Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

luận văn vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của c.mác vào phát triển thị trường lao động ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.68 KB, 102 trang )









LUẬN VĂN:
Vận dụng lý luận hàng húa sức lao động của
C.Mác vào phát triển thị trường lao động ở
nước ta















Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt mấy chục năm tồn tại nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, ở nước ta, thị


trường lao động với tư cách là một bộ phận cấu thành của thị trường, các yếu tố sản xuất
đã không được công nhận. Điều này có nguồn gốc từ các thành kiến mang tính nhận thức
về hàng hóa sức lao động, về việc làm, về thất nghiệp. Trong đó, quan điểm về sức lao
động là hàng hóa, có thể mua, bán, trao đổi được coi là một điều cấm kỵ. Phân bổ lao động
được thực hiện chủ yếu bằng sự điều động của nhà nước, thông qua các biện pháp hành
chính, mệnh lệnh, rất ít khi tính đến các nhu cầu của thị trường. Các quyết định liên quan
đến nguồn lao động, nhất là các quyết định về phân bổ lực lượng lao động, về luân chuyển
lao động, chủ yếu được thực hiện nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề về công bằng xã
hội hơn là chú trọng đến hiệu quả kinh tế.
Hơn thế, quan điểm cho rằng, chỉ có các hoạt động trong khu vực kinh tế nhà nước
và khu vực kinh tế tập thể mới được coi là có lao động, là có việc làm, trong một thời gian
dài đã làm đóng băng thị trường lao động của khu vực phi nhà nước. Những người làm
việc ngoài hệ thống các cơ quan đơn vị kinh tế nhà nước hay tập thể thường bị coi là
không có việc làm, thậm chí những việc họ làm còn bị coi là "bất hợp pháp". Những người
đi làm thuê, hoặc những người đứng ra thuê mướn nhân công, tạo công ăn việc làm cho
người lao động ngoài khu vực quốc doanh và tập thể bị coi là bóc lột, bị hạn chế và phân
biệt đối xử nặng nề.
Chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam 20 năm qua đã mang lại những thay đổi về chất
liên quan đến phân bổ và sử dụng lực lượng lao động. Thị trường lao động đã được công
nhận về mặt pháp luật và bước đầu có những hoạt động cụ thể. Trên thực tế, sức lao động
đã dần được coi là một loại hàng hóa, thể hiện qua việc công nhận quyền tự do tìm việc
làm của người lao động và quyền thuê mướn người lao động làm việc cho mình của các
chủ sử dụng lao động. Tuy nhiên, đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế nước ta hiện nay là
quá trình biến đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Nền kinh
tế thị trường đang thoát dần khỏi những ràng buộc về nhận thức và thực tiễn cũ. Trong

những khó khăn lớn về nhận thức mà chúng ta đang gặp phải có vấn đề bản chất của lao
động và thị trường lao động. Từng quen với quan niệm coi lao động là một giá trị xã hội và
tinh thần cao nhất, một giá trị tự thân, thoát ra ngoài sự trao đổi, nhiều người không khỏi
bỡ ngỡ khi thay đổi quan niệm về lao động, bởi vì từ nay lao động cũng không thể nằm

bên ngoài các quan hệ thị trường. Dù có mang những phẩm chất đặc biệt thế nào đi nữa,
sức lao động vẫn là một thứ hàng hóa để mua bán theo giá trị của nó trên thị trường, xét
trong mối tương quan với các hàng hóa khác và ngay cả với chính nó. Vì vậy, việc tiếp tục
nhận thức, vận dụng hợp lý lý luận hàng hóa sức lao động, về thị trường lao động là một
vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay.
Với ý nghĩa đó, tác giả đã chọn việc " Vận dụng lý luận hàng húa sức lao động
của C.Mác vào phát triển thị trường lao động ở nước ta " để làm đề tài nghiên cứu của
luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khi nền kinh tế thị trường ở nước ta được hình thành và phát triển, các nhà nghiên
cứu đã có được thực tiễn sinh động để soi rọi lại những vấn đề về kinh tế - xã hội của thời
kỳ quá độ trong đó có vấn đề về hàng hoá sức lao động và thị trường lao động. Có thể nêu
một số tài liệu và công trình nghiên cứu có liên quan xung quanh vấn đề này như sau:
Về hàng hoá sức lao động:
- Phạm Văn Chiến và Phạm Quốc Trung (1990), "Bàn về điều kiện xuất hiện hàng
hoá sức lao động", Giáo dục lý luận, (2), tr.33-34. Bài viết xuất hiện trên diễn đàn - tranh
luận nhằm bảo vệ tính khoa học, lịch sử của lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác. Đặc
biệt là những giả định về điều kiện xuất hiện hàng hóa sức lao động trong điều kiện của
Việt Nam.
- Lê Minh Vụ (1993), "Suy nghĩ về hàng hoá sức lao động trong thời kỳ quá độ ở
Việt Nam", Quốc phòng toàn dân, (9), tr.29-32. Bài viết phân tích, làm rõ cơ sở khoa học
trong việc xác định sức lao động là hàng hóa với điều kiện cụ thể của Việt Nam và đi đến
kết luận kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường thì sức lao động phải là hàng hóa.

- Mai Trung Hậu (1990), "Bàn về hàng hóa sức lao động", Giáo dục lý luận, (7),
tr.31, 33. Bài viết phân tích phạm trù hàng hóa sức lao động và khẳng định tính tất yếu
khách quan của hàng hóa sức lao động trong điều kiện của nền kinh tế thị trường.
Về thị trường lao động:
- Nguyễn Thị Lan Hương (2002), Thị trường lao động Việt Nam định hướng và
phát triển, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. Tác giả trình bày các luận cứ cơ bản định hướng

phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, sự hình thành và phát triển của thị trường lao
động, các giải pháp định hướng lao động của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010.
- Lê Xuân Bá - Nguyễn Thị Kim Dung - Trần Hữu Hân (2003), Một số vấn đề
phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. Làm rõ
một số vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn hoạt động của thị trường lao động ở nước
ta, xem xét thực chất của những thuận lợi, khó khăn, những cái được và chưa được trong
quá trình hình thành và vận hành của thị trường lao động. Góp phần định hướng và xác
định các giải pháp cần thiết đối với sự phát triển loại thị trường đặc biệt này trong thời gian
tới, cung cấp một số kiến nghị chính sách về sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, tăng
việc làm và thu nhập, ổn định xã hội, đảm bảo phát triển bền vững.
- Phạm Đức Chính (2006), Thị trường lao động, cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội dung phân tích những cơ sở lý luận của thị
trường lao động, về nguồn lao động, những yếu tố cấu thành và điều tiết thị trường lao
động, mối quan hệ giữa cung - cầu sức lao động và tiền lương trên cơ sở lý luận chung
về kinh nghiệm của nhiều nước. Từ đó tác giả đã trình bày sự vận dụng linh hoạt lý luận về
thị trường lao động vào điều kiện Việt Nam.
Vấn đề hàng hóa sức lao động, thị trường lao động cũng là đề tài nghiên cứu của
một số luận án, luận văn đã được bảo vệ. Cụ thể như: Đỗ Thị Xuân Phương (2000), Phát
triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm (qua thực tế ở Hà Nội), Luận án tiến sĩ
Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Bùi Thị Xuyến (2002), Vận dụng lý
luận hàng hóa sức lao động của C.Mác vào thực tiễn kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;

Vương Thanh Tú (2004), Thị trường lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu khác ít nhiều có bàn đến
vấn đề sức lao động và thị trường sức lao động ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên,
chưa có bài viết và công trình nào tập trung nghiên cứu lý luận hàng hoá sức lao động của
C.Mác như một đề tài khoa học gắn với việc phát triển thị trường lao động ở nước ta.
Mặt khác, do tư duy kinh tế đã được đổi mới nên một số quan niệm và một số giải

pháp đưa ra trước đây cũng ít nhiều không thật sự phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
mới cần được điều chỉnh, bổ sung theo yêu cầu của thực tiễn kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Vì vậy, luận văn muốn nghiên cứu, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của
C.Mác vào phát triển thị trường lao động ở nước ta như một đề tài chuyên sâu dưới góc độ
khoa học Kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu làm rõ tính khách quan, khoa học của lý luận hàng hoá - sức lao động
của C.Mác và việc phát triển thị trường lao động ở nước ta. Qua đó, phát hiện ra những
nhận thức còn hạn chế về lý luận hàng hoá sức lao động, đưa ra những quan điểm cơ bản,
các giải pháp trong quá trình tiếp tục nhận thức lý luận và vận dụng vào thực tiễn phát
triển thị trường lao động ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ một số vấn đề lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác và tất yếu khách quan
của việc tồn tại hàng hóa sức lao động trong nền kinh tế thị trường.
- Phân tích thực trạng việc vận dụng lý luận hàng hoá - sức lao động của C.Mác
trong việc phát triển thị trường lao động ở nước ta.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản trong việc phát triển thị trường lao
động ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Luận văn lấy lý luận hàng hoá - sức lao động của C.Mác và quá trình hình thành,
phát triển thị trường lao động của nước ta làm đối tượng nghiên cứu.
- Luận văn tập trung phân tích những nội dung cơ bản trong lý luận hàng hoá - sức
lao động của C.Mác và tính tất yếu khách quan của quá trình phát triển thị trường lao động
ở nước ta.
- Phân tích thực trạng việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động trong việc phát
triển thị trường lao động ở Việt Nam. Những số liệu chủ yếu và ví dụ minh họa từ thời kỳ
đổi mới đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở và định
hướng tư tưởng. Luận văn được trình bày trên những nguyên lý của khoa học kinh tế chính
trị Mác – Lênin, có tham khảo một số các lý thuyết của kinh tế học, kinh tế phát triển dựa
trên những quan điểm và đường lối đổi mới trong các văn kiện của Đại hội đại biểu Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau nhưng chủ
yếu là phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê đối chiếu, so sánh để nghiên
cứu và trình bày bản chất của vấn đề.
6. Những đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm về lý luận hàng hoá - sức lao động của C.Mác vào việc
phát triển thị trường lao động ở nước ta.
- Hệ thống hoá những nội dung cần thiết của lý luận hàng hoá - sức lao động của
C.Mác để vận dụng phát triển thị trường lao động ở nước ta.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản trong việc tiếp tục nhận thức và vận dụng lý luận
hàng hoá - sức lao động của C.Mác vào phát triển thị trường lao động Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm
3 chương, 8 tiết.

Chương 1
Lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

1.1. Lý luận chung về hàng hoá sức lao động của C.Mác
1.1.1. Điều kiện xuất hiện hàng hoá sức lao động
Theo C.Mác: "Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể
chất và tinh thần tồn tại trong mọi cơ thể, trong mọi con người đang sống và được người
đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [24, tr.251].

Như định nghĩa này của C.Mác thì sức lao động đã xuất hiện từ lâu, cùng với sự
xuất hiện của con người, từ khi con người biết tiến hành sản xuất để tạo ra tư liệu sinh hoạt
cho bản thân. Trải qua quá trình lâu dài, sức lao động ngày càng được hoàn thiện hơn, thể
hiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. ở mọi thời kỳ, mọi nơi có tiến hành sản
xuất đều có sự tồn tại của sức lao động. Nhưng sức lao động trở thành hàng hoá lại là đặc thù
của một thời kỳ phát triển lịch sử, "trạng thái của một xã hội trong đó người công nhân xuất
hiện trên thị trường hàng hoá làm người bán sức lao động của bản thân mình, bỏ cách rất xa
các trạng thái xã hội của thời kỳ nguyên thuỷ" [24, tr.266].
Nếu không kể tới thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ thì trong một thời gian dài, sức lao
động cùng với người có sức lao động bị cột chặt vào chủ nô và địa chủ phong kiến. Người
nô lệ thì bị áp đặt lao động cưỡng bức, bị đối xử như một công cụ biết nói và chịu sự chi
phối hoàn toàn về mọi mặt của chủ nô. Còn người nông dân tá điền, tuy không bị lệ thuộc
hoàn toàn vào địa chủ, nhưng họ lại không được quyền tự do di chuyển, lựa chọn chủ đất
làm thuê. Sức lao động trong thời kỳ phong kiến đã manh nha trở thành hàng hoá nhưng
lại bị chặn bởi sự bóc lột siêu kinh tế, dưới bạo lực của địa chủ phong kiến trấn áp. Người
lao động có sức lao động chỉ làm thuê cho một địa chủ và chịu sự áp đặt tiền công mà
không có quyền định giá cả của nó. Điều này đã làm cho sức lao động không phải được
thuê mua mà là bị áp bức cung cấp, nên sức lao động không thể trở thành hàng hoá được.
Quan hệ sản xuất phong kiến đã trở thành lực cản cho sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Lực lượng sản xuất càng phát triển càng làm cho xã hội phong kiến thêm bất ổn

định và quan hệ sản xuất phong kiến phải nhường chỗ cho quan hệ sản xuất mới, tiên tiến
hơn mà cơ sở cho sự ra đời của phương thức sản xuất đó chính là sản xuất hàng hoá giản
đơn đã được chuẩn bị sẵn chính trong lòng xã hội phong kiến. Sự phát triển của phân công
lao động xã hội đã làm cho kinh tế hàng hoá giản đơn phát triển nhanh hơn, chuyển sang
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mà nền tảng là chế độ lao động làm thuê và sự bóc lột sức lao
động của các ông chủ tư sản.
Dưới tác động của quy luật giá trị, những người sản xuất nhỏ, lạc hậu, sản xuất với
chi phí cao, sản phẩm ít phong phú đã không thể tồn tại được trong nền kinh tế hàng hoá
phát triển. Những người sử dụng kỹ thuật cao hơn, vớilượng hao phí lao động cần thiết ít

hơn nhưng vẫn bán hàng hoá theo giá cả thị trường sẽ trở nên giàu có. Lúc đó, những người
sản xuất bị phân hoá thành các nhà tư bản do tích tụ được một lượng vốn lớn và những người
vô sản do bị phá sản trong sản xuất và trở thành lao động làm thuê. Sự phân chia xã hội thành
những nhà tư bản và tầng lớp vô sản đã tạo ra một chế độ kinh tế mới mà nền tảng là chế độ
lao động làm thuê. Lúc này trên thị trường xuất hiện một loại hàng hoá đặc biệt là hàng hoá
sức lao động. Người bán là người lao động không có tư liệu sản xuất, còn người mua là nhà tư
bản có vốn liếng, tư liệu sản xuất trong tay. Quá trình mua bán hàng hoá sức lao động diễn ra
tạo điều kiện cho sức lao động kết hợp được với tư liệu sản xuất, tạo nên quá trình sản xuất.
C.Mác viết:
Sức lao động chỉ có thể xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá
khi nó được đưa ra thị trường và chỉ trong chừng mực nó được đưa ra thị trường,
hay được chính người chủ của nó, tức bản thân người có sức lao động đó đem
bán. Muốn cho người chủ sức lao động ấy có thể đem bán được nó với tư cách
là hàng hoá, thì người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó
người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể mình [24,
tr.251].
Như vậy, điều kiện đầu tiên để sức lao động trở thành hàng hoá là người chủ sở hữu
sức lao động phải được tự do chi phối năng lực lao động của mình. Với tư cách là một
người tự do có sức lao động, anh ta có quyền bán hoặc không bán sức lao động của mình,
có quyền thoả thuận giá cả với người mua, có quyền lựa chọn loại công việc mình thích,

thời gian cũng như điều kiện lao động khi ở trên thị trường. Với tư cách là người có sức
lao động, "anh ta và người chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với tư
cách là những người chủ hàng hoá bình đẳng với nhau, chỉ khác nhau ở chỗ một người thì
mua, còn người kia thì bán, và vì thế cả hai đều là người bình đẳng về mặt pháp lý" [24,
tr.251].
Tuy nhiên, được tự do về mặt thân thể không chưa đủ, mà người sở hữu sức lao
động còn phải là người không có hoặc không đủ tư liệu sản xuất, hay nói cách khác là
không có gì để đảm bảo cho nhu cầu sinh tồn của bản thân mình ngoài việc bán sức lao
động. Điều kiện thứ hai này cho thấy rằng, người có sức lao động được tự do về thân

thể, nếu có tư liệu sản xuất, họ sẽ tự sản xuất ra sản phẩm để mang đi bán chứ không
bán sức lao động như C.Mác đã nói:
Người chủ tiền phải tìm được người lao động tự do trên thị trường hàng
hoá, tự do theo hai nghĩa: theo nghĩa là một con người tự do, chi phối được sức
lao động của mình với tư cách là một hàng hoá, với mặt khác anh ta không còn
có một hàng hoá nào để bán, nói một cách khác là trần như nhộng, hoàn toàn
không có những vật cần thiết để thực hiện sức lao động của mình [24, tr.253].
Hai điều kiện trên thuộc về bản thân người sở hữu sức lao động, tạo ra cho họ
quyền tự định đoạt việc bán sức lao động của mình.
Điều kiện thứ ba để đảm bảo sức lao động là hàng hoá, đó là người lao động chỉ bán
sức lao động của mình trong một thời gian nhất định. Thời gian đó được người mua và
người bán hàng hoá sức lao động thoả thuận trên thị trường và được thể hiện trên hợp đồng
để nhằm đảm bảo tính pháp lý của nó. Như C.Mác đã nói:
Người sở hữu sức lao động bao giờ cũng chỉ bán sức lao động đó trong
một thời gian nhất định thôi, bởi vì anh ta bán đứt hẳn toàn bộ sức lao động ấy
trong một lần thì anh ta bán cả bản thân anh ta, và từ chỗ là một người tự do,
anh ta sẽ trở thành một người nô lệ, từ chỗ là một người chủ hàng hoá, anh ta sẽ
trở thành một hàng hoá. Với tư cách là một con người, anh ta phải thường xuyên
duy trì mối quan hệ đối với sức lao động của mình như là đối với vật sở hữu của
mình và vì vậy như là đối với một hàng hoá của bản thân mình. Điều đó chỉ có

thể thực hiện được trong chừng mực anh ta bao giờ cũng chỉ để cho người mua
sử dụng hoặc tiêu dùng sức lao động của mình một cách nhất thời, trong một
thời hạn nhất định thôi, do đó chỉ trong chừng mực là khi bán sức lao động, anh
ta vẫn không từ bỏ quyền sở hữu về sức lao động ấy [24, tr.251-252].
Điều kiện thứ tư là luôn tồn tại một lớp người sẵn sàng mua sức lao động trên thị
trường - đó là các nhà tư bản. Một loại hàng hoá đưa ra trên thị trường làm đối tượng cho
quá trình trao đổi thì cần phải có chủ thể và khách thể của quá trình trao đổi. Chủ thể của
việc bán sức lao động là người công nhân, còn khách thể là nhà tư bản. Quá trình trao đổi
giữa lao động sống với lao động vật hoá đã làm xuất hiện người lao động ở phía này và

nhà tư bản ở phía kia. Người công nhân cần có tư liệu sinh hoạt để đảm bảo sự sinh tồn
của mình nên bắt buộc phải bán sức lao động để thoả mãn điều đó.
Nhưng nhà tư bản - những người có tiền, có tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt thì họ
vẫn có đủ điều kiện để tự sản xuất ra và tiêu dùng tư liệu sinh hoạt mà không cần phụ
thuộc ai thì điều gì đã bắt họ xuất hiện trên thị trường với tư cách là người mua sức lao
động? Nhà tư bản cần mua sức lao động của người khác để làm tăng thêm số giá trị mà họ
đã chiếm được.
Việc người có tiền mua sức lao động và tư liệu sản xuất nhằm làm tăng thêm giá trị
chiếm được đó đã biến những người có tiền bình thường thành những người tư bản.
ở đây, sức lao động được mua không phải vì sự phục vụ của nó hay sản
phẩm của nó nhằm thoả mãn những nhu cầu cá nhân của người mua nó. Mục
đích của người mua là làm tăng thêm giá trị của tư bản, là sản xuất ra những
hàng hoá chứa đựng nhiều lao động hơn số hắn trả, và do đó chứa đựng một
phần giá trị mà hắn chẳng tốn kém gì nhưng vẫn được thực hiện khi bán hàng
hoá Sức lao động chỉ có thể bán được chừng nào nó bảo tồn được tư liệu sản
xuất với tư cách là tư bản, chừng nào nó tái sản xuất ra được giá trị của bản thân
nó với tư cách là tư bản, và cung cấp được một nguồn tư bản phụ thêm dưới
dạng lao động không công. Do đó, những điều kiện để bán sức lao động, dù có
thuận lợi nhiều hay ít cho người lao động, vẫn giả định sự cần thiết phải không

ngừng lắp lại việc bán sức lao động và việc tái sản xuất không ngừng mở rộng
những của cải với tư cách là tư bản [24, tr.872].
Điều này chứng tỏ rằng, tư bản chỉ phát sinh ở những nơi nào mà người chủ tư liệu
sản xuất và tư liệu sinh hoạt tìm thấy được người lao động tự do với tư cách là người bán
sức lao động của mình trên thị trường.
Với những điều kiện trên, sức lao động thật sự trở thành hàng hoá được mua bán
trên thị trường. Hai loại người rất khác nhau đã gặp và tiếp xúc với nhau, một bên là người
có tiền, có tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt cần mua sức lao động để làm tăng thêm giá
trị đã có, còn bên kia là những người lao động tự do bán sức lao động của bản thân mình.
1.1.2. Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động

Là một hàng hoá được mua bán trên thị trường, cho nên hàng hoá sức lao động
cũng có giá trị và giá trị sử dụng như những hàng hoá thông thường khác. Tuy nhiên, là
một hàng hoá đặc biệt, hàng hoá sức lao động có tính chất khác xa so với những hàng hoá
thông thường khác.
* Về giá trị sức lao động:
Giá trị sức lao động được quyết định bởi lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái
sản xuất ra sức lao động. Nhưng sức lao động là khả năng lao động, nên số thời gian lao
động cần thiết kết tinh trong nó chính là do giá trị của những tư liệu sinh hoạt mà người có
sức lao động ấy đã tiêu dùng tạo thành. Để duy trì, tái tạo sức lao động của mình, con
người đã sử dụng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định nên "giá trị của sức lao động là do
giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết của một người lao động trung bình quyết định"
[24, tr.732].
C.Mác cho rằng, sức lao động chỉ được sản xuất ra trong một con người đang sống.
Vì vậy, việc sản xuất ra sức lao động chỉ có thể xảy ra khi có sự tồn tại của con người đó,
hay chính là việc duy trì cuộc sống của con người đó. Những tư liệu sinh hoạt mà người có
sức lao động sử dụng hàng ngày cũng có một lượng giá trị nhất định và lượng giá trị đó trở
thành đại lượng quyết định giá trị của sức lao động. "Giá trị của sức lao động được quy thành
giá trị của một tổng số những tư liệu sinh hoạt nhất định. Vì vậy, giá trị ấy thay đổi cùng với
sự thay đổi của giá trị các tư liệu sinh hoạt đó, nghĩa là cùng với sự thay đổi đại lượng thời

gian lao động cần thiết để sản xuất ra chúng" [24, tr.258]. Điều này phụ thuộc vào trình độ
văn minh của mỗi nước trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Ngoài ra, quy mô của tư
liệu sinh hoạt cần thiết và phương thức thoả mãn những nhu cầu về tư liệu sinh hoạt cần
thiết đó lại phụ thuộc vào điều kiện sống và thói quen sinh hoạt của người lao động đó; do
đó, "việc quy định giá trị sức lao động bao hàm một yếu tố lịch sử và tinh thần. Nhưng, đối
với một nước nhất định và đối với một thời kỳ nhất định, thì tính trung bình, quy mô của
những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định" [24,
tr.256-257].
Người sở hữu sức lao động có thể chết đi và cần có người thay thế, nối dõi nên sức
lao động phải thường xuyên được thay thế bằng những sức lao động mới; điều này khẳng

định rằng trong tổng tư liệu sinh hoạt cần thiết cho việc tái sản xuất sức lao động phải bao
gồm cả những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho con cái của người lao động tồn tại và phát
triển.
Người lao động nào muốn "trở thành một sức lao động phát triển và đặc thù" [24,
tr.257] thì người đó phải có kiến thức, trình độ học vấn và những thói quen khéo léo trong
một ngành lao động nhất định. Điều này chỉ có được khi người lao động phải trải qua một
chương trình đào tạo nhất định với một chi phí cần thiết nào đó mà sức lao động bình
thường không cần đến. Những chi phí học tập, đào tạo này phải nhập vào tổng số những
chi phí dùng sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Đó là những chi phí làm tăng giá trị sức
lao động; giúp cho người lao động có ưu thế trên thị trường lao động.
Giá trị của mọi hàng hoá khác có xu hướng càng giảm càng tốt; nhưng giá trị của
hàng hoá sức lao động lại có giới hạn thấp nhất của nó; đó chính là "giá trị của cái khối
lượng hàng hoá mà hằng ngày thiếu nó thì kẻ mang sức lao động, tức con người, sẽ không
thể khôi phục lại quá trình sống của mình, tức là tạo thành giá trị của những tư liệu sinh
hoạt không thể thiếu được về mặt sinh lý" [24, tr.259]. Vượt mức giới hạn này, người lao
động sẽ có cuộc sống thấp và việc sử dụng sức lao động của người này sẽ bị ảnh hưởng và
giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động khó phát huy tốt được.
Cũng như các hàng hoá khác, người mua hàng hoá tuy phải thực hiện giá trị, nhưng
mục đích của họ là giá trị sử dụng của hàng hoá đó. Nhà tư bản cũng vậy, họ bỏ tiền ra mua

sức lao động chỉ vì hàng hoá này có giá trị sử dụng rất đặc biệt, thoả mãn sự thèm khát của nhà
tư bản và duy trì quan hệ sản xuất TBCN.
Người chủ tiền của chúng ta phải có được điều may mắn là phát hiện
được trong lĩnh vực lưu thông, tức là trên thị trường một thứ hàng hoá mà bản
thân giá trị sử dụng của nó được cái đặc tính độc đáo là một nguồn sinh ra giá trị
- một thứ hàng hoá mà khi tiêu dùng nó thật sự thì vật hoá được lao động, và do
đó sẽ tạo được giá trị [24, tr.250-251].
Chính giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động mới có tính chất đặc biệt như vậy, tạo ra
sự hấp dẫn kỳ lạ của lao động sống trong quá trình sản xuất.
* Về giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động:

Trên thị trường, người công nhân và nhà tư bản thoả thuận với nhau về giá cả sức
lao động cũng như những điều kiện của lao động. Bước ra ngoài thị trường sức lao động,
hay khỏi quá trình lưu thông thì sức lao động đã hoàn toàn là của nhà tư bản. Lúc này mới
chính là lúc giá trị sử dụng của sức lao động biểu hiện. C.Mác đã viết: "Giá trị của nó cũng
như giá trị của bất cứ hàng hoá nào khác, đã được quyết định trước khi nó đi vào lưu
thông , nhưng giá trị sử dụng của sức lao động thì chỉ bao hàm ở những biểu hiện sau này
của sức đó mà thôi" [24, tr.260].
Giá trị sử dụng của sức lao động là tính có ích của sức lao động thoả mãn nhu cầu
sản xuất của nhà tư bản. Nhà tư bản cần có sức lao động của người công nhân kết hợp với
tư liệu sản xuất của mình để tạo ra giá trị sử dụng, tạo ra các hàng hoá. Chính vì vậy, mà
tính có ích của sức lao động chỉ được thể hiện ra trong quá trình sản xuất. Người lao động
bán sức lao động bằng cách lao động sản xuất theo yêu cầu của người mua. Người mua
tiêu dùng sức lao động là nhằm sử dụng tính có ích của sức lao động. Đặc tính có ích của
sức lao động không chỉ là năng lực tạo ra các giá trị sử dụng mà "cái có ý nghĩa quyết định
là giá trị sử dụng đặc biệt của thứ hàng hoá đó, là cái đặc tính của nó làm một nguồn sinh
ra giá trị, hơn nữa lại sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó. Đó là sự
phục vụ đặc biệt mà nhà tư bản mong chờ ở nó" [24, tr.289-290].
Người mua bán sức lao động thực hiện giá trị trao đổi của sức lao động và nhượng
lại giá trị sử dụng của sức lao động đó. Anh ta không thể nhận được giá trị trao đổi mà lại

không chuyển nhượng giá trị sử dụng. Người mua đã phải trả giá trị hàng ngày của sức lao
động, vì vậy, việc tiêu dùng sức lao động ấy trong một ngày là thuộc quyền của anh ta; và
nhà tư bản biết được rằng "chi phí hằng ngày để duy trì sức lao động và sự tiêu phí sức lao
động ấy trong một ngày - đó là hai đại lượng hoàn toàn khác nhau. Đại lượng thứ nhất quyết
định giá trị trao đổi của nó, đại lượng thứ hai tạo thành giá trị sử dụng của nó" [24, tr.289].
Điều này cũng có nghĩa là giá trị của sức lao động và giá trị được tạo ra trong quá trình sử
dụng sức lao động là hai đại lượng khác nhau. Chính nhà tư bản đã nhằm vào sự chênh lệch
và giá trị đó khi mua sức lao động; và do đó mới chính là tính có ích thật sự của sức lao
động đối với nhà tư bản.
Tính có ích của sức lao động "chỉ thật sự được thực hiện, tức chỉ thật sự tạo ra một

giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó khi sức lao động phải hoạt động trong những điều kiện
bình thường"[24, tr.292-293], đó là các điều kiện:
Một là, bảo đảm tính chất bình thường của những yếu tố vật chất của lao động:
tư liệu lao động, nguyên nhiên vật liệu đạt trình độ phổ biến bình thường.
Hai là, bản thân sức lao động cũng phải là một sức lao động bình thường, nghĩa là
trong ngành chuyên môn mà sức lao động ấy được sử dụng, nó phải có một trình độ trung
bình về mặt tài nghệ, về mặt thành thục và về tốc độ. Điều này có nghĩa là muốn nâng cao
giá trị sử dụng của sức lao động thì phải cho người công nhân trải qua một thời gian được
đào tạo và huấn luyện chuyên môn nhất định.
Ba là, nguyên liệu và tư liệu lao động phải được tiêu dùng một cách hợp lý, nếu bị
tiêu phí một cách bất hợp lý thì chúng sẽ không được tính đến và không tham gia vào việc
hình thành giá trị sản phẩm.
Trong nền kinh tế hàng hoá, sức lao động được vận dụng chủ yếu để sản xuất ra
hàng hoá cho xã hội. Sức lao động chính là lao động sống sẽ làm hồi sinh lao động quá
khứ - lao động chết, để tạo ra một giá trị sử dụng mới, một hàng hoá mới. Việc kết hợp lao
động sống với lao động quá khứ sẽ tạo ra một giá trị mới cao hơn tổng giá trị của sức lao
động và tư liệu sản xuất đã kết hợp, mà nguồn gốc phần tăng thêm đó là từ lao động sống,
hay do giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động được bảo tồn và chuyển vào giá trị hàng
hoá mới. Giá trị của hàng hoá sức lao động đó được C.Mác gọi là phần tư bản khả biến

(V). Nhà tư bản dùng phần tư bản khả biến này để trả công cho người bán sức lao động.
Do vậy, quá trình giá trị hàng hoá sức lao động chuyển hoá thành tiền công luôn ẩn dấu
sau quá trình lao động, nên dễ tạo ra sự hiểu lầm tiền công là giá cả của lao động,
nhưng thật sự tiền công là giá cả của sức lao động.
1.1.3. Sự chuyển hoá giá trị sức lao động thành tiền công
* Tiền công là giá cả sức lao động chứ không phải giá cả lao động
Hàng hoá sức lao động có giá trị của nó, giá trị đó biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả
sức lao động, hay tiền công. Trong nền kinh tế hàng hoá, việc sức lao động trở thành hàng
hoá tạo điều kiện cho giá trị sức lao động chuyển hoá thành tiền công. Vì vậy, bản chất của
tiền công trong nền kinh tế hàng hoá không phải là giá cả của lao động mà "tiền công là

biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động, là giá cả của hàng hoá sức lao động"
[19, tr.171].
Trên bề mặt của xã hội TBCN, giá trị sức lao động được thể hiện ra thành tiền công
và được lầm hiểu rằng đó là "một số lượng tiền nhất định trả cho một số lượng lao động
nhất định" [24, tr.754]; nhưng thật ra, người công nhân không bán lao động mà bán sức lao
động. Sức lao động hay năng lực lao động "là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi
khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó"; còn lao động là "quá trình tiêu dùng sức lao
động là quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt
động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa
họ và tự nhiên" [24, tr.265-266]. Hai khái niệm này khác nhau, nhưng có mối quan hệ với
nhau. Vì lao động không thể trở thành hiện thực, nếu không có sức lao động và muốn sức
lao động được thực hiện thì phải có lao động. Lao động, đó là một quá trình tạo ra của cải
vật chất và tinh thần, cùng các loại dịch vụ. Quá trình này được bắt đầu sau khi sự giao
dịch trên thị trường hàng hoá sức lao động đã được ký kết, quan hệ thị trường kết thúc và
quá trình sản xuất được bắt đầu. Để trở thành hàng hoá thì đối tượng phải có sẵn trước khi
bán, nhưng đối với lao động thì lại không diễn ra như vậy. Khi bán thì hàng hoá sẽ chuyển
từ người bán sang người mua. Với lao động chúng ta cũng không thấy sự chuyển đổi này.

Vì vậy, quan điểm cho rằng, trên thị trường lao động được bán chính bản thân "lao động"
là không chính xác hay nói cách khác là không có cơ sở khoa học.
C.Mác hoàn toàn bác bỏ luận điệu cho rằng tiền công là giá cả của lao động. Bởi vì,
nếu nói như thế sẽ trở nên vô nghĩa, sẽ bị cuốn vào cái vòng luẩn quẩn, lao động sẽ là hàng
hoá. "Trong cách nói: "giá trị của lao động", khái niệm giá trị không những hoàn toàn mất
đi, mà còn biến thành cái đối lập với nó. Đó là một lời nói giả tưởng" [24, tr.757]. Sự giả
tưởng này thể hiện ở những điều vô lý như sau:
Một là, nếu tiền công là giá cả của lao động thì lao động phải là hàng hoá như mọi
hàng hoá khác phải có giá trị. Lượng giá trị của mọi hàng hoá là do lượng lao động chứa
đựng trong hàng hoá quy định. Vậy chẳng lẽ giá trị của lao động lại chính là lao động kết
tinh trong lao động. Đây là điều trùng lắp vô nghĩa. Thật ra, khi lao động được thừa nhận

là thước đo nội tại của giá trị thì bản thân lao động không có giá trị và do đó lao động
không là hàng hoá.
Hai là, tiền công là giá cả hàng hoá được thoả thuận giữa người mua và người bán
trên thị trường. Nếu hàng hoá được mua bán ở đây là lao động, thì lao động phải tồn tại
trước khi đưa ra thị trường để bán. Mà lao động là một quá trình kết hợp giữa sức lao động
với tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm, hay nói cách khác, lao động tạo ra sản phẩm, có
lao động thì có sản phẩm (lao động tạo ra phế phẩm là trường hợp cá biệt chứ không phải
là bản chất của sản xuất). Và như vậy, người lao động sẽ bán sản phẩm đó chứ không bán
lao động nữa, nên việc nói công nhân bán lao động là không hợp lý.
Ba là, nếu lao động là hàng hoá thì nó phải được trao đổi ngang giá, lúc này giá cả
lao động của công nhân sẽ bằng giá cả sản phẩm của anh ta. Khi nhà tư bản đem sản phẩm
do lao động của công nhân tạo ra trao đổi trên thị trường theo đúng nguyên tắc ngang giá
thì nhà tư bản sẽ không thu được chút giá trị thặng dư nào và sự tồn tại của nhà tư bản sẽ
chấm dứt.
Nếu nhà tư bản trao đổi không ngang giá để thu lợi nhuận thì nhà tư bản lại vi phạm
quy luật giá trị.

Những điểm mâu thuẫn này cho thấy lao động không phải là hàng hoá và công nhân
không bán lao động mà bán sức lao động. Sức lao động của công nhân là hàng hoá và giá
trị của hàng hoá sức lao động được thể hiện ra trên bề mặt xã hội dưới hình thức tiền công.
* Bản chất của tiền công bị che dấu bởi quá trình lao động:
Giá trị và giá cả sức lao động được biểu hiện ra bên ngoài thành tiền công. Nhưng
nhìn bề ngoài thì tiền công biểu hiện giá cả của lao động. Vậy, giá trị sức lao động quyết
định giá cả của lao động, giá cả của lao động chỉ là biểu hiện bất hợp lý của giá cả sức lao
động mà thôi.
Ngày lao động được chia làm hai phần: Thời gian lao động tất yếu và thời gian lao
động thặng dư. Trong đó, thời gian lao động tất yếu bù đắp lại giá trị của sức lao động đã
tiêu hao của người công nhân, còn thời gian lao động thặng dư mang lại giá trị thặng dư
cho nhà tư bản. Nhưng tiền công lại không thể hiện rõ điều này. Đúng ra với tư cách giá cả
sức lao động tiền công chỉ phụ thuộc vào độ dài thời gian lao động tất yếu, nhưng nhà tư

bản thuê công nhân làm việc trong suốt thời gian lao động, và với cách nhìn tiền công là
giá cả lao động thì tiền công lại không phụ thuộc vào giá trị bản thân sức lao động, hay
thời gian lao động một ngày. Chính vì vậy mà "tiền công đã xóa bỏ mọi vết tích phân chia
ngày lao động ra thành lao động cần thiết và lao động thặng dư thành lao động được trả
công và lao động không công. Toàn bộ lao động thể hiện ra như là lao động được trả công"
[24, tr.761]. Quan hệ tiền tệ đã che mất lao động không công của người công nhân làm
thuê. "Do bản chất của nó, tiền công đòi hỏi người lao động bao giờ cũng phải cung cấp
một số lượng lao động không công nhất định" [24, tr.872].
Sự chuyển hoá của giá trị sức lao động thành tiền công đã giúp tạo ra ảo tưởng về
quan hệ tự do, bình đẳng trong quan hệ mua - bán sức lao động giữa nhà tư bản và công
nhân. Thực tế đó là mối quan hệ bất bình đẳng giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê, vì
người công nhân đã tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân sức lao động của mình
khi được nhà tư bản sử dụng trong quá trình sản xuất.
Bản thân tiền công cũng có rất nhiều hình thức khác nhau, nhưng cơ bản vẫn là hình
thức tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo sản phẩm.

Theo C.Mác "sức lao động bao giờ cũng được bán trong một kỳ nhất định. Vì vậy,
cái hình thức chuyển hoá trong đó giá trị hàng ngày, hàng tuần của sức lao động trực tiếp
biểu hiện là hình thức tiền công tính theo thời gian" [24, tr.766]. Như vậy, tiền công tính
theo thời gian là sự biểu hiện bằng tiền giá trị của giá trị sức lao động theo ngày, tuần
Quy luật chung của tiền công theo thời gian là:
Nếu số lượng lao động hàng ngày hay hàng tuần, đã cho sẵn thì tiền
công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào giá cả sức lao động, bản thân giá
cả này lại biến đổi cùng với giá trị sức lao động hay cùng với những chênh lệch
của giá cả sức lao động so với giá trị của nó. Ngược lại, nếu giá cả lao động đã
cho sẵn, thì tiền công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào số lượng lao động
hàng ngày hay hàng tuần [24, tr.769].
Khi tiền công ngày hay tuần tăng thì giá cả sức lao động có thể không thay đổi về
danh nghĩa, tuy vậy, nó vẫn có thể tụt xuống dưới mức bình thường của nó. Điều này xảy
ra khi giá cả của giờ lao động không thay đổi, nhưng ngày lao động bị kéo dài quá mức

bình thường của nó. Giá cả sức lao động thấp trong khoảng thời gian gọi là bình thường đã
bắt buộc người công nhân; nếu muốn kiếm được một số tiền công nói chung tương đối đầy
đủ, thì phải làm thêm ngoài giờ để được trả công cao hơn. Sự hạn chế ngày lao động bằng
pháp luật đã giúp bảo vệ quyền lợi người lao động. Như vậy, có thể rút ra quy luật "với giá
cả sức lao động đã cho sẵn thì tiền công ngày hay tuần phụ thuộc và số lượng lao động đã
cung cấp và mức giá cả sức lao động thấp tác động như là yếu tố kích thích việc kéo dài
thời gian lao động" [24, tr.773].
Tiền công tính theo thời gian có quan hệ chặt chẽ với tiền công tính theo sản phẩm.
Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuẩn hoá của tiền công tính theo thời
gian; hình thức này càng làm cho người ta tin rằng "giá cả của lao động không phải do
phân số giữa giá trị hàng ngày của sức lao động và ngày lao động với một số giờ nhất định
quyết định mà là do năng lực công tác của người sản xuất quyết định" [24, tr.777].
Trên thực tế, tiền công tính theo sản phẩm không trực tiếp biểu hiện một quan hệ
giá trị nào cả. "Trong tiền công tính theo thời gian, lao động được trực tiếp đo bằng thời
gian dài ngắn của nó; còn trong tiền công tính theo sản phẩm thì lao động được đo theo số

lượng sản phẩm trong đó lao động đã ngưng động lại trong một khoảng thời gian nhất
định" [24, tr.780].
Tiền công theo sản phẩm đã giúp cho công việc quản lý trong nền sản xuất TBCN
càng hoàn thiện theo hướng có lợi cho nhà tư bản. Nó làm cho chất lượng của lao động
được kiểm tra bởi chính ngay sản phẩm của lao động. Tiền công tính theo sản phẩm là
thước đo hoàn toàn chính xác để đo cường độ lao động và năng suất lao động.
Tiền công theo sản phẩm tạo ra sự chênh lệch về thu nhập giữa công nhân với nhau
do có sự khác biệt về tài khéo léo, sức lực, nghị lực, sức dẻo dai; qua đó góp phần phát
triển cá tính, tinh thần tự do, tính độc lập và khả năng tự kiểm tra của người công nhân;
thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các công nhân với nhau. Điều này giúp cho việc quản lý trở
nên có hiệu quả hơn.
Tiền công là phạm trù phản ánh quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê.
Vì vậy, tiền công là một trong những căn cứ quan trọng để nhà tư bản và công nhân
làm thuê thoả thuận với nhau trên thị trường sức lao động.

1.1.4. Thị trường sức lao động
Theo C.Mác, "muốn cho người chủ tiền tìm được trên thị trường một sức lao động
với tư cách là hàng hoá thì một số những điều kiện khác nhau phải được thực hiện" [24,
tr.251]. Đó là:
Thứ nhất:
Muốn cho người chủ sức lao động ấy có thể bán được nó với tư cách là
hàng hoá, thì người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó,
người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình.
Anh ta và người chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với tư
cách là những người chủ hàng hoá bình đẳng với nhau, chỉ khác ở chỗ một
người thì mua, còn người kia thì bán, và vì thế cả hai đều là những người bình
đẳng về mặt pháp lý. Muốn duy trì mối quan hệ ấy, người sở hữu sức lao động
bao giờ cũng chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định thôi [24,
tr.251-252].

Thứ hai, "người chủ sức lao động phải không còn có khả năng bán những hàng hoá
trong đó lao động của anh ta được vật hoá, mà trái lại, anh ta buộc phải đem bán, với tư
cách là hàng hoá, chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại ở cơ thể sống của anh ta thôi"
[24, tr.252-253].
Theo sự phân tích của C.Mác, người lao động bán sức lao động cho nhà tư bản
nhưng không từ bỏ quyền sở hữu sức lao động của mình, chính vì vậy thực chất mối quan
hệ mua - bán hàng hoá sức lao động giữa nhà tư bản và công nhân là mua bán quyền sử dụng
sức lao động trong một thời gian nhất định. Nơi diễn ra quan hệ mua bán sức lao động này gọi
là thị trường sức lao động.
Như vậy là để chuyển hoá tiền thành tư bản, người chủ tiền phải tìm được
người lao động tự do ở trên thị trường hàng hoá Tại sao người lao động tự do
ấy lại đứng đối diện với người chủ tiền trong lĩnh vực lưu thông, vấn đề ấy
không làm bận tâm người chủ tiền là người đã tìm thấy thị trường lao động với
tính cách là một chi nhánh đặc biệt của thị trường hàng hoá [24, tr.253].
Thị trường sức lao động là nơi diễn ra quan hệ mua bán hàng hoá sức lao động giữa

người sử dụng lao động và người lao động, là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về hàng hoá sức
lao động. Sự biến động cung - cầu về hàng hoá sức lao động luôn gắn bó chặt chẽ với chu
kỳ phát triển công nghiệp, với qua trình hiện đại hoá nền kinh tế.
Trên thị trường sức lao động, trong điều kiện kết cấu của tư bản không thay đổi thì
lượng cầu về hàng hoá sức lao động tăng lên cùng với quá trình tích luỹ của tư bản. Khi tư
bản tăng lên thì cũng tăng thêm bộ phận cấu thành khả biến của nó, hay bộ phận được biến
thành sức lao động. Do vậy "lượng cầu về lao động và quỹ sinh hoạt của công nhân sẽ tăng
lên một cách tỷ lệ với tư bản, và tư bản tăng lên càng nhanh bao nhiêu thì lượng cầu đó
cũng càng tăng lên nhanh bấy nhiêu" [24, tr.864]. Nhà tư bản sản xuất ra giá trị thặng dư
và hằng năm giá trị thặng dư này được cộng vào tư bản đầu tư ban đầu làm tăng thêm số tư
bản hiện đang hoạt động. Khi nhà tư bản mở rộng đột ngột quy mô tích luỹ bằng cách chỉ
cần thay đổi sự phân chia giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư thành tư bản và thu nhập.
Vì vậy, nó đã làm cho "nhu cầu tích luỹ của tư bản có thể vượt quá sự tăng thêm của sức

lao động hay số công nhân, lượng cầu về công nhân có thể vượt quá lượng cung về công
nhân, và vì thế tiền công có thể tăng lên" [24, tr.864-865].
Mặt khác, khi
Tích luỹ yếu đi do giá cả lao động tăng lên. Tích luỹ giảm bớt. Nhưng
cùng với sự giảm bớt tích luỹ thì cái nguyên nhân làm giảm bớt tích luỹ, tức là
sự mất cân đối giữa tư bản với sức lao động có thể bóc lột được, cũng biến mất.
Như vậy, cơ chế của quá trình sản xuất TBCN tự nó gạt bỏ những trở ngại mà
nó tạm thời tạo ra. Giá cả lao động lại hạ xuống đến mức phù hợp với các nhu
cầu làm tăng thêm tư bản, mức này có thể thấp hơn, cao hơn hay ngang cái mức
đã được coi là bình thường trước khi tiền công tăng lên [24, tr.873].
Cùng với tiến trình tích luỹ của tư bản, tỷ số giữa bộ phận bất biến với bộ phận khả
biến của tư bản cũng thay đổi theo hướng bộ phận tư bản bất biến tăng tương đối còn bộ phận
tư bản khả biến giảm tương đối. Chính vì vậy mà cùng với sự tăng lên của tổng tư bản thì
lượng cầu về lao động - do bộ phận tư bản khả biến quyết định cũng dần giảm bớt đi chứ
không phải tăng thêm theo tỷ lệ với sự tăng thêm của tổng tư bản. Lượng cầu về lao động
giảm xuống một cách tương đối so với đại lượng của tổng tư bản và giảm xuống thêm một cấp

số ngày càng nhanh cùng với sự tăng lên của đại lượng ấy. Bởi do tư bản phụ thêm hình thành
trong tiến trình tích luỹ chủ yếu được dùng làm phương tiện cải tiến hơn về kỹ thuật cũng như
sự đổi mới của tư bản cũ khiến cho một khối lượng lao động ít hơn cũng đủ để vận dụng một
khối lượng máy móc và nguyên liệu lớn hơn.
Như vậy, một mặt số tư bản phụ thêm được hình thành trong quá trình tích luỹ ngày
càng thu hút ít người lao động hơn so với đại lượng của nó. Mặt khác, số tư bản cũ được
tái sản xuất ra một cách chu kỳ trong kết cấu mới, lại gạt bỏ một số ngày càng nhiều những
người lao động mà trước đó nó đã dùng.
Có thể thấy, quá trình tích luỹ tư bản, một mặt làm tăng thêm lượng cầu về lao
động, mặt khác lại làm tăng thêm lượng cung về công nhân bằng cách "giải phóng" công
nhân, trong khi đó sức ép của những công nhân không có việc làm lại buộc những người
có việc làm bỏ ra nhiều lao động hơn, và như vậy làm cho lượng cung về lao động độc lập
đến một mức độ nhất định đối với lượng cung về công nhân.

Trên thị trường sức lao động, chứa đựng quan hệ cạnh tranh giữa công nhân với
công nhân và giữa công nhân với nhà tư bản.
Nếu một công nhân làm việc gấp rưỡi hoặc gấp hai lần so với bình thường, thì
số cung về lao động tăng lên mặc dù số cung về sức lao động trên thị trường không
tăng, tức lượng cầu về sức lao động của nhà tư bản không thay đổi. Lúc đó, do lao
động quá mức của bộ phận có việc làm trong giai cấp công nhân làm tăng thêm hàng
ngũ của đội quân trừ bị của giai cấp ấy, trong khi đó thì ngược lại, áp lực mạnh mẽ
gấp bội có sự cạnh tranh của đội quan trừ bị này đối với công nhân có việc làm lại
buộc họ phải lao động quá mức và phục tùng mệnh lệnh của tư bản. Việc buộc một
bộ phận này của giai cấp công nhân phải ăn không ngồi rồi vì có một bộ phận khác
lao động quá mức và ngược lại, đã trở thành một thủ đoạn làm giàu của các nhà tư
bản cá biệt và đồng thời thúc đẩy nhanh việc sản xuất ra đội quân thất nghiệp trừ bị
theo một quy mô tương ứng với sự tiến triển của tích luỹ xã hội [24, tr.900].
Sự vận động của quy luật cung cầu về lao động trên cơ sở đó làm cho sự
chuyên chế của tư bản trở nên hoàn chỉnh. Vì vậy, khi công nhân phát hiện được
cái điều bí ẩn là tại sao họ càng làm lụng nhiều, càng sản xuất ra nhiều của cải cho

người khác và sức sản xuất của lao động của họ càng tăng lên, thì chức năng làm
phương tiện để tăng tư bản lại càng trở nên bấp bênh hơn đối với họ, và khi họ
khám phá ra rằng mức gay gắt của sự cạnh tranh giữa bản thân họ với nhau hoàn
toàn lệ thuộc vào sức ép của số nhân khẩu thừa tương đối thì họ đã thông qua công
đoàn để tìm cách tổ chức những hành động chung có kế hoạch giữa những người
có việc làm và những người không có việc làm, nhằm xoá bỏ hay giảm nhẹ hậu quả
tai hại của quy luật tự nhiên đó của nền sản xuất TBCN đối với giai cấp họ [24,
tr.900-902].
Sự cạnh tranh như thế giữa công nhân với nhau "khiến cho nhà tư bản có thể giảm
giá cả sức lao động xuống, điều này giúp cho nhà tư bản có thể kéo dài thời gian lao động
hơn nữa" [24, tr.774]. Nhưng chẳng bao lâu, khả năng sử dụng số lượng lao động không
công bất bình thường, tức là vượt quá mức trung bình xã hội sẽ trở thành công cụ cạnh
tranh giữa chính các nhà tư bản với nhau. Để giải quyết được sự cạnh tranh này, giai cấp tư

sản đã cần đến quyền lực nhà nước, và thật sự dùng quyền lực của nhà nước để "điều hoà"
tiền công, nghĩa là bắt buộc tiền công phải ở trong giới hạn thích hợp cho việc bòn rút giá
trị thặng dư, để kéo dài ngày lao động và duy trì bản thân người công nhân ở một mức độ
lệ thuộc bình thường vào tư bản [24, tr.1026].
Thực tiễn cho thấy, các quan hệ mua và bán trên thị trường là dựa trên sự tự do của
hai bên, của người lao động cũng như người sử dụng lao động, dựa trên quan hệ tự do vì
nếu không thì không có quan hệ thị trường. Nhưng nếu nhìn nhận về thực chất quan hệ
giữa công nhân và nhà tư bản lại chứa đựng quan hệ bóc lột. Trong nền kinh tế thị trường
vẫn tồn tại khách quan hàng hoá sức lao động và người lao động vẫn bị bóc lột lao động
thặng dư.
1.2. Sự tồn tại khách quan của hàng hoá sức lao động trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường là sản phẩm của sự phát triển xã hội loài người, nó là hình thức
phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Nếu kinh tế hàng hoá giản đơn chỉ dừng lại ở sự trao
đổi thì kinh tế thị trường đã có những bước tiến vượt bậc về bản chất. Kinh tế thị trường
thực hiện phân bổ các nguồn lực của xã hội thông qua cơ chế thị trường được chi phối bởi

các quy luật cơ bản là quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Các quan
hệ mang tính áp đặt, cống nạp, cưỡng đoạt của kinh tế tự nhiên đã được thay bằng quan hệ
thị trường ngang giá, trao đổi hàng hoá - tiền tệ. Lực lượng sản xuất phát triển được hỗ trợ
bởi một hệ thống các thể chế thị trường nhằm đảm bảo cho nền kinh tế vận hành một cách
có hiệu quả nhất.
Kinh tế thị trường là một sự phát triển mang tính tất yếu. Sự hiện diện của kinh tế
thị trường tại tất cả các quốc gia trên thế giới cho thấy kinh tế thị trường có sức sống mãnh
liệt và là bước phát triển tự nhiên mang tính quy luật trong lịch sử nhân loại. Từ những
mầm mống phát sinh trong nền kinh tế phong kiến, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã
phá vỡ những kết cấu phong kiến; thúc đẩy tự do hoá kinh tế và thiết lập vững chắc quan
hệ hàng hoá - tiền tệ. Tích luỹ tư bản, quá trình công nghiệp hoá đã biến mọi yếu tố của
sản xuất thành hàng hoá.

Sức lao động là yếu tố cơ bản trong quá trình sản xuất xã hội, vì vậy ở bất kỳ xã hội
nào cũng đều tồn tại sức lao động chứ không phụ thuộc vào giai đoạn hay trình độ phát
triển của xã hội đó. Nhưng chỉ trong những điều kiện nhất định thì sức lao động mới trở
thành hàng hoá và được mua bán trên thị trường như những hàng hoá khác. Như C.Mác đã
khẳng định: Sức lao động trở thành hàng hoá khi người lao động được tự do về thân thể và
không có tư liệu sản xuất. Điều này hoàn toàn đúng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, lúc đó sức lao động của những người làm thuê đều đã trở thành hàng hoá. Tiền
công nói chung cũng như tiền lương nói riêng chẳng phải gì khác hơn là giá cả sức lao
động. Với tư cách là giá cả sức lao động cũng như các loại giá khác về nguyên tắc tiền
công hay tiền lương phải phản ánh giá trị sức lao động và được hình thành trên thị trường,
chủ yếu do tương quan cung cầu sức lao động trên thị trường quyết định.
Như vậy, xuất phát từ cả hai phía: lợi ích của người lao động và lợi ích của xã hội
mà thị trường sức lao động hình thành và phát triển. Thừa nhận sức lao động là hàng hoá là
một tất yếu theo xu hướng vận động khách quan của nền kinh tế hàng hoá.
Dưới chế độ XHCN, sức lao động là hàng hoá cũng là tất yếu khách quan, bởi lẽ
tính chất đặc trưng của sức lao động trong điều kiện CNXH chủ yếu bắt nguồn từ lý luận
CNCS khoa học của C.Mác, quan hệ lao động mà C.Mác trình bày dựa trên cơ sở lý luận

của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất xã hội đơn nhất. Với C.Mác, ở xã hội CSCN, chế
độ công hữu xã hội đã thay thế chế độ tư hữu, đã thực hiện sự kết hợp trực tiếp giữa người
lao động và tư liệu sản xuất, người lao động đã trở thành người chủ của tư liệu sản xuất,
cũng đã triệt tiêu điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá, tức là sức lao động không
còn là hàng hoá nữa. Nhưng thực tiễn lịch sử chứng tỏ, ở xã hội XHCN, đặc biệt là ở giai
đoạn đầu của CNXH, việc thiết lập chế độ công hữu XHCN không xoá bỏ điều kiện để sức
lao động trở thành hàng hoá, điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá vẫn tồn tại.
Trước hết, trong điều kiện giai đoạn đầu của CNXH, sức lao động vẫn thuộc sở hữu cá
nhân, lao động vẫn là biện pháp mưu sinh. Người lao động tự chi phối sức lao động của
mình, người lao động vẫn dựa vào quyền sở hữu sức lao động để được tư liệu sinh hoạt;
mặt khác, ngoài người sản xuất nhỏ ra, giữa người lao động và tư liệu sản xuất không thể
thực hiện được sự kết hợp trực tiếp. Trong điều kiện chế độ công hữu XHCN, tư liệu sản

xuất tuỳ thuộc người lao động sở hữu, nhưng nó thuộc cả chỉnh thể người lao động sở hữu,
bất cứ cá nhân người lao động nào cũng đều không thể tự nhiên trực tiếp chiếm hữu tư liệu
sản xuất và kết hợp với nó được. Trong điều kiện chế độ phi công hữu về tư liệu sản xuất,
ngoài người sản xuất nhỏ ra, người lao động càng không có quyền trực tiếp chiếm hữu tư
liệu sản xuất của người khác. Cho nên, giai đoạn đầu của CNXH, nhìn từ chỉnh thể, người
lao động quả thực là người chủ của tư liệu sản xuất. Nhưng nhìn từ cá thể, đại bộ phận
người lao động chỉ có cung cấp sức lao động cho xã hội, tức bán sức lao động, mới có thể
nhận được tư liệu sinh hoạt, mới có thể duy trì sinh tồn.
Cũng theo quan điểm của C.Mác, tiến trình phát triển của lịch sử tuân theo các nấc
thang: từ kinh tế tự cung tự cấp đến kinh tế hàng hoá và cuối cùng là kinh tế sản phẩm.
Đỉnh cao của kinh tế hàng hoá nằm trong phương thức sản xuất TBCN. Trong suốt thời kỳ
quá độ phải trải qua nhiều nấc thang quá độ, nhiều giai đoạn quá độ. Đây cũng là những
giai đoạn vừa mới "thoát thai" từ xã hội cũ, xã hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó
nên mọi phương diện đạo đức, tinh thần, kinh tế còn mang "dấu ấn" của xã hội cũ, của
"pháp quyền tư sản". Nếu hiểu theo đúng quan điểm này thì chúng ta hoàn toàn không có
căn cứ nào để nói rằng CNXH không còn sản xuất hàng hoá. "Sản xuất hàng hoá không đối
lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần

thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng" [35, tr.7]. Như
vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì lẽ tất nhiên sức lao động vẫn là
hàng hoá, đó là sự thật không có cách nào phủ nhận được.
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hàng hoá sức lao động tồn tại trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải được nhìn nhận một cách khách quan, đúng
quy luật vận động của nó, bởi lẽ:
- Quá trình vận động của kinh tế hàng hoá dù muốn hay không thì các yếu tố của
quá trình sản xuất và lưu thông cũng đều chịu sự chi phối của quy luật sản xuất và lưu
thông hàng hoá (quy luật giá trị, giá cả, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh ). Khi cầu
về sức lao động xuất hiện thì "tín hiệu" đó sẽ được phát ra trên thị trường và tất nhiên sẽ có
cung sức lao động đáp ứng. Cung - cầu sức lao động gặp nhau trên thị trường thì hành vi

×