Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Báo cáo: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.14 KB, 32 trang )

THÀNH VIÊN NHÓM 16

1. PHẠM THỊ CHÂU
2.NGUYỄN PHƯƠNG ANH
3. TRƯƠNG THỊ ÁI
4. BÙI HỒNG DIỄM
5. TRẦN THỊ KIM HỒNG
6. VŨ THỊ KIM HUỆ
7. TRẦN THỊ THANH NHÀN
8. ĐỖ THỊ THỦY
9. NGUYỄN THANH LIỀN
10. ĐỖ MỘNG TRINH
11. NGUYỄN THỊ XUÂN
12. LÊ THỊ NGỌC PHƯỢNG
13. NGUYỄN KIM NỮ NHUNG HUYỀN

Câu 16:
Căn cứ vào đâu mà đại hội lần VI của Đảng đã chủ trương tiến hành đổi mới
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.


LỜI MỞ ĐẦU
Hơn 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mơ hình kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được
nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước.
Thế và lực của Việt Nam được tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao.
Nước ta khơng cịn là một nước nông nghiệp lạc hậu kém phát triển, từ quan
liêu bao cấp đã trở thành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chuyển sang vận hành theo cơ chế mới từ
Đại hội VI (1986). Sự kiện đánh dấu bước chuyển này là việc khẳng định


đường lối đổi mới kinh tế của Việt Nam: “Phát triển nền kinh tế hàng hố
có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội”, coi chính
sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược, lâu dài, có tính quy luật
từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đã thay đổi cơ bản phương thức phát triển của đất nước, mở đầu
cho hàng loạt những đổi mới toàn diện sau này trên tất cả các lĩnh vực nông
nghiệp, cơng nghiệp, văn hố, xã hội …
Bài tiểu luận này chúng em xin nêu những nội dung cơ bản của Đảng ta
về chủ trương đổi mới phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.


I. KHÁI NIỆM CƠ CẤU KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN
VÀ KINH TẾ HÀNG HÓA:
1. Khái niệm cơ cấu kinh tế nhiều thành phần:
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận của nền kinh tế quốc dân, được
sắp xếp theo một tương quan tỉ lệ nào đó.
Thành phần kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân xét về mặt
quan hệ sản xuất với hình thức sở hữu và quan hệ sở hữu đặc trưng, với trình
độ nhất định về lực lượng sản xuất.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là tổng thể các thành phần kinh tế, được
sắp xếp theo một tương quan hợp lí nhằm mục tiêu phát triển lực lượng sản
xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.
2. Khái niệm kinh tế hàng hóa:
Là mơ hình kinh tế dựa trên quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hóa.


II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ Ở VIỆT
NAM TRƯỚC 1986:
Xét một cách tổng thể, từ năm 1955 đến 1985, nền kinh tế nước ta đã trải
qua nhiều thời kì phát triển khác nhau. Căn cứ vào đặc trưng của mỗi thời kì

có thể phân chia sự phát triển và biến đổi nền kinh tế ở nước ta qua 3 thời kì
khác nhau:
- Từ 1955 đến 1964
- Từ 1965 đến 1975
- Từ 1976 đến 1985
1. Thời kì 1955 – 1964:
a) Hoàn cảnh lịch sử:
Đất nước bị chia cắt: Miền Nam chịu ách thống trị của đế quốc Mỹ. Miền
Bắc: tiến hành xã hội chủ nghĩa.
b) Mục tiêu kinh tế:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III xác định là: xây dựng đời sống ấm
no hạnh phúc ở Miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho
cuộc đấu tranh thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà.
c) Thành tựu:
Phát triển nhanh về các lĩnh vực kinh tế và xã hội, cơ sở vật chất trong
công nghiệp, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng được xây dựng. Tốc độ phát triển


kinh tế cao, giáo dục, y tế phát triển khá nhanh, xã hội miền Bắc xã hội do
những người lao động làm chủ, đời sống tinh thần lành mạnh.
Miền Bắc trở thành hậu phương lớn, căn cứ địa vững chắc để nhân dân cả
nước có thể đánh thắng đế quốc Mĩ.
2. Thời kì 1965 – 1975:
a) Hồn cảnh lịch sử:
Đây là thời kì cả nước có chiến tranh, trực tiếp chống Mĩ cứu nước.
Nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và
tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế, tăng cường lực lượng quốc phịng
cho phù hợp với tình hình mới.
b) Mơ hình kinh tế:
Là mơ hình có tính tập trung cao với những đặc điểm chủ yếu là:

Nhà nước quản lí nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp
hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và
các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư,
tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, tiền lương, nhân sự… đều do các
cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn,
vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp nộp các sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ
thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất
và pháp lí đối quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định


khơng đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp
khơng có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh.
Quan hệ hàng hoá – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật
chủ yếu. Nhà nước quản lí kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Vì
vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư
liệu sản xuất quan trọng, khơng được coi là hàng hóa về mặt pháp lí.
Bộ máy quản lí cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa
sinh ra đội ngũ quản lí kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan lieu, nhưng
lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.

Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu:
-

Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết

bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với

giá trị thị trường. Do đó, hạch tốn kinh tế chỉ là hình thức
-

Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ

phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, cơng nhân viên, theo định
mức hình thức tem phiếu.
-

Bao cấp theo chế độ phát vốn của ngân sách, nhưng khơng

có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp
vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho
sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin – cho”.
Mơ hình này q đề cao vai trị của một thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa dưới hai hình thức: Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, cịn các thành
phần kinh tế khác bằng những chính sách, biện pháp hành chính, áp đặt nóng


vội để đẩy nhanh tiến độ cả tạo xã hội chủ nghĩa đối với chúng, với mục tiêu
chính khơng phải là để huy động, phát triển, mà là hạn chế, thu hẹp, thậm chí
xố bỏ các thành phần kinh tế.
c) Kết quả, hạn chế:
Trong một thời gian, mơ hình kinh tế này đã từng phát huy tác dụng tích
cực trong việc thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố theo kiểu cổ điển, tập
trung được các nguồn lực, sức người, sức của đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nước, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhưng càng về sau mơ hình này càng bộc lộ những khiếm khuyết: các
nhu cầu của xã hội vượt quá khả năng đáp ứng của một nền kinh tế kém hiệu
quả, thiếu năng động do thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu;

cơng tác, chỉ đạo, quản lí cũng phạm phải một số sai lầm.
d) Chủ trương cải cách:
Đảng và Nhà nước ta đã dần dần thấy ra được những nhược điểm của mơ
hình kinh tế đó và đã bắt đầu có chủ trương cải tiến một phần cơ chế quản lí
kinh tế.
Thí dụ:
- Hội nghị lần thứ 20 Ban chấp hành Trung ương khóa III (tháng 4-1972)
bàn về quản lí kinh tế đã thấy rõ sức cản của cơ chế quản lí hành chính cung
cấp và chủ trương chuyển sang thực hiện phương thức kinh doanh xã hội chủ
nghĩa.
- Hội nghị lần tháy 24 Ban chấp hành Trung ương khóa III (tháng 9 –
1975) đã đề cập đến vấn đề duy trì nền kinh tế nhiều thành phần ở miền Nam


trong một thời gian nhất định, ra sức sử dụng mọi khả năng lao động kĩ thuật,
tiền vốn, kinh nghiệm quản lí để đẩy mạnh sản xuất.
3. Thời kì 1976 – 1985:
a) Hồn cảnh đất nước:
Đây là thời kì cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất
nước gánh chịu những đảo lộn kinh tế và xã hội với quy mô lớn sau cuộc
chiến tranh ác liệt lâu dài.
Nước ta có những thuận lợi và khó khăn:
- Thuận lợi:
Cả nước được hịa bình và đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện phát huy
tìm năng của đất nước, nhân dân phấn khởi tập trung xây dựng đất nước.
- Khó khăn:
Điểm xuất phát của cả nước ở trình độ rất thấp: nền sản xuất nhỏ, manh
mún, cơ sở vật chất kĩ thuật nghèo nàn, quan hệ sản xuất lạc hậu.
Hậu quả của 30 năm chiến tranh kéo dài tàn phá đất nước nặng nề. Riêng
miền Nam 21 năm sống dưới ách chủ nghĩa thực dân kiểu mới, nạn thất

nghiệp, các tệ nạn xã hội tràn lan, hậu quả của chủ nghĩa thực dân mới về văn
hóa, tư tưởng, di sản đã tạo nên tình hình căng thẳng ở miền Nam.
Mỹ thực hiện kế hoạch “hậu chiến” chống phá Việt Nam: bao vây cấm
vận, sử dụng bọn tay sai gây bạo loạn.
Sau giải phóng miền Nam ta chưa đánh giá hết những khó khăn, cịn lạc
quan với chiến thắng của đế quốc Mĩ xâm lược và tay sai.


Đảng và nhân dân ta lại phải tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hai
đầu biên giới: chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía
Bắc.
Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khó khăn, trì trệ, yêu cầu khách quan
phải cải tổ, cải cách.
b) Sức ép từ phía quốc tế với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam:
Chính phủ Mĩ thi hành chính sách cấm vận kinh tế đối với Việt Nam
nhằm đặt nền kinh tế Việt Nam vào thế cô lập, suy yếu và dẫn đến sụp đổ.
Khi Việt Nam lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội thì Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và nhiều nước trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa trên thế giới cũng lâm vào tình cảnh tương tự
Do khủng hoảng kinh tế, các nước xã hội chủ nghĩa cũng không thể triển
khai kế hoạch hợp tác kinh tế với Việt Nam một các bình thường. Do đó, viện
trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa – nguồn lực phát trỉển hết sức quan trọng đối
với Việt Nam – bị suy giảm; hoạt động thương mại của Việt Nam đối với khu
vực thị trường truyền thống, thị trường quan trọng hàng đầu cũng bị suy giảm
mạnh, làm trầm trọng thêm những mất cân đối lớn vốn có của nền kinh tế.
Trong khi đó, Trung quốc đã thành cơng trong việc “cải cách, mở cửa”
vào năm 1978 nền kinh tế theo định hướng thị trường nhưng vẫn giữ được con
đường xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế Trung Quốc có sự tăng trưởng phát
triển nhanh.
Hơn thế, trên thế giới cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật đang diễn ra

với quy mơ lớn chưa từng có,đem lại cho lồi người những thành tựu vô cùng
to lớn. Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật, nhiều nước


trên thế giới thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, mở cửa nền kinh tế và phát triển
kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước.
c) Sai lầm, khuyến điểm trong hoạt động của Đảng, Nhà nước:
Sản xuất tăng chậm so với khả năng, yêu cầu vốn có của nền kinh tế, hiệu
quả sản xuất, đầu tư thấp, năng xuất lao độn giảm, chất lượng sản phẩm sút
kém. Những mất cân đối lớn của nền kinh tế chậm được thu hẹp, có mặt cịn
gay gắt hơn trước. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố, vai
trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh yếu, các thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa chưa được cải tạo và sử dụng tốt.
Đời sống nhân dân, nhất là cơng nhân viên chức cịn nhiều khó khăn.
Nhiều người lao động chưa có việc làm, nhiều nhu cầu tối thiểu của người dân
chưa được đảm bảo. Hiện tượng tiêu cực phát triển, công bằng bị vi phạm,
pháp luật, kỉ cương không nghiêm;lộng quyền, tham nhũng, những hoạt động
phi pháp chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời.
Thực trạng trên làm giảm lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo
của Đảng và của các cơ quan Nhà nước.
d) Quá trình hình thành đường lối đổi mới 1976 – 1986:
* Giai đoạn 1976 – 1981:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (tháng 12 – 1976) đã đề ra đường
lối chung với những nội dung chủ yếu: xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ
nghĩa ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển
nơng nghiệp và cơng nghiệp nhẹ, xây dựng kinh tế Trung ương và phát triển
kinh tế địa phương, kết hợp lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan


hệ sản xuất mới; xây dựng chế độ mới: chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ

nghĩa; xây dựng nền văn hóa mới; xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Từ những đường lối chung đó, Đại hội đã đề ra những chỉ tiêu cụ thể cho
kế hoạch 5 năm (1976 – 1980):
Ở miền Nam tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa nơng dân vào tập
địan sản xuất, hợp tác xã. Đến 1979, các tỉnh miền Nam đã căn bản hồn
thành việc đưa nơng dân vào con đường làm ăn tập thể dưới hai hình thức tập
đoàn sản xuất và hợp tác xã. Tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư
nhân đạt kết quả.
Ở miền Bắc chủ trương đưa các hợp tác xã lên quy mơ lớn và tập trung.
Tồn miền Bắc năm 1979 có 4.154 hợp tác xã có quy mơ tồn xã. Nhưng các
mơ hình này khơng mang lại hiệu quả.
Tháng 3 – 1977, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã quyết định trong hai
năm 1977 – 1978 hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với công thương nghiệp tư bản tư doanh, trước hết là xóa bỏ thương nghiệp tư
bản chủ nghĩa. Đối với nơng nghiệp Nam bộ, áp dụng mơ hình tập thể hóa ở
miền Bắc, không phù hợp với đặc điểm của một nền nơng nghiệp đã bước đầu
sản xuất hàng hóa. Kết quả là chẳng những không thúc đẩy được sản xuất ở
Nam bộ phát triển mà lại kiềm hãm nông nghiệp phát triển theo hướng sản
xuất hàng hóa. Nền nơng nghiệp cả nước lâm vào tình trạng khủng hoảng.
Năm 1978, thống nhất tiền tệ trong cả nước.
Trong những năm 1976 – 1978, xuất hiện “Khốn chui” trong nơng
nghiệp ở Đồ Sơn (Hải Phịng) với hình thức giao ruộng đất cho nơng dân sản
xuất và có hiệu quả. Thành ủy cho triển khai khốn trong tồn Hải Phịng. Đây
là dấu hiệu của các làm ăn mới.


Kết quả:
Nhìn chung kinh tế phát triển chậm, giá cả mỗi năm tăng 2%, lạm phát ba
con số. Tổng sản phẩm xã hội tăng 1,4%/năm, thu nhập quốc dân tăng 4%
trong khi số dân tăng 2,24%/năm, thiên tai dồn dập, đất nước thật sự lâm vào

khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Khắc phục:
Trước thực tế đó, địi hỏi tồn Đảng, tồn dân ta phải tìm ra con đường
đổi mới đất nước.
Tháng 8 – 1979, Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) họp bàn những vấn đề
cấp bách về kinh tế - xã hội và vấn đề hàng tiêu dùng. Hội nghị khẳng định sự
cần thiết phải tồn tại thị trường tự do, khuyến khích san xuất “bung ra” định
hướng, khắc phục những khuyến điểm trong quản lí kinh tế, trong cải tạo xã
hội chủ nghĩa đề ra chủ trương phù hợp với lực lượng sản xuất.
Thực hiện nghị quyết hội nghị lần thứ 6 của ban chấp hành trung ương
khoá IV, tháng 9 – 1979 chinh phủ ra quyết định tận dụng đất nông nghiệp,
qui định rõ mức được hưởng đối với tập thể và người lao động có cơng tận
dụng đất hoang hoá. Tháng 10 – 1979, hội đồng chính phủ cơng bố quyết định
xóa bỏ các trạm kiểm sốt để người sản xuất được tự do lưu thơng hàng hóa
ngồi thị trường, khơng phải nộp thuế sau khi làm tròn nghĩa vụ đầy đủ đối
với nhà nước. Nhà nước tăng mức đầu tư cho nông nghiệp về phân bón,
giống, cơ khí. Năm 1979, sản lượng lương thực tăng 1.718.500 tấn so với năm
1978. Tiểu thủ công nghiệp được chú trọng và phát triển.
Trước tình hình khó khăn và trì trệ của sản xuất nơng nghiệp, nhiều địa
phương (như Hải Phịng, Vĩnh Phú, Nghệ An) đã mạnh dạn tìm cách tháo gỡ:
khoán việc cho các hội xã viên nhưng bề ngồi vẫn giữ mơ hình tập thể


(khoán chui) . Căn cứ vào kết quả thực tế, ban bí thư trung ương Đảng cho
phép các địa phương mở rộng khốn sản phẩm và khốn việc.
Trong cơng nghiệp, chính phủ chủ trương phát huy quyền chủ động sản
xuất kinh doanh và quyền tự chủ về nền kinh tế của các xí nghiệp quốc doanh.
Mở rộng hình thức trả lương khốn, lương thực phẩm. Góp phần làm giảm
tình trạng trì trệ trong sản xuất của doanh nghiệp nhà nước.
* Giai đoạn 1982 – 1985:

Đại hội Đảng lần thứ 5 chủ trương tiếp tục tìm tịi cơ chế quản lí mới cho
thích hợp, xố bỏ cơ chế cũ, điều chỉnh lại cơ cấu, qui mô, tốc độ và các bước
đi của cơng nghiệp hóa.
Kết quả:
Tình hình kinh tế xã hội có nhiều chuyển biến nhất định: Nơng nghiệp
trong thời kì 1981 – 1985 tăng 4.5%. Sản lượng lương thực tăng đều trong 5
năm, từ 15 triệu tấn lên 18.2 triệu tấn, tốc độ bình qn của cơng nghiệp trong
các năm 1981 – 1985 là 9.5%.
Cuối năm 1984 đầu năm 1985, Long An đi đầu về xóa bỏ bao cấp trong
sản xuất, khuyết khích các đơn vị tự chủ trong sản xuất, bỏ tem phiếu, xóa bỏ
các bất hợp lí trong cung - cầu.
Hạn chế:
Trên lĩnh vực lưu thông phân phối cịn nhiều vấn đề nóng bỏng chưa
được giải quyết. Trong bối cảnh đó, Đảng và nhà nước ta tiến hành cải cách
giá, lương, tiền lần thứ nhất năm 1981 – 1982. Lần cải cách này đã làm cho


lạm phát trầm trọng thêm từ đó đẩy giá thị trường tiếp tục tăng nhanh (năm
1985 tăng thêm 300% so với năm 1984).
Khắc phục:
Tháng 6 – 1985, hội nghị trung ương lần thứ 8 họp chuyên bàn về giá –
lương - tiền, quyết định phải dứt khốt xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp,
thực hiện chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doan xã hội chủ
nghĩa. Hội nghị cho thấy Đảng đã có sự đổi mới tư duy trên lĩnh vực phân
phối lưu thông một cách cơ bản, đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và những qui
luật của sản xuất hàng hóa.
Tóm Lại:
Từ hội nghị 6 ban chấp hành trung ương khóa IV (Tháng 8 – 1979) đến
hội nghị 8 ban chấp hành trung ương khố V, những chủ trương có tính chất
đổi mới đã từng bước đi vào thực tiễn nước ta, là cơ sở để Đảng ta hình thành

đường lối đổi mới tồn diện.
Đảng đã khẳng định: chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của
nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Bước đầu,
Đảng ta đã thành cơng trong đổi mới tư duy lí luận, nhất la tư duy kinh tế,
nhận thức rõ hơn những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kì quá
độ, về chủ nghĩa xã hội.
Những năm 1976 – 1986 là thời kì đầy khó khăn thử thách. Đảng cộng
sản Việt Nam với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, đã
quyết tâm đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, đưa đất nước tiến
lên.


III. ĐẠI HỘI KHĨA VI (1986):
1.

Hồn cảnh lịch sử của đại hội:

Đại hội VI của Đảng họp từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986 tại
thủ đô Hà Nội trong bối cảnh trong nước và quốc tế có những thuận lợi nhưng
cũng khơng ít khó khăn, thách thức:
-

Việt Nam vẫn chịu tác động của chính sách bao vây cấm

vận của đế quốc Mỹ.
-

Kinh tế phát triển chậm, sản xuất trì trệ do sai lầm chủ

quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, nóng vội trong cải tạo

xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa.
-

Trải qua thời kì khảo nghiệm thực tiến tìm tịi con đường

đổi mới có khơng ít khuyết điểm, vấp váp nhưng Đảng, Nhà nước,
nhân dân ta cũng có được những thành tựu và kinh nghiệm bước đầu.
-

Tình hình các nước xã hội chủ nghĩa cũng có nhiều khó

khăn và đứng trước yêu cầu khách quan phải cải tổ, cải cách. Công
cuộc cải cách ở Trung Quốc đạt được những thành cơng bước đầu.
Thực tiễn đó địi hỏi đổi mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng,
đối với vận mệnh của dân tộc.
2.

Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới do Đại hội VI

đề ra:
Đổi mới cơ cấu kinh tế: (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ
ngành nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công
nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện).


Đại hội xác định phải “Tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước tiến lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa”; cơng nghiệp nặng thì “phải nhằm phục vụ các mục tiêu
kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu tiên, và theo khả năng thực tế,
chuẩn bị tiền đề cho sự phát triển kinh tế trong chặng đường tiếp theo”…

Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm:
Chương trình lương thực thực phẩm phát triển theo hướng đẩy mạnh
thâm canh tăng vụ và mở rộng diện tích cây lúa ở những nơi có điều kiện,
phấn đấu tăng diện tích ruộng đất sử dụng của cả nước. Ở những nơi có điều
kiện phải thực hiện khai hoang, mở rộng thêm diện tích trồng trọt; phải coi
trọng cả lúa và màu; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, tăng đàn gia súc, gia cầm,
áp dụng rộng rãi mơ hình VAC để nâng cao hiệu quả sản xuất…
Chương trình hàng tiêu dùng thì chú trọng tăng cường sản xuất hàng tiêu
dùng về số lượng, chủng loại để đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội; tập
trung giải quyết vấn đề nguyên liệu, tận lực khai thác các nguồn nguyên liệu
trong nước, đồng thời ưu tiên dành ngoại tệ để nhập khẩu những nguyên liệu
cần thiết. Phải đổi mới cơ chế và chính sách để thu hút lực lượng tiểu, thủ
công nghiệp và các lực lượng khác tham gia làm hàng tiêu dùng.
Chương trình hàng xuất khẩu “tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ
lực; đạt kim ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật
tư, máy móc, phụ tùng và những hàng hóa cần thiết”.


Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và
cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế:
Với các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, Đại hội chỉ rõ, quan trọng
nhất là củng cố và phát triển kinh tế XHCN, trước hết là làm cho kinh tế quốc
doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác.
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên
3 nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và
hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng
quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây
dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu

sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế
xã hội chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư
nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính
sách xã hội, kế hoạch hoá dân số và giải quyết việc làm cho người lao động.
Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức
khoẻ của nhân dân.
Trên lĩnh vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hồ bình ở
Đơng Dương, góp phần tích cực giữ vững hồ bình ở Đơng Nam Á và trên thế
giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các
nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp


phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý đã được Đại hội
lần thứ VI xác định là “cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”. Phương
thức vận động quần chúng phải được đổi mới theo khẩu hiệu: Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện
chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình.
Báo cáo Chính trị chỉ rõ 6 nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy Nhà nước là:
- Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính
sách cụ thể.
- Xây dựng chiến lược kinh tế- xã hội và cụ thể hố chiến lược đó thành
những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

- Quản lý hành chính xã hội và hành chính kinh tế, điều hành các hoạt
động kinh tế, xã hội trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ
cương nhà nước và trật tự xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh.
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, phát hiện những mất
cân đối và đề ra những biện pháp để khắc phục.
- Thực hiện quy chế làm việc khoa học có hiệu suất cao.
- Xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao, với đội ngũ cán bộ có
phẩm chất chính trị, có năng lực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã
hội.


Về nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng
Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi
mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán
bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.
Nâng cao chất lượng đảng viên và sức mạnh chiến đấu của tổ chức cơ sở,
tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cơ bản,
vừa cấp bách của công tác xây dựng Đảng.
3.

Ý nghĩa lịch sử của Đại hội:

Đại hội VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc
và triệt để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng và toàn dân và cũng thể hiện
tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và dân tộc.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra thể hiện sự phát triển tư duy lí
luận, khả năng tổng kết và tổ chức thực tiễn của Đảng mở ra thời kì mới của
sự nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

IV. QUYẾT ĐỊNH ĐỔI MỚI PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ

HÀNG HÓA NHIỀU THÀNH PHẦN CỦA ĐẠI HỘI KHÓA VI:


1.

Sự tiến triển tư duy lí luận của Đảng về mơ hình kinh

tế ở nước ta:
Đại hội lần thứ VI của Đảng thực sự là Đại hội của những quyết sách lớn
nhằm xoay chuyển tình hình và tạo ra một bước ngoặc cho sự phát triển của
đất nước.
Về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội VI đã chỉ rõ:
Đó là thời kì lâu dài, khó khăn, gồm nhiều chặn đường; một thời kì cải biến
cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để. Nước ta phải xây dựng từ đầu một
chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Đại hội VI cũng đã khẳng định phải từ bỏ quan niệm đơn giản, tư
tưởng nóng vội chủ quan, duy ý chí, muốn đốt cháy giai đoạn…
Đại hội đã xác định 5 mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội:
a.

Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy.

b.

Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lí nhằm phát triển

sản xuất.
c.

Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới


phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
d.

Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội.

e.

Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Đại hội đưa ra những quan niệm mới: phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần với những hình thức kinh doanh phù hợp, coi trọng việc kết hợp lợi ích


cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người,
có nhận thức mới về chính sách xã hội.
Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3/1989) phát triển thêm một bước
đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều
thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần
có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính qui luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa
xã hội” và thực hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, đảm bảo cho mọi người
được tự do làm ăn theo pháp luật.
Đại hội VI chỉ rõ “nền kinh tế quốc dân có một cơ cấu hợp lí là nền kinh
tế mà trong đó các ngành, các vùng, các thành phần, các loại hình sản xuất có
quy mơ và trình độ kĩ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối, liên kết với
nhau, phù hợp với điều kiện kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn

định” và “phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lí, trước hết là cơ cấu
các ngành kinh tế”.
Đại hội VI xây dựng và tập trung nguồn lực cho thực hiện 3 chương trình
mục tiêu: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ba
chương trình mục tiêu này cụ thể hố nội dung chính của cơng nghiệp hố xã
hội chủ nghĩa. Bước đầu sản xuất có tính yếu tố đầu vào, đầu ra, thị trường và
nhu cầu tiêu dùng, cũng như tiềm năng thế mạnh của các vùng, các ngành, tổ
chức kinh tế.
Đại hội trên cơ sỏ vận dụng quan điểm của Lênin về chính sách kinh tế
mới, về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước Nga Xô viết và vận dụng tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh trong
chế độ dân chủ mới có 5 loại hình kinh tế khác nhau và xuất phát từ thực tiễn
10 năm tìm tịi, thử nghiệm ở nước ta, Đảng xác định nền kinh tế trong thời kì


quá độ ở nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần. Các thành
phần đó là:
-

Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm kinh tế quốc doanh và

kinh tế tập thể.
-

Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất

hàng hố (thợ thủ cơng, nông dân cá thể, những người buôn bán và
kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà
nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là cơng tư hợp doanh;
kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc.

2. Các thành phần kinh tế:
a) Thành phần kinh tế quốc doanh:
Đây là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu Nhà nước về tư liệu
sản xuất, bao gồm hệ thống phi doanh nghiệp là các dạng sở hữu nhà nước
như tài chính, ngân sách, quỹ đất đa, tài nguyên, các nguồn dữ trữ, cơ sở hạ
tầng…
Doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận chủ yếu đảm bảo thực hiện vai trò chỉ
đạo của kinh tế nhà nước. Thơng qua đó và qua các cơng cụ khác, Nhà nước
sẽ giám sát, điều tiết các hoạt động kinh tế và thúc đẩy kinh tế phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
b) Thành phần kinh tế tập thể:
Đây là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, bao
gồm chủ yếu là các hợp tác xã ở các lĩnh vực của nền kinh tế.


Kinh tế tập thể ra đời thơng qua q trình hợp tác hóa theo nguyên tắc
dân chủ, có lợi và phát triển từ thấp lên cao. Các xã viên tự nguyện đóng cổ
phần, tham gia lao động trực tiếp, phân phối theo cổ phần và kết quả lao động.
c) Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ:
Đây là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân quy mô nhỏ về tư liệu
sản xuất và dựa trên lao động của bản thân cũng như gia đình của chủ sở hữu,
bao gồm các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ ở một số ngành, nghề trong needfn
kinh tế.
Thành phần kinh tế này có quy mơ nhỏ nhưng lực lượng đơng đảo, có
tính linh hoạt thích nghi cao, có thể tận dụng lao động nhàn rỗi, vốn liếng dư
thừa trong dân cư, tạo ra việc làm và thu nhập, tạo ra hàng hóa dịch vụ thỏa
mãn nhu cầu xã hội.
Thành phần kinh tế này có kĩ thuật thủ cơng lạc hậu, kinh doanh phân
tán, trình độ tổ chức và năng suất lao động thấp, khó ứng dụng khoa học kinh
thuật, lại dễ bị rủi ro trước những biến động của thị trường. Nó thường chạy

theo lợi ích cục bộ, gây mất ổn định nền kinh tế, ô nhiễm môi trường.
d) Thành phần kinh tế tư bản tư nhân:
Đây là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất có thêu mướn nhân công và quy mô tương đối lớn.
Kinh tế tư bản tư nhân góp phần huy động những nguồn vốn nhàn rỗi,
tiềm tàng trong xã hội; có thể sử dung một lượng lớn sức lao động, tạo cơng
ăn việc làm, góp phần khắc phục tình trạng thất nghiệp, làm gia tăng thu nhập
cho xã hội; tạo ra động lực kinh tế và môi trường cạnh tranh, mở rộng năng


lực quan hệ với các đối tác, tạo môi trường đầu tư và mở ra khả năng làm giàu
cho xã hội.
Mặt hạn chế của kinh tế tư bản tư nhân:
-

Chạy theo lợi nhuận, nó có thể sử dụng mọi biện pháp và

thủ đoạn nhằm bóc lột người lao động, làm thiệt hại người tiêu dùng.
-

Nó chứa đựng những nhân tố gây khủng hoảng kinh tế…

Thành phần này là một bộ phận cần thiết của nền kinh tế quốc dân, bởi vf
với khả năng về vốn liếng, kinh nghiệm quản lí, các mối quan hệ… trở thành
một mắt khâu không thể thiếu trong hệ thống phân công lao động xã hội.
đ) Thành phần kinh tế tư bản nhà nước:
Đây là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu vốn hỗn hợp, bao
gồm những hình thức liên kết, liên doanh giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với
các nhà tư bản trong cũng như ngồi nước như các cơng ty cổ phần, công ty
liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn…

Đây là những hình thức vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chủ nghĩa
tư bản nhà nước là hệ thống chính sách, chủ trương nhằm duy trì chủ nghĩa tư
bản dưới sự quản lí, kiểm sốt và hợp tác sản xuất kinh doanh của nhà nước
xã hội chủ nghĩa, để khai thác mọi tiềm năng và phát triển lực lượng sản xuất,
đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thành phần kinh tế này góp phần xã hội hóa sản xuất (huy động các
nguồn vốn, tranh thủ công nghệ hiện đại và thị trường), thực hiện đa dạng hóa
sở hữu, làm cho nền kinh tế trở nền phong phú và sống động, tạo ra nhiều việc
làm trong xã hội, tạo điều kiện nâng cao khả năng tổ chức, trình độ quản lí và
trình độ tay nghề của lực lượng lao động, tạo ra cơ sở vật chất cho nền kinh tế,


giúp đưa nhanh sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Tuy nhiên, nó có thể làm suy
yếu kinh tế Nhà nước, có thể gây thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân.
đ) Thành phần kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc:
Thành phần này tồn tại trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.
3. Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam:
a. Theo qui luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất:
-

Theo sự nhận thức trước đây: lực lượng sản xuất hiện tại

cịn ở trình độ thấp, chưa xã hội hóa cao thì quan hệ sản xuất chưa thể
là xã hội chủ nghĩa một cách triệt để, mà quan hệ sản xuất cũ vẫn còn
vai trò lịch sử.
-

Cần nhận thức rằng: lực lượng sản xuất ln có nhiều trình


độ, khơng thuần nhất, nên khơng thể nào áp dụng một hình thức hay
một kiểu quan hệ sản xuất duy nhất.
Do vậy, cần phải có nhiều quan hệ sản xuất, nhiều thành phần kinh tế
tức là phải có cơ cấu kinh tế nhiều thành phần để thích ứng với lực lượng sản
xuất.
b. Sự đa dạng của các hình thức sở hữu:
Sở hữu là một phạm trù kinh tế biều hiện mối quan hệ giữa các chủ thể
kinh tế trong việc định đoạt một tài sản vật phẩm nào đó.
Sở hữu có nhiều hình thức, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất và được thể hiện trong các quan hệ sở hữu khác nhau.


×