X· héi häc sè 4 (60), 1997
114
Sù chun dÞch søc lao động d thừa và
sự phát triển đô thị nhỏ ở nông thôn Trung Quốc
Lý Bảo Quân
Cuộc cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc đợc bắt đầu từ nông thôn. Mời chín năm
nay, Trung Quốc thông qua cuộc cải cách về thể chế kinh tế ở nông thôn để điều chỉnh chính sách
kinh tế nông thôn, đà thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn, đặc
biệt là sự ra đời, phát triển của sản nghiệp thứ hai, thứ ba và ở nông thôn lấy thị trấn là chủ yếu.
Điều này đà chuyển đổi một khối lợng lớn sức lao động d thừa ở nông thôn, mặt khác còn thúc
đẩy sự chuyển đổi về cơ cấu sản nghiệp và sự biến đổi xà hội ở nông thôn, đẩy mạnh tiến trình độ
thị hoá nông thôn Trung Quốc. Song, trong những năm gần ®©y, tèc ®é chun ®ỉi søc lao ®éng d−
thõa ë nông thôn Trung Quốc liên tục bị giảm xuống. Vấn đề chuyển dịch sức lao động d thừa ở
nông thôn, trào lu đó đà đợc giới học thuật nghiên cứu và những cơ quan hữu quan của nhà
nớc quan tâm. Tác giả cho rằng: phát triển thành phố và thị trấn là con đờng cơ bản thực hiện
sự di chuyển sức lao động d thừa ở nông thôn Trung Quốc.
I. Phân tích tình trạng chuyển dịch sức lao động d thừa ở nông thôn Trung
Quốc và những nhân tố ảnh h−ëng cđa nã.
HiƯn nay, søc lao ®éng d− thõa ë nông thôn Trung Quốc có khoảng 1.2 triệu ngời, vợt
qua sức lao động lu động ở khu vực là 60 - 80 triƯu ng−êi, sè søc lao ®éng d− thõa ở nông thôn
vẫn tăng lên với tốc độ khoảng 100 triệu ngời mỗi năm. Từ phơng thức chuyển dịch này cho
thấy, sức lao động d thừa ở nông thôn Trung Quốc có hai phơng thức chuyển dịch chủ yếu:
- Một là, mô hình ly thổ lại ly huơng, tức là sức lao động d thừa ở nông thôn tách rời
đất c trú gốc đến thành phố khác làm những hoạt động sản xuất phi nông nghiệp, đồng thời định
c lại.
- Hai là, mô hình ly thổ bất ly hơng, tức là sức lao động d thừa ở nông thôn tuy tõ
n«ng nghiƯp chun ra nh−ng vÉn sèng ë th«n xãm gốc. Những ngời dân này thờng quanh quẩn
giữa nghề sản xuất phi nông nghiệp và nông nghiệp, không hoàn toàn chuyển ra khỏi nông thôn.
Vì thế, dù nh vậy về số lợng vẫn còn phải xem xét trong tình hình chuyển dịch nữa. Nhiệm vụ
của việc chuyển dịch sức lao động d thừa ở nông thôn Trung Quốc là tơng đối khó khăn và nặng
nề. Nhân tố hạn chế sự chuyển dịch sức lao động d thừa ở nông thôn Trung Quốc có mấy mặt chủ
yếu sau đây:
1. Đô thị hoá trì trệ ở công nghiệp hoá và phi nông hoá, khiến cho phần lớn sức lao động
d thừa ở nông thôn ở lại nông thôn, khó chuyển dịch.
Từ cải cách mở cửa đến nay, trình độ đô thị hoá nớc ta có sự nâng lên rất nhiều. Năm
1994 dân số đô thị Trung Quốc chiếm 28.7% tỷ trọng tổng dân số, tăng lên 10.79% so với năm
1978. Nhng, nhìn trên tổng thể thì trình độ đô thị hoá của nớc ta vẫn còn tuơng đối thấp. Và so
với các nớc phát triển, vào truớc năm 1950 thì tỷ trọng dân số đô thị hoá của các nớc phát triển
B n quy n thu c Vi n Xã h i h c.
www.ios.org.vn
Lý Bảo Quân
115
đà vợt quá một nửa số lợng là 53%. Năm 1960 đạt 59.6%, năm 1970 là 66.8%, năm 1980 đạt
70.9%, năm 1989 đạt 73%. Trình độ đô thị hoá của các nớc nh Tây Ban Nha, Anh, v.v... ở mức
90% trở lên. Nhìn từ các nớc phát triển cho thấy, bảng số liệu thống kê của cục thăm dò dân số
nớc Mỹ cho thấy rõ, năm 1989 trình độ đô thị hoá của các nớc phát triển là 36%, nếu gồm cả
Trung Quốc trong đó sẽ là 32%. Qua đó có thể thấy đợc trình độ đô thị hoá ở Trung Quốc không
những thấp so với các nớc phát triển trên thế giới, đồng thời cũng thấp so với các nớc phát triển,
khoảng cách tơng đối lớn. Căn cứ vào những nghiên cứu có liên quan với mức độ phát triển đô thị
hoá có mối liên hệ tơng quan khá rõ rệt về mức độ phát triển kinh tế của những nớc có thu nhập
khác nhau (lấy bình quân GDP làm tiêu chuẩn) với mức độ đô thị hoá. Vào cuối năm 1987, thu
nhập GNP thì bình quân đầu ngời là 290 đô la Mỹ, mức độ đô thị hoá là 30%. Nhng vào năm
1991 thì GNP bình quân đầu ngời đạt 370 đô la Mỹ, mức độ đô thị hoá mới đạt 26,41% . Điều này
đà nói lên đô thị hoá nớc ta bị ngng trệ ở mức độ phi nông hoá và sự phát triển nền kinh tế quốc
dân. Nguyên nhân của sự ngng trệ này chủ yếu là do sự phi nông hoá và công nghiệp hoá tiến
hành ở ngoài đô thị. Kết quả đô thị hoá ngng trệ là ở sự phi nông hoá, đó là sự loại trừ khá đông
dân số làm sản xuất nông nghiệp ở nông thôn ra ngoài thành phố.
2. Xí nghiệp ở hơng trấn phân tán đà hạ thấp khả năng thu hút sức lao động d thừa ở
nông thôn trong các xí nghiệp hơng trấn.
Căn cứ vào những t liệu có liên quan, năm 1993 xí nghiệp hơng trấn Trung Quốc bao
gồm những xí nghiệp hợp tác, xí nghiệp cá thể, xây dựng các xí nghiệp thôn, tổng céng cã
2.452.930.000 xÝ nghiƯp. Trong ®ã cã 2.305.690.000 xÝ nghiƯp cá thể và xí nghiệp do thôn xây dựng
lên , chiếm 94% tổng số xí nghiệp. Xí nghiệp này phần lớn phân tán trong các thôn xóm. Nhìn từ
các xí nghiệp thôn qua số ngời vào làm việc cho thấy, vào năm 1992 ở nông thôn đà xây dựng
đợc 7.096.650.000 xí nghiệp công nghiệp, và số ngời có việc làm là 2.305.690.000 ngời, chiếm
94% tổng số xí nghiệp ở thị trấn. Những xí nghiệp này phần lớn phân tán trong các thôn xóm, số
ngời làm việc là 2.138.560.000 ngời, số ng−êi cã viƯc lµm chiÕm 20% sè ng−êi cã viƯc làm ở xí
nghiệp hơng trấn vào năm đó là 105.810.000 ngời. Điều đó nói lên rằng, chỉ ở một lĩnh vực xây
dựng nền công nghiệp ở thôn thôi thì cũng phải loại trừ 20% dân số phi nông nghiệp ở nông thôn
Trung Quốc ra. Cơ cấu phân tán ở các xí nghiệp hơng trấn đà đem lại hai vấn đề:
* Một là, nền sản xuất ở xí nghiệp hơng trấn không thể hình thành có hiệu quả tập
trung đợc, đà tăng thêm nền sản xuất ở xí nghiệp trở nên cơ bản, không có lợi cho việc nâng cao
hiệu quả sản xuất ở xí nghiệp, làm cho sự phát triển trong nhiều xí nghiệp hơng trấn ở Trung
Quốc luôn ở vào trong vòng tuần hoàn với mức độ thấp, chất lợng kỹ thuật ở các xí nhghiệp thấp,
thiếu tiềm lực phát triển. Kết quả của nó là đà ảnh hởng đến khả năng thu hút thêm sức lao
đông d thừa ở nông thôn trong các xí nghiệp hơng trấn. Từ đó đà ngăn trở tiến trình đô thị hoá ở
nông thôn Trung Quốc.
* Hai là, cơ cấu phân tán ở các xí nghiệp hơng trấn đà dẫn đến quy mô xây dựng thị trấn
quá nhỏ, khó có hiệu quả tập trung. Năm 1982, trong toàn quốc có 11.985 xí nghiệp đợc xây dựng
ở thị trấn. Thị trấn đà xây dựng 974.881 km2 diện tích, bình quân mỗi thị trấn chỉ xây dựng đợc
0,81 km2. Quy mô ở hị trấn quá nhỏ, về cơ cấu ở cơ sở khó đồng bộ, sự hợp tác giữa các xí nghiệp
khó phát triển, tăng giá thành sản xuất ở xí nghiệp, đà hạn chế sự phát triển của xí nghiệp. Đồng
thời lại không có lợi trong việc thu hút sức lao động d thừa ở xí nghiệp hơng trấn nhiều hơn.
Năm 1978 số ngời có việc làm ở xí nghiệp hơng trấn ở Trung Quốc là 286.260.000 ngời. Năm
1985 đà tăng lên đến 69.790.000 ngời. (xem bảng dới đây). Năm 1988 đà đạt tới 95.450.000
ngời. Thời kỳ này bình quân mối năm có gần 6,7 triệu lao động d thừa ở nông thôn tới các xí
nghiệp hơng trấn làm việc. Nhng đến năm 1989-1990 số ngời làm việc tại các xí nghiệp hơng
B n quy n thu c Vi n Xã h i h c.
www.ios.org.vn
116
Sự chuyển dịch sức lao động d thừa và ...
trấn ở nông thôn Trung Quốc ngợc lại đà giảm xuống 2.800.000 ngời. Đến năm 1991 mới khôi
phục lại có 96.090.000 ngời. Năm 1992 là 105.810.000 ngời. So sánh năm 1992 với năm 1988
thì tổng cộng tăng 10.360.000 ngời, khả năng chuyển dịch sức lao động d thừa ở nông thôn bình
quân hàng năm đà giảm xuống.
Tình hình biến đổi số ngời làm việc tại các xí nghiệp hơng trấn ở Trung Quốc
Chia theo năm
1984
1985
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
Số ngời làm việc tại các
xí nghiệp hơng trấn
(10.000 ngời)
5208.11
6979.03
7937.14
8805.18
9545.45
9366.78
9264.55
9609.11
10581.99
Số tăng giảm
(10.000 ngời)
Tăng giảm
(%)
1170.92
758.11
868.04
740.27
-178,67
-102,03
344,36
971.99
34.o
13.7
10.9
8.14
-1.87
-1.09
3.58
10.1
3. Sự hạn chế về thể chế và chính sách
Thể chế chính sách hiện hành là một nhân tố quan trọng đà cản trở sức lao động d thừa
ở nông thôn, trong đó điều cốt lõi nhất là chế độ quản lý hộ tịch hiện hành, bao gồm: chế độ quản
lý đăng ký hộ tịch, chính sách thay đổi hộ khẩu và những thể chế quản lý về việc mua bán lơng
thực, nhà ở, việc sử dụng công nhân lao động, nhân sự, giáo dục và các chế độ bảo hiểm xà hội có
liên quan tới hộ khẩu. Những chế độ này đà làm cho dân số nông thôn khó vào thành phố làm việc
và định cự lại đợc. Nó đà cản trở tiến trình đô thị hoá và sụ phát triển đô thị và thị trấn nhỏ;
đồng thời hạn chế sự hợp lý về sức lao động d thừa ở nông thôn, sự lần lợt chuyển dịch sức lao
động d thừa ở nông thôn đà không có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế nông thôn và sự ổn
định xà hội.
Chế độ hộ tịch hiện hành đà hạn chế sự chuyển dịch sức lao động d thừa ở nông thôn,
biểu hiện nổi bật của nó là: dân số lu động và dân số tạm trú ở thành phố và thị trấn lớn hoặc
gần với dân số thờng trú. Căn cứ vào điều tra của uỷ ban cải cách thể chế nhà nớc năm 1994 đối
với 60 thành phố và đô thị nhỏ, bình quân dân số thờng trú mỗi thị trấn có 20.336 ngời, dân số
bên ngoài tới là 5717 ngời, dân số lu động là 19.068 ngời. So sánh dân số thờng trú với dân số
không thờng trú là 1:1,225. Hai việc là c trú ở nông thôn và việc làm ở thành phố của những
dân số không thờng trú này đà hạn chế sự tập trung dân số thờng trú, còn khiến cho việc làm
kéo dài lấy nông thôn là chính của những dân số không thờng trú này, đà không thể nối tiếp cho
sự phát triển của đô thị hoá, đà hạn chế sự di chuyển sức lao động d thừa ở nông thôn Trung
Quốc.
II. Phát triển đô thị và thị trấn nhỏ là con đờng thoát cơ bản của vấn đề giải
quyết việc làm về lao động d thừa ở Trung Quốc
Đô thị và thị trấn nhỏ là nơi quan trọng để tiếp nhận sức lao động d thừa ở nông thôn
Trung Quốc đến năm 2000, giá trị tổng sản lợng công, nông nghiệp đà có 2 lần thay đổi. Đời sống
của dân ở mức thờng thờng bậc trung. ĐÃ đến lúc trình độ đô thị boá của Trung Quốc phải ở
mức 35% trở lên. Thực hiện mục tiêu này, chỉ có dựa vào tài thu hút đông đảo dân số nông thôn rời
khỏi nông thôn ra ngoài làm việc ở nhiều đô thị và thị trấn nhỏ. Quyết định đó là xuất phát từ
B n quy n thu c Vi n Xã h i h c.
www.ios.org.vn
Lý Bảo Quân
117
tình hình trong nớc. Có thể nói rằng, sự phát triển đô thị và thị trấn nhỏ là phù hợp với tình hình
trong nớc của Trung Quốc, là con đờng thoát cơ bản của việc di chuyển sức lao động d thừa ở
nông thôn mang màu sắc Trung Quốc.
1. Nông thôn là mấu chất trong việc chuyển đổi hai tính chất cơ bản
Trong kiến nghị của Hội nghị Trung ơng V, lần thứ 14 của Đảng cộng sản Trung Qc
®· chØ râ: “MÊu chèt cđa viƯc thùc hiƯn mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 là thực hiện hai sự
chuyển đổi có tính chất cơ bản mang ý nghĩa toàn cục: Một là, chuyển đổi thể chế kinh tÕ tõ thĨ
chÕ kinh tÕ cã kÕ ho¹ch trun thèng sang thĨ chÕ kinh tÕ thÞ trng x· héi chđ nghĩa. Hai là,
phơng thức tăng trởng kinh tế chuyển đổi từ kiểu quảng canh sang kiểu thâm canh. Trong việc
hoàn thành hai quá trình chuyển đổi này, thì nông thôn là một mấu chốt. Từ cải cách mở cửa tới
nay, tỷ trọng nền kinh tế nông thôn chiếm càng lớn. Xí nghiệp ở thị trấn nhỏ đà trở thành thể chế
của nền kinh tế nông thôn. Năm 1992, tổng giá trị sản lợng đà chiếm 32,3% tổng giá trị sản
lợng của toàn xà hội, chiếm 66,4% tổng giá trị sản lợng của xà hội nông thôn. Nhng do bớc đi
của xí nghiệp chậm trễ, trình độ kỹ thuật thấp, trình độ quản lý không cao. Cho nên nhiệm vụ của
việc chuyển đổi phơng thức tăng trởng kinh tế ở nông thôn là khó khăn và nặng nề. Từ bài viết
trên chúng ta có thể thấy đợc cơ cấu phân tán của các xí nghiệp ở hơng trấn bất lợi trong việc
nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của các xí nghiệp hơng trấn. Tình thế này
buộc phải giảm khả năng thu hút lao động d thừa của các xí nghiệp ở hơng trấn. Vì vậy phát
triển đô thị và thị trấn nhỏ thông qua hình thức xây dựng vùng phát triển và những vùng công
nghiệp nhỏ đà đa đến sự tập trung thoả đáng đối với các xí nghiệp hơng trấn không những là
nhu cầu của viƯc thùc hiƯn hai cc chun ®ỉi, ®ång thêi cịng là nhu cầu thúc đẩy việc chuyển
dịch sức lao động d thừa ở nông thôn.
2. Số lợng lao động d thừa ở nông thôn Trung Quổc rất lớn, vợt xa khả năng tiếp nhận
của những đô thị lớn và vừa. Phát triển thị trấn và đô thị nhỏ là sự lựa chọn hiện thực
Căn cứ vào dự báo, đến năm 2000 n−íc ta sÏ cã h¬n 200 triƯu ng−êi rêi khỏi nông thôn, họ
đổ về đô thị và thị trấn nhỏ, chuyển sang phi nông nghiệp. Nếu họ đi vào các đô thị vừa và lớn thì
tơng lai trong vài năm sau cần phải xây dựng thêm 160-200 thành phố có trên 1 triệu dân hoặc
300-400 thành phố có 500.000 -1.000.000 dân. Vậy mà đến cuối năm 1992, đà gần 100 năm nay
Trung Quốc mới xây dựng đợc 32 thành phố lớn đặc biệt, có 1 triệu dân trở lên, 41 thành phố lớn
có 5.000 -10.000 dân, 117 thành phố loại vừa có 200.000 - 500.000 dân, 372 thành phố có 200.000
dân trở xuống. Nếu dựa vào tính toán về đầu t xây dựng cơ bản mang tính chất sản xuất và sinh
hoạt của dân số mới tăng ở đô thị lớn, thì nhu cầu chung của nhà nớc cần đầu t hơn 12.000 triệu
đồng (nhân dân tệ). Điều đó mặc dù nhìn nhận về thời gian, nhân lực, tài lực, thì rõ ràng là không
thể đợc. Vì vậy, cùng ®ång thêi víi viƯc chóng ta vÉn ph¶i sư dơng những thành phố hiện có, tích
cực phát triển những thành phố và thị trấn nhỏ, từng bớc đa 2 triệu lao động d thừa ở nông
thôn tới làm trong các thành phố và đô thị nhỏ một cách có mục đích. Khiến cho hàng loạt lao động
d thừa ở nông thôn dần chuyển hớng sang công nghiệp và sản nghiệp thø ba, chun sang xÝ
nghiƯp h−¬ng trÊn. Cã thĨ nãi rằng, phát triển thành phố và đô thị nhỏ, một mặt đà thích ứng với
nhu cầu khách quan của dân số nông thôn chuyển sang khu vực thành thị, có lợi cho việc ngăn
chặn việc mở mang quá mức dân số ở đô thị lớn, đồng thời lại có lợi cho việc hình thành mạng lới
kinh tế hoặc quần thể đô thị lấy thành phố làm hạt nhân. Từ đó mở mang khu vực ảnh hởng của
những thành phố lớn, phát huy tác dụng lôi kéo về kinh tế ở những thành phố lớn.
B n quy n thu c Vi n Xã h i h c.
www.ios.org.vn
118
Sự chuyển dịch sức lao động d thừa và ...
3. Những chi phí cho thành phố nhỏ để thu hút sức lao động tơng đối ít
Mật độ dân số ở thành phố và thị trấn nhỏ tơng đối thấp, địa phơng phát triển nhiều
đất đai, chứng tỏ đất tơng đối dễ dàng, giá đất tơng đối thấp, đầu t xây dùng tiÕt kiƯm, chi phÝ
x©y dùng thÊp. Kinh phÝ dïng cho việc cải tạo những đô thị đó và mở mang những khu mới thấp
so với những thành phố loại trung. Căn cứ vào những dự báo về các mặt có liên quan, chiếm
khoảng 2% - 3% kinh phí đầu t xây dựng cơ bản của các thành phố nhỏ dùng cho công việc quản
lý thành phố, ở những thành phố lớn phải chiếm tới 5%- 6%, ở những thành phố lớn đặc biệt đạt
cao là 7% trở lên, ở những thành phố và thị trấn nhỏ có 190.000 dân trở xuống mỗi năm dân số
tăng 1%. Kinh phí xây dựng đô thị tăng 2.3% và ở những thành phố có 200.000 dân trở lên về kinh
phí cần phải tăng 3.4% trở lên. Thành phố nhỏ thấp hơn trên khoảng 33% so với thành phố loại
vừa. Vì vậy, lao động d thừa ở nông thôn chuyển dần sang đô thị và thị trấn nhỏ có thể hạ thấp
giá thành và mối hiểm nghèo trong quá trình chuyển dịch sức lao động, đặc biệt phải chú ý tới việc
bảo vệ đất trồng.
Nguồn: Trích dịch trong tạp chí Vấn đề đô thị
Số 3-1997, tiếng Trung.
Ngời dịch: An Tâm
B n quy n thu c Vi n Xã h i h c.
www.ios.org.vn