Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Địa danh mang tên thực vật ở Tây Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.28 KB, 5 trang )

Võ Nữ Hạnh Trang

Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM

_____________________________________________________________________________________________________________

ĐỊA DANH MANG TÊN THỰC VẬT Ở TÂY NAM BỘ
VÕ NỮ HẠNH TRANG*

TĨM TẮT
Ở Tây Nam Bộ có nhiều địa danh mang tên các lồi cây. Một số loại hiện nay khơng
cịn, nhưng căn cứ vào tên địa danh, có thể thấy chúng đã từng hiện diện nơi đây. Những
tên gọi như: rạch Cây Mốp, bưng Bồn Bồn, cầu Vàm Sác, ấp 7 Vườn Điều, huyện Mang
Thít, thành phố Rạch Giá… sẽ là nguồn tư liệu quý cho các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về
vùng đất Tây Nam Bộ.
Từ khóa: địa danh Việt Nam, thực vật Tây Nam Bộ Việt Nam.
ABSTRACT
Places in the Western part of South Vietnam that are named
after plants and trees
In the western part of South Vietnam, many places were named after trees. Many of
these trees have long disappeared from the earth’s surface, but the names of the places can
tell us that they were once there. Such names as Cay Muop canal (rivulet), Bon Bon
swamp, Vam Sac bridge, Hamlet 7 Vuon Dieu, Mang Thit district, Rach Gia city… are
valuable sources for researchers who wish to study more about the land.
Keywords: the names of places in Vietnam, plants and trees in the Western part of
south Vietnam.

1.

Đặt vấn đề
Ở miền Tây Nam Bộ, trong buổi


đầu đi khẩn hoang, người ta thường lấy
những đặc điểm nổi bật của địa phương,
những yếu tố tự nhiên gần gũi với con
người, đặc biệt là tên của các loài thực
vật để đặt địa danh. Các tên gọi này
không chỉ quen thuộc với người địa
phương mà còn rất dễ nhớ đối với những
người từ nơi khác đến. Trong bài viết
này, chúng tôi sẽ bước đầu khảo sát một
số địa danh mang tên thực vật ở Tây Nam
Bộ.
*

ThS, Trường Đại học Đồng Nai

2.

Nội dung
Thực vật có vai trò rất quan trọng
trong đời sống người Việt, từ cây gỗ làm
nhà ở đến cây lương thực, thực phẩm có
mặt trong bữa ăn hàng ngày… Chính sự
gắn bó mật thiết này đã khiến tên cây trở
thành tên gọi của vùng đất gắn liền với
nó. Các địa danh ở miền Tây Nam Bộ
cũng vậy, như chúng tơi sẽ trình bày sau
đây.
2.1. Địa danh có thành tố “cây”
Đối với những địa danh mang tên
cây, chúng tơi nhận thấy có điểm giống

nhau là ở vùng đất nào có loại cây gì mọc
nhiều nhất, thì tên của loại cây đó được
dùng để đặt tên cho vùng, chẳng hạn:

131


Tư liệu tham khảo

Số 35 năm 2012

_____________________________________________________________________________________________________________

Cây Mét là tên một con rạch ở
huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Cây mét
là loại cây hay mọc ven sông rạch.
Cây Mốp là tên một xóm ở xã Tân
Lộc Bắc, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
Cây mốp là loại cây được dùng làm nút
ve.
Cây Sợp là tên một con rạch ở
huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Cây
Sợp có âm gốc là cây sộp1.
Cây Thẻ là cây dài được vót bằng
một đầu, ban đêm, dân tuần phải vác theo
để biết là dân làng nào hoặc biên tên ai để
mà cắm ranh.
2.2. Địa danh có thành tố “cái”
Ở Tây Nam Bộ có rất nhiều địa
danh chứa thành tố cái. Nhiều nhà nghiên

cứu đã cố gắng giải thích ý nghĩa và
nguồn gốc của thành tố này. Trong Đất
Gia Định xưa, Sơn Nam cho rằng: “Rạch
bắt nguồn từ bờ sơng cái đổ vào ruộng.
Tên rạch thường có chữ cái đứng đầu, có
lẽ do chữ “ngả cái” tức là ngả đổ ra sơng
cái, nói gọn lại.”2 hay trong Lược khảo
nguồn gốc địa danh Nam Bộ của Bùi Đức
Tịnh: “Cái là tiếng rút gọn của “sơng
cái”, chỉ có nhiều con sơng lớn có nhiều
sơng nhỏ, rạch, xẽo, mương… đổ ra đó.
Cái là do từ kẻ mà ra”3. Theo Trần Ngọc
Thêm: “…cái vốn có nghĩa là mẹ, được
chuyển thành nghĩa lớn, quan trọng, chủ
yếu (sông cái, đường cái..)”4. Như vậy,
cái vốn có nghĩa là “mẹ, lớn”; cái bắt
nguồn từ một từ Việt cổ, nay khơng cịn
thơng dụng. Nhưng theo Lê Trung Hoa,
cái là từ cổ, có nghĩa là “sơng/rạch”5.
Cái Chóc là tên một con rạch ở tỉnh
Sóc Trăng. Cái Chóc là “rạch chóc”.
Chóc ở đây có thể là rau chóc, loại rau
132

mọc dưới đất bưng hoặc củ chóc, thứ củ
ngứa, vị thuốc trị đàm. Dân gian thường
kêu là bán hạ.
Cái Cỏ là tên con rạch ở huyện
Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Cái Cỏ là rạch
cỏ.

Cái Chuối là tên sông ở huyện
Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Cái Chuối là
“sơng hay rạch chuối”.
Cái Lá là tên một con rạch ở xã
Hiệp Đức, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền
Giang. Cái Lá là rạch (lá) dừa nước.
Cái Vừng là tên sông ở huyện Tân
Châu, tỉnh An Giang. Cái Vừng có nghĩa
là sơng chảy qua vùng có cây vừng 6.
Cái Nứa là tên một con rạch ở
huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Cái Nứa
có nghĩa rạch nứa, loại tre to có lóng dài,
cật mỏng.
Cái Ớt là tên một con rạch ở huyện
Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. Cái Ớt là rạch
ớt.
Cái Khế là tên một con rạch chảy từ
Cầu Đôi đến Đầu Sấu, thành phố Cần
Thơ, dài 5km. Cái Khế là rạch cây khế.
Cái Cồng là tên một con rạch ở
huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Cũng
viết Cái Cịng. Cái Cồng nghĩa là rạch
cây cồng7.
Cái Mít 8 là tên một con rạch ở xã
Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trơm,
tỉnh Bến Tre. Cái Mít là rạch mít.
Cái Sơn là tên một con rạch ở thành
phố Cần Thơ. Cái Sơn là rạch cây sơn 9.
Cái Muồng là tên sông ở huyện
Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Cái Muồng có

nghĩa rạch cây muồng10.
2.3. Địa danh song tiết mang tên cây


Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM

Võ Nữ Hạnh Trang

_____________________________________________________________________________________________________________

Địa danh song tiết mang tên cây
chiếm khá nhiều ở Tây Nam Bộ.
Bần Mít là tên một ấp ven biển
thuộc xã Thạnh Phong, huyện Thạnh
Phú, tỉnh Bến Tre. Bần Mít là một loại
cây rừng ngập mặn, mọc nhiều ở đây.
Bo Bo là tên một con kênh nối kênh
Trà Cú và kênh Thủ Thừa, tỉnh Long An,
dài 25km, được đào năm 1929. Bo Bo là
cây cao lương, trồng nhiều ở khu vực
này.
Bồn Bồn là tên bưng ở huyện Cai
Lậy, tỉnh Tiền Giang. Bồn Bồn là tên của
một loại cây có thân dẹp, được trồng
nhiều ở Cà Mau và Bạc Liêu. Phần lá non
thường được dùng làm dưa chua ăn kèm
với các món gỏi.
Chưn Bầu là tên một con kênh nối
các xã Phú Hà - Kiến Thành, huyện Chợ
Mới, tỉnh An Giang, dài 800m, rộng 1m,

đào năm 1985. Chưn Bầu là loại cây to,
cao khoảng 10 - 15m, thường được trồng
ở bờ ruộng để làm ranh và lấy củi, thân
có nhánh nhọn, lá mỏng cứng, hoa nhỏ
vàng, trái có bốn cánh.
Cần Thăng là tên một con rạch ở
phường 6, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
Cần Thăng là loại cây cao đến 15m,
nhánh ngang, trái to bằng trái mít.
Chịi Mịi là tên một con kinh ở tỉnh
Cà Mau, dài 3,6km. Chòi Mòi là loại cây
thân to, cao 1 - 7m, quả kết thành chùm,
có vị chua, ăn rất ngon.
Cò Ke là tên một con kênh ở xã
Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An
Giang, dài 1000m, rộng 6-8m, được đào
trước năm 1975. Cị Ke có hai loại: (i)
Loại dây leo, (hay dây Mèo), lá có răng
cưa mịn, hoa trắng, trái tròn bằng đầu

đũa, da láng, ăn được; (ii) Loại cây đứng
nhỏ, thân có lơng, lá có khía sâu ở đầu,
hoa trắng, trái chín ăn được, rễ có thể bào
chế thuốc ho, đau bụng, sốt.
Mật Cật là tên một cây cầu ở xã Tạ
An Khương Nam, huyện Đầm Dơi, tỉnh
Cà Mau, dài 21m. Mật Cật là loại cây
bụi, lá kép rẻ quạt, lá phụ dài khoảng
5cm có bốn gân, phát hoa đứng cao
khoảng 60cm. Hoa đực và hoa cái ở hai

cây khác nhau, trái thuộc loại phì quả,
một hột.
Mướp Sát là tên một ấp ở huyện
Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Mướp Sát
có âm gốc là Mướp Sác. Cây cao khoảng
4 - 6m, cành thô và to, gỗ mềm; hoa trắng
và thơm. Dân gian thường gọi sơn dương
tử, hải qua tử.
Săng Máu 11 là tên một con rạch ở
huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Săng
Máu là một trong những loại thân gỗ
thường mọc ở đất rừng, ven sơng rạch,
mủ cây màu đỏ như máu.
Vịi Voi là tên một con rạch ở tỉnh
Vĩnh Long. Vòi Voi là loại cây nhỏ, cao
độ 20 - 40cm, lá hình trứng dài, hoa màu
tím nhạt hoặc trắng có đài cùng cuốn lại
như vịi con voi.
Xồi Mút là tên một con rạch
nhánh của sông Tiền, gần thành phố Mỹ
Tho, tỉnh Tiền Giang. Năm 1785,
Nguyễn Huệ đánh thắng quân Xiêm ở
rạch này và rạch Gầm. Xoài Mút là một
loại xoài nhỏ trái, thơm ngon nhưng xơ
nhiều, khi ăn phải mút chứ không gọt
được. Ở Nam Bộ hiện nay vẫn còn trồng
ở một số nơi. Rạch chảy qua vùng trồng
nhiều xoài mút nên mang tên trên.
2.4. Địa danh chỉ cây gốc Khmer
133



Tư liệu tham khảo

Số 35 năm 2012

_____________________________________________________________________________________________________________

Những di tích cổ còn lưu lại đến
ngày nay ở Tây Nam Bộ đã chứng minh
từng có nền văn hóa cổ trên vùng đất này.
Ngồi những địa danh do người Việt đặt
cịn có một số lượng lớn địa danh của
người Khmer đã đặt từ trước, cụ thể là
những địa danh sau đây:
Ba Rinh là tên một con kênh ở
huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, cịn gọi là
Ba Trinh. Ba Rinh có gốc Khmer là
Pring, là cây gỗ vùng nước ngọt, thân
thẳng, hạt lúc chín màu tím đen, ăn được.
Cà Săng là tên một địa điểm ở tỉnh
Sóc Trăng. Cà Săng gốc Khmer là Cro
Săng, đây là loại cây có quả trịn, vỏ dày,
ruột có vị chua dùng để nấu canh.
Cần Súc là tên một con rạch ở tỉnh
Vĩnh Long. Cần Súc gốc Khmer là
Nchuơk, nghĩa là cây sen.
Xà Mách là tên một cây cầu bắc
qua kênh Xà Mách, ở huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang. Xà Mách gốc Khmer

X’math, nghĩa là cây tràm.
Trà Cuông là tên một ấp ở tỉnh Sóc
Trăng. Trà Cng gốc Khmer là Trakun
(hay Tra Kuoon, Ta Kuoon), nghĩa là rau
muống.
Tham Rôn là tên một con rạch ở xã
Cẩm Sơn, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền
Giang. Tham Rơn gốc Khmer, có nghĩa
là cây trôm.
1

Thốt Nốt là tên huyện của thành
phố Cần Thơ. Thốt Nốt gốc Khmer là
To-noot, tên một loại cây cùng họ với
dừa, thân thẳng và cao, có chất dùng để
nấu đường.
Việc tiếp nhận và giữ lại nhiều địa
danh Khmer trước kia không chỉ tạo thêm
sự đa dạng, phong phú cho việc đặt tên
các vùng đất mà còn tạo sự thân thiện
giữa các dân tộc, đồng thời là sắc thái
riêng của vùng Tây Nam Bộ.
3.
Kết luận
Từ những địa danh trên, chúng ta
thấy hệ thực vật được phản ánh qua địa
danh ở miền Tây Nam Bộ rất đa dạng và
phong phú. Căn cứ vào địa danh có thể
phỏng đốn chúng đã từng có mặt tại
vùng đất này nhưng do yếu tố môi trường

tác động có thể bị mất đi. Đồng thời qua
địa danh các nhà khoa học sẽ có thêm
nguồn “tư liệu sống” khi tìm hiểu về
vùng đất Tây Nam Bộ. Tuy nhiên, khi có
sự thay đổi hay đặt mới địa danh thì cần
phải mang tính liên tục, truyền thống, kế
thừa lịch sử, tập quán, diện mạo văn
hóa… của vùng đất đó.

Thứ cây đất giồng, lá nó có mùi chua chát, người ta hay dùng làm rau sống.
Nxb Trẻ TPHCM, 1997, tr.15.
3
Nxb Văn nghệ, 1977, tr.13
4
Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TPHCM, tr.43.
5
Lê Trung Hoa (2005), Địa danh Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, tr.42.
6
Loại cây lớn lá, hay mọc theo đất bưng.
7
Cồng:“cây rừng to cùng họ với bứa, gỗ thường dùng làm nhà, đóng thuyền,…”.
8
Gia Định thành thơng chí (Trịnh Hồi Đức) và Đại Nam nhất thống chí gọi rạch này là Ba La giang, mà ba
la là “cây mít”.
2

134


Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM


Võ Nữ Hạnh Trang

_____________________________________________________________________________________________________________

9

Cây Sơn thuộc loại có mủ đỏ.
Từ điển Bách khoa nơng nghiệp giải thích: “Muồng tên khoa học Cassia chi cây họ Vang
(Caesalpiniacene) gồm 400 loài chủ yếu là cây gỗ và cây bụi, một số là loài cây thân thảo. Hoa có nhiều màu
sắc khác nhau, từ trắng vàng đến đỏ…”.
11
Suối Săng Máu (phường Trảng Dài, Biên Hòa, Đồng Nai) hay còn gọi là suối Sơn Máu: “Sơn Máu là loại
cây suông, cao, trên ngọn nhánh tỏa, tàn dù, mọc theo gò, lá dài như lá vú sữa, mủ đỏ, màu máu…”, “… con
suối bắt nguồn từ Hố Nai, Bình Ý chảy ra sơng Đồng Nai, là suối Sơn Máu, vì suối này chảy ngang qua các
gị nổng, cánh rừng có nhiều cây Sơn thuộc loại có mủ đỏ là sơn máu” [Lương Văn Lựu (1972), Biên Hịa sử
lược tồn biên, quyển 2, Sài Gòn, tr.84 - 85].
10

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Tấn Anh (2008), Những đặc điểm chính của địa danh ở Vĩnh Long, Luận
văn Thạc sĩ khoa học ngữ Văn, Trường ĐHKHXH&NV, TPHCM.
2.
Nguyễn Thanh Bình (2000), Nguồn gốc địa danh hành chính tỉnh Sóc Trăng, Tài liệu
hội thảo khoa học “Lịch sử hình thành và phát triển tỉnh Sóc Trăng trước 1945”.
3.
Thanh Chí (2005), Một số địa danh ở Bạc Liêu có nguồn gốc là tên thực vật, Bạc
Liêu xưa và nay, tr.25-26, Xuân Ất Dậu.
4.

Huỳnh Tịnh Paulus Của (1998), Đại Nam quấc âm tự vị, Nxb Trẻ, TPHCM.
5.
Trần Hoàng Diệu, Nguyễn Quang Ân (2007), Địa chí Tiền Giang, tập II, Ban Tuyên
giáo tỉnh Tiền Giang và Trung tâm UNESCO thơng tin tư liệu Lịch sử văn hóa Việt
Nam.
6.
Lê Trung Hoa (chủ biên), Nguyễn Đình Tư (2003), Từ điển địa danh thành phố Sài
Gịn - Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, TPHCM.
7.
Thái Văn Kiểm (1960), Đất Việt trời Nam, Nxb Nguồn sáng, Sài Gòn.
8.
Trương Vĩnh Ký, Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên, Sài Gòn, tr.253-264, Thái
Văn Chải dịch các địa danh gốc Khmer trong sách này.
9.
Hoàng Phê (chủ biên) 2000, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển
học, Đà Nẵng.
10. Thạch Phương, Đoàn Tứ (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa học xã hội.
11. Vương Hồng Sển (1993), Tự vị tiếng Việt miền Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
12. Trần Thị Mỹ Yến (2006), “Địa danh có nguồn gốc từ tiếng Khmer ở tỉnh Sóc Trăng”,
in trong Ngữ học Trẻ, tr.512-517.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 04-01-2012; ngày chấp nhận đăng: 19-4-2012)

135



×