
tận cửa. Mòn gót trên đờng nhựa chở hoa tơi, đẩy xe quần áo, gò lng chở rau quả. Rét cắt
thịt, phong phanh manh áo, khản cổ rao ổ bánh mì, khúc khoai nớng, củ sắn lùi. Những
"ô-sin" lau mòn cầu thang, già tay giặt hàng núi quần áo, họ là ai? Là ai những cave
cung cấp cho những động ăn chơi, cùng các quán karaoke đèn mờ, thỏa mÃn thói rửng mỡ
của ngời thành phố? Còn bao nhiêu ngời di c ngủ gà ngủ gật bên hè chợ lao động, thoắt
gọi là nháo nhào lao vào xúc đất, dọn đờng và xây cất nhà cao cửa rộng cho ngời thành phố,
để rồi Tết đến giắt lng dăm trăm ngàn, khăn gói quả mớp về với đàn con nheo nhóc ở quê.
Cái gốc sâu xa của di dân là đói nghèo. Hiện cả nớc có hơn 8000 xà thì 1700 xà thuộc
diện rất nghèo, 600 xà cha có đờng ra thị tứ và hàng nghìn thôn bản vẫn cha biết ánh
sáng điện. Thu nhập tính trên đầu ngời ở nông thôn vẫn chỉ bằng 1/5 thành phố. Chi li ra,
ngời nông dân nghèo cả năm chỉ cầm trong tay 2 triệu đồng. Học hành, ăn ở, đau ốm đà hết
sạch, nói gì đến tích lũy hay mua sắm? Cứ nghĩ rằng năm qua cả nớc đợc mùa lơng thực
33,8 triệu tấn. Làm một phép tính đơn giản, bớt ra 4 triệu xuất bán cho nớc ngoài rồi lấy số
thóc đó mà chia đều cho hơn 77 triệu ngời, chắc ai cũng no, có gì mà phải lo? Song thực tế
cho thấy chúng ta đợc mùa mà vẫn lo, vì giá lúa rớt đến thê thảm: 1100-1300 đ/kg. Nông
dân chỉ biết kêu trời, ngoài hạt thóc biết trông vào đâu? Một gánh rau có ngọn, không mua đủ
tập sách cho con đi học. Hai sọt cà chua không mua nổi cho con cái áo ấm. Giá lúa tiếp giảm
đi 100đ/kg thì nông dân mất đi 1.500 tû ®ång. Nh− vËy, søc mua cđa x· héi cũng giảm đi
tơng ứng. Giá mía, mận, xoài tụt đến quá mức cho phép vì không tìm đợc đầu ra đà gây
thiệt hại lớn cho ngời sản xuất. Liệu ngời dân ở nông thôn có còn đủ kiên nhẫn và yên tâm
ở lại miền quê khi mà thiên tai, đói nghèo luôn là khó khăn treo lơ lửng trong cuộc sống hàng

ngày? Liệu di c có phải là sự lựa chọn hay là con đờng bắt buộc để mu sinh?
Di dân với những nỗ lực xóa đói giảm nghèo
Tăng cờng đầu t phát triển nông thôn, tạo cơ hội việc làm có thu nhập cho ngời
nông dân nhằm thu hẹp sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị là một giải pháp lâu dài

B n quy n thu c Vi n Xã h i h c.

www.ios.ac.vn


Đặng Nguyên Anh

41

điều chỉnh các dòng di c ra thành phố. Với định hớng đó, trong những năm qua, chúng ta
đà tiến hành các chơng trình kinh tế-xà hội tổng hợp không riêng gì chơng trình quốc gia
xóa đói giảm nghèo để hỗ trợ nguồn lực cho các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Công tác
định canh, định c, di dân xây dựng vùng kinh tế mới là một trong những giải pháp kinh tếxà hội tổng hợp đó.
Có thể nói rằng các giải pháp hỗ trợ cho các xà đặc biệt khó khăn, giao đất cho các hộ
nghèo, mở rộng tín dụng u đÃi, chăm sóc y tế miễn phí, dạy nghề hoặc miễn giảm học phí,
đầu t cơ sở hạ tầng, hớng dẫn ngời nghèo cách làm ăn và khuyến nông-lâm-ng, trợ giá
cho vùng sâu vùng xa là những nỗ lực lớn rất đáng đợc ghi nhận mà chúng ta đà và đang
làm đợc trong sự nghiệp xóa đói giảm nghèo những năm qua.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt đợc là những bất cập trong phơng thức
quản lý hiện nay. Có thể thấy qua kết quả hai cuộc Khảo sát mức sống (VLSS) đợc tiến
hành công phu với sự giúp đỡ của Ngân hàng Thế giới. Thật phấn khởi khi kết quả khảo sát
cho thấy: chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Nam đà giảm đợc tỷ lệ đói nghèo từ 58% năm
1992 đến 37% năm 1998, trung bình mỗi năm giảm đợc 250 nghìn hộ khỏi đói nghèo kinh
niên. Song, chúng ta đà không nhận thấy rằng các con số trên chỉ áp dụng cho dân số chính
thức, và không bao gồm dân số di chuyển mà đại đa số là ngời nghèo, thậm chí rất nghèo.

Ngời nghèo nhập c là đối tợng nằm ngoài diện hai cuộc Khảo sát mức sống, do không phải
là dân c chính thức của địa bàn điều tra, dù ở nông thôn hay đô thị.
Vậy ngời nghèo nhập c là ai? Họ là những ngời cùng sống trong một địa bàn
dân c của cộng đồng địa phơng nhng không có quyền nh ngời sở tại, lại càng không
đến đợc với các dịch vụ xà hội mà thông qua đó các chơng trình xóa đói giảm nghèo
phát huy tác dơng. Ng−êi nghÌo nhËp c− th−êng sèng c¸ch biƯt víi cộng đồng địa phơng.
Do không phải là đối tợng của chơng trình, ngời nghèo nhập c biết rất ít về các trợ
giúp hiện có của chính phủ và các tổ chøc x· héi. Hä kh«ng cã qun nh− ng−êi së tại,
không tiếp cận đợc các dịch vụ xà hội nh chăm sóc y tế, miễn giảm giáo dục, vay vốn,
lắp nớc, mắc điện,... Do thiếu một địa vị pháp lý, nhiều trẻ em trong các gia đình nhập
c không có giấy khai sinh. Cuộc sống của các gia đình này không ổn định do thiếu các
nguồn lực và quan hệ xà hội cần thiết.
Việc chơng trình xóa đói giảm nghèo sử dụng các tiêu chuẩn cứng nhắc và hệ thống
quản lý hành chính để xác định xà nghèo nh hiện nay là không hợp lý, không phản ánh
đợc thực trạng ngời nghèo. Mô hình quản lý và vận hành chơng trình thông qua các tầng
nấc trung gian từ trung ơng xuống địa phơng đà loại trừ không ít hộ nghèo ra khỏi dự án.
Ngay từ bớc đầu, khi xác định đối tợng của chơng trình thì có những xà vùng cao do diện
tích tự nhiên quá lớn nên nhiều thôn, bản trong xà không đợc công nhận là nghèo mặc dù
rất nghèo trên thực tế. Do các dự án xóa đói giảm nghèo lấy đơn vị cấp xÃ/phờng làm cơ sở
quản lý nên nhiều khi thôn nghèo, bản nghèo và cuối cùng là hộ nghèo không đợc xem xét.
Bên cạnh đó, ngời dân di c do thiếu tính pháp lý trong việc di chuyển nên rất ít có cơ may
nhận đợc sự hỗ trợ của các dự án, dẫn đến hiệu quả xà hội của chơng trình còn thấp trên
thực tế. Liệu ngời nghèo di c có đợc cơ hội tham gia vào chơng trình xóa đói giảm nghèo
khi mà thực tế vận hành và triển khai chơng trình theo phơng thức quản lý hành chính đÃ
loại trừ dân số di chun tù ph¸t ra khái danh s¸ch?
VỊ thùc chÊt, xóa đói giảm nghèo có nghĩa là xóa đói và giảm thiếu ăn, vì dù có theo
tiêu chuẩn nào đi nữa thì đói và nghèo vẫn là những thực tế phũ phàng nhất ở nhiều địa

B n quy n thu c Vi n Xã h i h c.


www.ios.org.vn


42

Di dân và quản lý di dân trong giai đoạn phát triển mới ...

phơng hiện nay. Mới đây một lÃnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết:
"Việt Nam còn đến 15% dân số cha chạm tay vào hạt gạo, góp phần không nhỏ vào đội quân
đói nghèo, suy dinh dỡng ở châu á". Điều sống còn của an toàn lơng thực, một mục tiêu mà
nhiều nhà quản lý tởng rằng đà vơn tới khi đất nớc nhanh chóng vơn lên vị trí thứ hai
về xuất khẩu gạo cũng cha thành hiện thực. Lơng thực cha đến với mọi ngời dân, đến
vùng sâu hay vùng xa, ngời dân cha có đủ bát ăn, bát để. Con đờng đến cơm no, áo ấm, có
đợc cái "quyền đợc ăn" (đợc tổ chức Lơng-nông Liên hiệp quốc FAO coi nh một quyền cơ
bản) còn lắm gian truân.
Quản lý di dân: quan điểm, dữ liệu và thực tiễn
Về bản chất, quản lý dân c là sự quản lý nhà nớc trên lĩnh vực dân số, đợc phân
bố trên các vùng lÃnh thổ đất nớc. Quản lý dân c nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục
tiêu chiến lợc đổi mới xây dựng đất nớc. Đảng và Nhà nớc ta luôn đặt vấn đề dân sốnguồn lao động ở vị trí trung tâm trong những hoạt động lÃnh đạo và quản lý của mình, luôn
xác định con ngời làm mục tiêu và động lực của sự phát triển đất nớc.
Quản lý di dân là một bộ phận của công tác quản lý dân c, là hệ thống những biện
pháp chính sách nhằm đảm bảo sự phân bố dân số-nguồn lao động hài hòa với mục tiêu phát
triển. Tuy nhiên, dân số tăng nhanh và lực lợng lao động d thừa trong điều kiện kinh tế
còn kém phát triển đà trở thành mét th¸ch thøc lín hiƯn nay. Do ch−a cã sù chuẩn bị tốt về
dịch vụ xà hội ở những nơi dân đến, bộ máy quản lý kém hiệu quả nên vô hình chung di c
đang tạo ra những áp lực lớn. Làm thế nào để theo dõi, sắp xếp và quản lý đợc lực lợng lao
động di c một cách thèng nhÊt khi mµ hµng triƯu ng−êi vÉn tiÕp tơc di chuyển đến các vùng
nông thôn và ra đô thị kiếm việc, tăng thu nhập với mong muốn cải thiện cuộc sống? Công tác
quản lý di dân nói riêng và dân c nói chung trớc hết phụ thuộc vào tính chân thực của số
liệu phản ánh các biến động dân số. Chiến lợc dân số nhằm xây dựng một hệ cơ sở dữ liệu

quản lý dân c trong giai đoạn tới cũng không nằm ngoài mục tiêu đó.
Rất tiếc là thông tin số liệu dân số, đặc biệt là về di c ở nớc ta hiện nay còn quá
manh mún, không đầy đủ và sai lệch nhiều so với thực tế. Khi kết quả Tổng điều tra Dân số
và Nhà ở 1999 vừa qua đợc công bố, nhiều tỉnh thành hài lòng và thở phào với số dân của
mình. Chúng tôi không hề có ý định hoài nghi gì về ®é tin cËy cđa sè liƯu do Tỉng ®iỊu tra
thu thập và tổng hợp. Điều quan trọng là cũng giống nh Khảo sát mức sống (VLSS), các kết
quả Tổng điều tra cũng chỉ áp dụng cho dân số chính thức. Do phơng thức quản lý hành
chính về dân số mà nhiều tỉnh thành có lu lợng ngời nhập c rất lớn nhng vẫn chỉ công
bố những con số hình thức phản ánh mức độ phát triển theo kế hoạch của địa phơng mình.
Thật khó có thể tin rằng, dân số Hà Nội chỉ cha đầy 2,7 triệu ngời. Thành phố Đà Nẵng
cũng không quá 680 nghìn, kể cả huyện ngoại thành. Rồi Quảng Ninh, một tỉnh lớn của cả
nớc với mức độ phát triển công nghiệp, du lịch và dịch vụ cao mà chỉ ngót 1 triệu ngời.
Bình Dơng, một tỉnh thu hút đợc mức đầu t nớc ngoài cao nhất nớc suốt trong nhiều
năm, lại khiêm tốn với 700 nghìn dân. Phơng thức quản lý dân c hành chính nh vậy đÃ
dẫn đến tình trạng số liệu dân số và di dân không phản ánh đúng thực tế, phục vụ hiệu quả
công tác quản lý dân c.
Vậy thì các tỉnh thành, các cấp, ban ngành chức năng dựa trên cơ sở nào để quản lý
dân c và điều tiết các quá trình dân số? Thực tế cho thấy ở nhiều địa phơng không có cơ sở
dữ liệu thống nhất. Do hoạt động giữa các ban ngành còn cục bộ, đơn lẻ, thiếu sự phối hợp
chặt chẽ nên mỗi cơ quan thờng sử dụng số liệu riêng có của mình. Điều này dẫn đến tình

B n quy n thu c Vi n Xã h i h c.

www.ios.ac.vn


Đặng Nguyên Anh

43


trạng thiếu rõ ràng, lộn xộn giữa số liệu chính thức và số liệu tham khảo, giữa số thực tế với
số hớng dẫn. Quả là rất khó có thể biết đợc con số nào phản ánh đúng thực tế. Một cán bộ
thống kê ở cơ sở đà nói vui với chúng tôi rằng "Số liệu tức là liều liệu mà lấy số (cho mục đích
của ngành mình)." Câu nói đó không có gì đáng ngạc nhiên nếu biết rằng cho đến nay việc
thu thập và phân tích số liƯu vÉn chđ u nh»m phơc vơ cho viƯc thùc hiƯn chÝnh s¸ch. C¸c
cÊp chÝnh qun Ýt khi thõa nhËn trách nhiệm về sự quản lý yếu kém của mình và chẳng ai
lại muốn đa ra những con số khác thờng, dù là có thực, để tự đánh mất đi thành tích của
mình đối với cấp trên. Khi mà cơ chế xin-cho mang nặng tính bao cấp vẫn còn có ®Êt sèng nh−
hiƯn nay th× rÊt khã cã thĨ nãi ®Õn viƯc thiÕt lËp vµ vËn hµnh mét hƯ thèng quản lý dữ liệu
dân c thống nhất.
Đặt lại vấn đề quản lý di dân trong giai đoạn phát triển mới
Di chuyển dân số là một quy luật khách quan phản ánh yêu cầu phát triển của đất
nớc. Do bản chất khách quan đó, chúng ta không thể ngăn cấm bằng các biện pháp hành
chính. Trong giai đoạn trớc, công tác quản lý dân c tập trung nguồn lực vào mục tiêu giảm
sinh, hạn chế quy mô dân số thông qua viƯc thùc hiƯn c¸c biƯn ph¸p tr¸nh thai. C¸ch tiÕp cận
đó không phù hợp đối với di dân vốn là một quá trình mang bản chất kinh tế-xà hội chứ
không phải là sinh học. Công tác quản lý di dân phải đảm bảo quyền tự do c trú, tự do đi lại,
tạo điều kiện cho ngời dân làm ăn sinh sống tốt hơn, góp phần thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân trớc pháp luật. ĐÃ có khá nhiều hội thảo, hội nghị của các cơ quan ban ngành bàn
về việc đề xuất những biện pháp nhằm quản lý di dân. Điều đó hoàn toàn đúng, song vấn đề
đặt ra là nên quản lý nh thế nào, vì mục đích gì?
Trong thời gian qua, việc cải cách và tinh giản các thủ tục hành chính liên quan đến
hộ tịch, hộ khẩu, đăng ký kinh doanh, thuê mớn sử dụng lao động, v.v... đà góp phần khơi
dậy tiềm năng trong nhân dân, phát huy đợc nội lực sáng tạo của toàn thể xà hội, thúc đẩy
nền kinh tế tăng trởng. Song các chính sách di dân, đặc biệt đối với hình thái di chuyển tự
phát, còn cha theo kịp và đáp ứng đợc đòi hỏi đa dạng của đời sống thực tiễn trong giai
đoạn phát triển mới. Các biện pháp chính sách đợc áp dụng vẫn chủ yếu nhằm ngăn chặn và
hạn chế di c. Mặc dù một số địa phơng đà rất cố gắng ổn định cuộc sống của ngời dân
nhập c nhng cũng đà gặp khó khăn, lúng túng trong việc xử lý các vấn đề cụ thể. Tâm lý
không muốn nhận dân từ nơi khác chuyển đến, coi đó là gánh nặng cho địa phơng còn rất

phổ biến ở cấp cơ sở, dẫn đến tình trạng trôi nổi của ngời di c tự phát hiện nay. Chính sự
hạn chế và ngăn cấm nhập c này là một trong những nguyên nhân làm trầm trọng thêm
ảnh hởng tiêu cực của di c.
Vấn đề đặt ra là nếu nh chúng ta quản lý kém hiệu quả, lại không làm đến nơi đến
chốn, dẫn đến tốn kém và lÃng phí tiền của thì có nên tiếp tục phơng thức quản lý dân c
nh hiện nay nữa hay không? Dự thảo chiến lợc quốc gia về dân số và phát triển thời kỳ
2000-2010 đà nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác quản lý dân c, tạo môi trờng pháp
lý thuận lợi để khuyến khích ngời di chuyển đăng ký c trú. Dự thảo đà xác định đây là một
giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu của chiến lợc. Thực tế, vấn đề đăng ký dân c không có
gì là xa lạ víi chóng ta. St trong thêi kú chiÕn tranh ¸c liệt kéo dài, hệ thống đăng ký hộ
tịch, hộ khẩu đà phát huy tác dụng, góp phần bảo vệ trật tự an ninh xà hội. Tuy nhiên, hệ
thống quản lý dân c mang nặng tính bao cấp này tỏ ra không còn phù hợp trong thời kỳ đổi
mới của đất nớc. Để khuyến khích ngời dân nói chung và ngời di c nói riêng thực hiện
đăng ký c trú thì chúng ta không chỉ đơn thuần kêu gọi việc đăng ký tự nguyện mà cần đẩy

B n quy n thu c Vi n Xã h i h c.

www.ios.org.vn


44

Di dân và quản lý di dân trong giai đoạn phát triển mới ...

nhanh công tác tuyên truyền, hớng dẫn trong nhân dân về nghĩa vụ và quyền lợi của đăng
ký dân c. Phải làm sao cho việc đăng ký c trú cũng dễ dàng, thuận tiện, hợp lòng dân nh
việc mua mớ rau, con cá thờng ngày. Điều này còn có nghĩa là phải làm sao cho ngời dân
nhận thức và thụ hởng đợc ích lợi của việc đăng ký.
Rất tiếc rằng chúng ta cha làm đợc nh vậy! Tâm lý e dè, ngại ngùng đối với sự
cấm đoán, phiền hà, vòi vĩnh vẫn còn phổ biến trên thực tế. Hiện nay, ở nhiều xÃ/phờng việc

thực hiện đăng ký tạm trú cho ngời di c cha phải là miễn phí. Đối tợng vẫn phải nộp một
khoản chi phí từ 10-15 nghìn đồng một lợt cho dịch vụ này. Bộ máy hành chính cấp cơ sở
vốn đà quá tải, bất hợp lý, lại yếu về năng lực chuyên môn không thể đảm nhận tốt chức
năng đăng ký dân c. Các quy định văn bản về quản lý dân c đà thiếu tính hớng dẫn, lại
cục bộ nghiêng về lợi ích của cơ quan quản lý, do đó đà không chú trọng đến quyền lợi ngời
dân. Thất bại của dự án quản lý di dân bằng việc xây dựng các nhà chờ việc cho lao động phổ
thông ở Hà Nội là một ví dụ cho thấy sự bất cập đó. Các ban ngành chức năng của thành phố
chỉ muốn giành điều lợi, dễ dàng và thuận tiện nhất cho công việc quản lý của mình nên đÃ
không tính đến lợi ích của ngời lao động. Chỉ ngày một ngày hai sau lễ khai trơng, nhà chờ
việc bị bỏ hoang, ngời lao động tự chuyển đến địa điểm khác. Nguyên nhân thật dễ hiểu vì
chẳng có ngời thành phố có nhu cầu thuê mớn nhân công nào lại muốn đến tận nhà chờ
việc để tìm ngời.1
Thực trạng trên đây cho thấy trong những năm tới đây khó có thể tiến hành hiệu quả
hoạt động đăng ký và quản lý dân c trong những năm tới đây nh kỳ vọng trong mục tiêu
của chiến lợc dân số quốc gia. Thiết nghĩ, đà đến lúc cần phải mạnh dạn xóa bỏ cơ chế xincho, vËn hµnh theo kiĨu mƯnh lƯnh hµnh chÝnh, duy ý chí trong bộ máy công quyền ở các cấp,
các ngành nhằm xây dựng mối quan hệ nhà nớc - công dân trên cơ sở quyền và nghĩa vụ
bình đẳng của mọi ngời dân trớc pháp luật, và chỉ có pháp luật.
Để có thể điều chỉnh thành công các dòng di dân, quản lý hiệu quả địa bàn dân c,
trớc hết các ban ngành chức năng cần đổi mới quan điểm nhận thức về di dân và quản lý
dân c với phơng châm phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn. Bên cạnh đó cần tuyên truyền
giáo dục trong nhân dân ý thức chấp hành pháp luật, xử lý nghiêm các vi phạm trật tự an
toàn xà hội, lấn chiếm đất đai, phá rừng, gây ô nhiễm môi trờng không phân biệt tình trạng
di chuyển. ở cấp cơ sở, cần tăng cờng năng lực quản lý dân c với phơng châm tạo điều
kiện thuận lợi cho ngời di c đợc ổn định cuộc sống và đợc thụ hởng các dịch vụ xà hội,
nhất là đối với ngời nghèo nhập c. Để làm đợc nh vậy, trớc hết cần phải tinh giản và áp
dụng đồng bộ các biện pháp chính sách trên những lĩnh vực khác nh kinh tế, tài chính, giáo
dục, y tế, hành chính và luật pháp sao cho các chính sách đó có tác động hỗ trợ cùng chiều cho
mục tiêu quản lý dân c. Yêu cầu trên đòi hỏi việc tăng cờng hiệu quả phối kết hợp trong
hoạt động của các cấp chính quyền, các ban ngành chức năng nhằm điều tiết quá trình dân số
theo lợi ích chung của sự phát triển đất nớc.


1

Sự thất bại của dự án cấp thẻ lao động và quản lý dân nhập c theo thẻ ở thủ đô Jarkarta, Indonesia vào những năm 70
cũng có nguyên nhân tơng tự.
B n quy n thu c Vi n Xã h i h c.

www.ios.ac.vn



×