Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một số nét cơ bản về tư tưởng một số nét cơ bản về tư tưởng nghệ thuật của Haruki murakami

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.73 KB, 6 trang )

MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN VỀ TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT
CỦA HARUKI MURAKAMI
TRẦN THỊ DIỆU THUÝ
Trường THCS & THPT Trung Hóa, Quảng Bình
Tóm tắt: Có lẽ độc giả Việt Nam cũng không mấy xa lạ với Haruki
Murakami - một tiểu thuyết gia hiện đại Nhật Bản. Tác phẩm của ông được
dịch ra hơn 40 ngôn ngữ và luôn nằm trong danh sách best-seller. Thành tựu
mà tác giả đạt được một phần lớn chịu sự chi phối của tư tưởng nghệ thuật
mới mẻ, phong phú, phức tạp với những điểm nổi bật sau: đó là khát vọng
cải biến văn chương Nhật từ bên trong, chủ trương tồn cầu hố văn chương
trong tương lai, đổi mới cách nhìn nhận và phản ánh hiện thực.

Tư tưởng là kết quả của hoạt động tư duy và nhận thức lý tính, tư tưởng cũng được gọi
là quan niệm. Còn tư tưởng nghệ thuật của nhà văn là hệ thống quan niệm, chủ trương
của nhà văn đối với những sáng tác của mình, thể hiện thái độ của tác giả đối với cuộc
sống trong bình diện quan hệ giữa hiện thực và lý tưởng, khẳng định cuộc sống nào, phê
phán cuộc sống nào. Nhờ những tư tưởng nghệ thuật mà Murakami mới tạo được một
phong cách nghệ thuật độc đáo và cùng với sự tìm tịi, nỗ lực, ơng đã trở thành nhà văn
có tiếng nói mới xố nhồ ranh giới giữa văn học Nhật Bản và văn học thế giới.
1. KHÁT VỌNG CẢI BIẾN VĂN CHƯƠNG NHẬT TỪ BÊN TRONG
Văn chương của Murakami có một cái gì đó mới lạ, độc đáo, riêng biệt khơng giống
như văn chương truyền thống. Với khát vọng cải biến văn chương Nhật từ bên trong, H.
Murakami đã có gan từ bỏ cái truyền thống mà ông đã tiếp thu hết sức đầy đủ, trên cơ
sở ấy xây dựng một truyền thống mới cho văn học hiện đại.
1.1. Xây dựng một nền văn học mới, hiện đại mà nhân bản, mang màu sắc phương Tây.
Sáng tác của ông đặc biệt mang màu sắc Mỹ hố. Chính vì vậy ơng bị các nhà phê bình
lên án, chỉ trích, trong đó có cả Kenzaburo Oe - nhà văn đoạt giải Nobel thiên về lối viết
truyền thống. Murakami đã tạo cho mình được một tiếng nói riêng, những tác phẩm của
ơng khiến độc giả “khơng cịn quan tâm đến xuất xứ, dân tộc và nền văn hoá mà chúng
được sinh ra”. Tuyệt nhiên trong những tiểu thuyết ấy, người ta khơng tìm thấy hoa anh
đào, bonsai, trà đạo… mà có âm sắc văn hố đại chúng, chủ yếu là từ Mỹ. Motoyuki


Shibata, giáo sư văn học Mỹ tại Đại học Tokyo đã nhận xét “Với phong cách đó, ơng có
thể sáng tạo nên thứ văn chương giá trị”. Tiếng tăm của H. Murakami đã thực sự lẫy
lừng trên văn đàn thế giới, ông tạo được cho mình một phong cách khơng giống với bất
cứ nhà văn Nhật nào. Một phong cách được hiện đại hoá theo lối viết phương Tây. Dù
học đại học với chuyên ngành kịch cổ điển nhưng ông đam mê văn học Mỹ và tiếp xúc
với nó từ rất sớm, với những tác giả như Scott Fitzgelald, Raymond Carver, Raymond
Chandler và Kurt Vonnegut. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn ông đã nói rằng: “Tơi
chẳng nợ nần gì - dù là một giọt mực của truyền thống Nhật”, đó chính là chủ định của
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 01(13)/2010: tr. 54-59


MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN VỀ TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT CỦA HARUKI MURAKAMI

55

nhà văn. Ơng đã từng nói hồi trẻ ông không chịu đọc một cuốn tiểu thuyết cổ điển Nhật
nào hoặc đọc cũng khơng có chút xúc động. Có ý kiến nhận định đó là một sự khước từ
văn hoá truyền thống do sự áp đặt của người cha - một giáo sư văn chương cổ điển
Nhật. Thay vào đó ơng say mê đọc và nghe tiểu thuyết, âm nhạc cổ điển Châu Âu, tiểu
thuyết trinh thám, hình sự Mỹ và cũng rất mê các thể loại văn hoá đại chúng như phim
ảnh Hollywood, nhạc Jazz… Vì lẽ đó văn chương của ơng tràn ngập những hình ảnh,
biểu tượng của văn hoá đại chúng và những thủ pháp, lối kể chuyện, cách sử dụng các
tình huống rất hấp dẫn, lơi cuốn của tiểu thuyết trinh thám, hình sự. Ơng mượn cấu trúc
của loại truyện này chứ không phải là nội dung của nó. Lâu nay dịng văn học đại chúng
thường thiên về giải trí mà ít chú trọng đến chất lượng nghệ thuật nhưng đến Murakami
ông không làm như vậy. Điểm mới của Haruki là ông đã nghệ thuật hố văn học đại
chúng, nâng nó lên một bước mới, thấm đẫm giá trị nhân văn. Nếu so sánh văn chương
Murakami trong sự tương quan Kawabata và Oe Kenzaburo ta có thể thấy như sau:
Kawabata ln mang trong mình vẻ đẹp của truyền thống Nhật Bản, đến Oe đã có một

sự cách tân, vẻ đẹp trong văn chương của ông mang dáng dấp của văn học hiện đại
phương Tây, thấm đẫm triết lý hiện sinh. Cịn Murakami, ơng đã nâng văn chương đại
chúng lên thành một nghệ thuật, vừa giải trí, vừa có giá trị thẩm mỹ vừa mang tính nhân
bản sâu sắc. Cái cốt lõi trong tiểu thuyết Murakami vẫn là cấu trúc đại chúng, song tính
đại chúng khơng làm ơng xấu hổ vì ơng quan niệm: Có người nghĩ rằng văn học là văn
hoá cao và chỉ nên có một lượng độc giả nhỏ thơi nhưng Murakami khơng nghĩ như thế
nên ông phải ra sức thi đua với văn hố đại chúng, trong đó có TV, tạp chí, điện ảnh và
video games. Chính những điều này đã tạo cho ông một phong cách mới, rất riêng, rất
độc đáo thu hút đơng đảo giới trẻ trên tồn cầu. Vì sao độc giả yêu mến ông như vậy?
Theo chúng tôi có những lý do sau: Thứ nhất, văn phong trau chuốt, điêu luyện. Thứ
hai, cốt truyện cấu tứ khéo léo, linh hoạt. Thứ ba tiểu thuyết của ông khơi gợi được sự
đồng cảm của độc giả đặc biệt là những người trẻ tuổi, bằng cách nắm bắt được cảm
giác vỡ mộng, chia cắt, hoang mang, sự hồi nghi và cơ đơn của con người hiện đại trên
khắp hành tinh. Thứ tư, kết hợp hài hồ giữa ảo và thực, đơi khi giữa nó khơng cịn ranh
giới nữa. Thứ năm, qua tiểu thuyết của ơng người phương Đơng tìm thấy ở đấy những
cái mới lạ từ văn hố phương Tây cịn người phương Tây tìm thấy ở đó những nét riêng
của truyền thống Nhật Bản. Chính sự kỳ lạ này đã làm nên sức hấp dẫn lý thú cho bạn
đọc trên khắp hành tinh. Với những nỗ lực ấy, Haruki xứng đáng dành được sự ủng hộ
nhiệt tình của những người yêu văn chương, muốn tìm kiếm một cái đẹp mới hiện đại
mà nhân bản, tác giả “là nhà văn - chiến sĩ tiền phong của những tư tưởng nhân đạo và
mới mẻ, gạt sang bên những định kiến và ngộ nhận giả tạo trói buộc để kiếm tìm sự tồn
tại và niềm hạnh phúc đích thực, trong cuộc đấu tranh của chúng ta, cuộc đấu tranh vì
con người như nhà văn vô sản vĩ đại A. Garaudy từng viết” (Khánh Phương).
1.2. Sáng tác của Murakami là sự tiếp biến của văn học phương Tây trên cơ sở tổ hợp
các yếu tố Thiền và chất bi cảm, duy cảm từ phương Đông. Trên bề mặt văn bản, tiểu
thuyết của ông không có bóng dáng của vẻ đẹp sầu bi, của trà đạo, bonsai hay hoa anh
đào, nhưng ẩn khuất đâu đó người đọc vẫn tìm thấy nhà văn ít nhiều cũng đã kế thừa
văn học truyền thống Nhật Bản. Trước hết nhà văn kế thừa tư tưởng Thiền từ phương



56

TRẦN THỊ DIỆU THÚY

Đơng. Chúng ta dễ dàng tìm thấy trong Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ
biển những ảnh hưởng của yếu tố Thiền hay hình ảnh của con người tâm linh. Nếu phật
giáo, Thiên Chúa giáo hướng con người đến sự giúp đỡ của một bậc tồn năng thì Thiền
địi hỏi con người phải tự vươn lên, phát huy mọi tố chất của mình để kiến tính thành
Phật. Như vậy Thiền địi hỏi con người phải nỗ lực hết mình, tự mình giác ngộ, khơng
có một ai có thể cứu rỗi ngồi sức mạnh của nội lực bên trong. Murakami đã xây dựng
nhân vật của mình theo hướng đó. Tiêu biểu nhất là Kafka Tamura - nhân vật chính của
Kafka bên bờ biển. Cậu ln tự nhủ mình: “Hãy là trang thiếu niên mười lăm tuổi kiên
cường nhất thế giới. Ở tuổi mười lăm người ta bắt đầu bước vào đời. Cuộc đời ln sẵn
có những bất trắc, rình rập. Đơi khi số phận giống như một cơn bão cát nhỏ cứ xoay
chiều đổi hướng liên tục” [1]. Cậu quyết định ra đi đúng hôm sinh nhật mười lăm tuổi,
gạt bỏ cái bản đồ gen mà cha mẹ cậu để lại, chối bỏ người cha để đi tìm mẹ và chị gái,
quan trọng hơn cậu ra đi là để chạy trốn khỏi lời nguyền độc địa của người cha: một
ngày kia mày sẽ giết cha và ngủ với mẹ, chị gái. Nhưng kiếp người không thể thoát khỏi
những oái ăm mà cuộc sống mang lại, cậu khơng ngờ rằng sự ra đi của mình là cơ hội
để lời nguyền kia ứng nghiệm. Cuối cùng trên con đường tìm lại chính mình cậu đã hiểu
rằng khơng thể thay đổi được định mệnh kia và trở về sống một cuộc sống bình thường,
thanh thản, bình yên trong tâm hồn. Một quan niệm mang cảm thức phương Đông rõ
rệt. Với hành trình của Tamura tác giả mong muốn đưa ra một giải pháp mới cho con
người hiện đại, đó là phải tự mình vươn lên để khẳng định mình, phương thức đó dựa
vào tư tưởng của Thiền, trong tác phẩm của mình ơng khơng trực tiếp nhắc đến Thiền
nhưng những câu hỏi của Thiền luôn được nhân vật đặt ra: Ta là ai? Từ đâu tới? Trở về
đâu? Sinh ra như thế nào? Chết như thế nào?... Trong Biên niên ký chim vặn dây cót,
những giấc mơ đầy cảm giác thực của Toru Okada trong khách sạn mơ là một lí giải về
đời sống dưới góc độ huyền ảo có chút triết lý Thiền trong ấy. Thế giới thực tại đang đổ
vỡ và mất đi niềm tin, giấc mơ đã nói lên được những khát vọng thầm kín của con

người. Những căn phòng tối, người dấu mặt hay Toru cịn có khả năng đi xun qua bức
tường cũng thuộc về những đặc điểm của người phương Đông thiên về duy cảm. Người
ta cịn tìm thấy trong tác phẩm của Haruki phảng phất một nỗi buồn bi thảm thường có
trong những truyện Genji của thế kỷ XI hay những trang viết lừng danh của Kawabata...
Ơng khơng theo đuổi cái đẹp bi thảm, cái đẹp bạo liệt như những nhà văn tiền bối
nhưng ẩn chứa đằng sau những cái chết ở Rừng Na-uy người đọc vẫn tìm thấy ở đấy
một tâm thức Nhật Bản sống động bằng dư vị hoài cổ của cái đẹp bi ai, cái mong manh
của tình yêu. Như vậy chất duy cảm, bi cảm (aware) là điểm thứ hai nhà văn tiếp thu từ
dòng văn học truyền thống.
2. CHỦ TRƯƠNG TỒN CẦU HỐ VĂN CHƯƠNG TRONG TƯƠNG LAI
2.1. Nhà văn phải tạo ra một ngôn ngữ Nhật Bản mới gần gũi với cuộc sống thường
ngày. Trong cuộc trao đổi với Jay Mc Enernate, ông đã khẳng định “thế hệ già khơng
hài lịng vì nền văn chương đang tàn lụi… Thế nhưng đâu phải như thế. Đơn giản là
những người đương thời của tôi và cả tôi đang cố gắng tạo nên một ngôn ngữ Nhật Bản
mới”. Ngôn ngữ mà ta thường thấy trong văn chương Nhật luôn mờ ảo, tế nhị, song với
Murakami nhà văn lại muốn ngôn ngữ văn chương mới phải sáng tỏ, sống động, phải


MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN VỀ TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT CỦA HARUKI MURAKAMI

57

gần gũi với tiếng nói chân thật mà người dân sử dụng. Ông kiên quyết “lột bỏ những thứ
rườm rà, lơi thơi dính chặt xung quanh tiếng Nhật” để giao lưu với thế giới bằng thứ
ngôn ngữ mới đó.
2.2. Nhà văn phải tìm kiếm một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp chung cho tồn nhân loại. Mặc dù
ơng tơn trọng vẻ đẹp và sự tinh tế trong quá khứ song theo ông “tất cả truyền thống đều
thuộc về quá khứ và khơng thể nói lên một điều gì đó thực sự về Nhật Bản hiện nay”.
Tác giả ln tìm tịi cho mình một hướng đi mới khơng lặp lại con đường của các nhà
văn truyền thống. Ông cho rằng cái đẹp trong quá khứ cũng chỉ là quá khứ mà thôi,

không thể lấy quá khứ để áp đặt lên hiện tại. Xã hội ngày nay đã khác bởi vậy văn
chương cũng phải có sự thay đổi cho phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ, với sự vận động và
phát triển của quy luật nội tại của văn chương, do đó nhà văn có trách nhiệm phải sáng
tạo ra vẻ đẹp mới, làm cho nó được lên ngơi. “Một số nhà phê bình hay học giả phương
Tây có cái thói hễ văn chương Châu Á thì phải “đặc mùi Châu Á”. Chẳng có lý do gì
khiến tơi phải rập khn theo họ. Cái mà tôi muốn mô tả trong tác phẩm của tôi là
NHỮNG CON NGƯỜI” [2]. Murakami đi theo một khuynh hướng mới, cái mà ông
miêu tả là những con người và người đó có thể sống ở bất kỳ đâu trên thế giới tuỳ người
đọc chọn lựa, họ có thể thấy bóng dáng của mình trong đó.
2.3. Nhân vật của Murakami mang cảm thức của con người hiện đại trên toàn cầu. Tác
phẩm đã nắm bắt được cảm giác vỡ mộng, chia cắt, hoang mang bên cạnh một vẻ bề
ngồi tĩnh lặng, địi hỏi nhân vật phải tự mình dấn thân, trải nghiệm để tìm ra chân lý.
Cảm thức này phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Ơng cũng phơi bày phương diện phi
nhân tính hố của xã hội hiện đại, con người chỉ tự do trong ảo tưởng còn trong thực tế
họ lại bị sự kiểm soát rất gắt gao của nhà nước.
2.4. Khác với những nhà văn truyền thống, Murakami không đặt nặng vấn đề bản sắc
dân tộc trong tác phẩm của mình mà bóng dáng của hoa anh đào, trà đạo, kimono,
haiku… ẩn khuất đâu đó, trên bề mặt văn bản hiện lên là những yếu tố của văn hoá đại
chúng phương Tây (chủ yếu là từ Mỹ). Văn hoá phương Tây, lối sống phương Tây ảnh
hưởng rất nhiều đến xã hội Nhật Bản hiện đại. Chẳng những người ta đã từng gọi Nhật
Bản là “phương Tây giữa lịng Châu Á” đó sao? Và Murakami là người nói lên tiếng nói
đó. Tuy nhiên ơng vẫn là một nhà văn Nhật, viết bằng tiếng mẹ đẻ, được ni dưỡng bởi
một nền văn hố truyền thống, trong cái nơi của gia đình bố mẹ là giáo sư văn học cổ
điển. Nếu cho rằng tiểu thuyết của ông đánh mất bản sắc, đánh mất truyền thống và đã
bị phương Tây hố thì chưa thật chính xác. Nhà văn cũng là người có khát vọng đưa văn
học Nhật Bản phát triển cao hơn gần với văn học thế giới cho nên hà cớ gì văn chương
Châu Á phải “đặc mùi Châu Á”? Ơng khơng đặt nặng vấn đề bản sắc dân tộc bởi nó
khơng là những giá trị bất biến, vĩnh hằng mà luôn luôn vận động, đổi mới. Đó là khát
vọng của một nhà văn chân chính muốn xố nhồ ranh giới giữa văn học Nhật Bản và
văn học thế giới, vươn đến tầm phổ quát. Tiểu thuyết của Murakami là một bước đột

phá mới mẻ của văn chương Nhật Bản đương đại. Nhà văn đã xoá nhoà ranh giới giữa
văn học Nhật Bản và văn học thế giới, văn học đại chúng và văn học thuần tuý, giữa


58

TRẦN THỊ DIỆU THÚY

thực và ảo. Chính sự xố nhồ giữa ba yếu tố đó đã làm cho văn chương của ơng vươn
đến tầm phổ qt.
Với chủ trương tồn cầu hoá văn học trong tương lai, Murakami “là một điển hình cho
ta thấy một nhân vật tinh hoa của văn chương đương đại Nhật Bản 20 năm trở lại đây,
đấy là tìm kiếm sự khác biệt và phá vỡ những định kiến khi người ta hình dung về
văn hố Nhật lâu nay. Rõ ràng, khơng thể cứ nói đến văn hố Nhật là người ta chỉ hình
dung về samurai, về geisha, trà đạo, cắm hoa, thơ haiku, kịch Noh hay là vẻ đẹp truyền
thống duy mỹ trong các tác phẩm của Kawabata, Mishima, Tanizaki, Akutagawa… Tôi
cho rằng đấy mới là điều quan trọng chứ không phải văn chương của ông đậm hay nhạt
bản sắc văn hoá dân tộc” [3].
3. ĐỔI MỚI CÁCH NHÌN NHẬN VÀ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC
3.1. Trước hết là cái nhìn hồi nghi về bản chất con người và xã hội. H. Murakami
khơng nhìn nhận hiện thực bằng con mắt của các nhà văn đi trước mà xuất phát từ cái
nhìn có tính phê phán và những hoài nghi về bản chất con người, bản chất của sinh
mệnh và thể chế xã hội, tự thân của hoàn cảnh. Ơng muốn tìm sự chân thực, tồn vẹn,
thuần khiết của sinh mệnh, của sự tự do, cũng như tìm lối thốt cho linh hồn. Những
trang viết của ơng thấm đẫm cảm hứng mãnh liệt và nhất quán về cái phi thực, đó là
một thế giới phi vật chất của cảm thức.
3.2. Hiện thực trong con mắt ông là giải phẫu những căn bệnh của xã hội hiện đại để tìm
ra cội nguồn, gốc rễ của nó. Nếu Oe Kenzaburo cho rằng văn chương thanh cao cần phải
liên tưởng tới những luận thuyết về cuộc đấu tranh xã hội đặc trưng cho thời kỳ những
thập nên sau chiến tranh (40 - 60) cái thời mà “các nhà văn sống bằng tinh thần đấu tranh

chống chiến tranh và chính phủ phát xít”, với Oe phản ánh cuộc đấu tranh xã hội đơn giản
là một bộ phận không thể tách rời của văn học thanh cao thì giờ đây sang thập niên khác
(từ những năm 60 trở đi) Murakami lại không miêu tả hiện thực đấy mà là giải phẫu
những căn bệnh của xã hội hiện đại, một xã hội công nghiệp với hình ảnh những con
người hãnh tiến, cơ hội, lừa bịp, thủ đoạn trong chính trị và coi thường giá trị đạo đức,
tình cảm. Nhân vật của ơng ngày càng dấn thân hơn, đấu tranh để loại bỏ cái ác.
3.3. Hiện thực được thể hiện sống động trong thế giới của những giấc mơ, cho nên nhân
vật của ông không “biến dạng” như trong thế giới nhân vật của F. Kafka mà nó thật
sống động tự do trong thế giới của những giấc mơ kì diệu. Những giấc mơ mở ra một
thế giới khác, thế giới của những điều kỳ ảo, mở ra một bình diện mới để nhận chân giá
trị con người. Đó là tư tưởng nghệ thuật mới mẻ của ơng nhằm tìm lối đi riêng cho sáng
tác văn chương của mình, khơng lặp lại những cái gì đã cũ có từ truyền thống mà phơi
bày những phương diện phi nhân tính hố của xã hội hiện đại.
3.4. Dùng phương thức hiện thực huyền ảo để chuyển tải tư tưởng nghệ thuật của mình.
Nhà văn dùng thế giới ảo để phản ánh “mặt tối của sự vật” hay đúng hơn là phản ánh
hiện thực xã hội mà chúng ta đang sống - một thời đại của công nghiệp, của công nghệ
thông tin, dường như mọi thứ đều ảo hay người ta đang cố tình ảo hố mọi thứ. Con
người thật nhỏ bé trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, tất cả đều là


MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN VỀ TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT CỦA HARUKI MURAKAMI

59

những ký hiệu, những con số… nên họ cô đơn, trống rỗng trong một cái vỏ vật chất đầy
đủ. Do đó hiện thực trong sáng tác của ơng là hiện thực của Nhật Bản hiện đại và cũng
là hiện thực xã hội của nhiều nước hậu công nghiệp khác trên thế giới. Đó cũng là tính
phi thời gian trong sáng tác của H. Murakami. Hiện thực biểu hiện trần trụi trong văn
chương của ông nhưng câu chuyện mà ơng đề cập đến thì lại khơng đơn giản, nó tầng
tầng lớp lớp những ý nghĩa, ẩn chứa nhiều thông điệp sâu sắc mà người đọc khơng dễ

dàng gì lý giải nổi.
Tóm lại tư tưởng nghệ thuật của H. Murakami rất phong phú, phức tạp, có những điểm
độc đáo, mới lạ. Cùng với sự tìm tịi, nỗ lực, ơng đã tạo được một phong cách nghệ
thuật và trở thành nhà văn có tiếng nói mới xố nhồ ranh giới giữa văn học Nhật Bản
và văn học thế giới, giữa văn học thuần tuý và văn học đại chúng, giữa thực và ảo. Qua
tìm hiểu các tác phẩm của Murakami xuất bản tại Việt Nam chúng tơi nhận thấy có hai
mơ thức phong cách tiểu thuyết đó là mơ thức phong cách tiểu thuyết hiện thực - trữ
tình - đời tư hướng đến đơng đảo độc giả gồm Rừng Na-uy, phía Nam biên giới phía
Tây mặt trời, Người tình Sputnik và mô thức phong cách tiểu thuyết huyền ảo, siêu thực
- triết lý - thế sự, kén độc giả gồm Biên niên ký chim vặn dây cót và Kafka bên bờ biển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]

Haruki Murakami (2007). Kafka bên bờ biển, Dương Tường dịch. NXB Văn học.
Haruki Murakami (2006). Biên niên kí chim vặn dây cót, Trần Tiễn Cao Đăng dịch.
NXB Hội Nhà văn.
Văn Bảy (2006), Murakami - vượt qua giải Nobel, nguồn />
Title: SOME KEY FEATURES OF HARUKI MURAKAMI’S ARTISTIC THOUGHT
Abstract: Perhaps, Haruki Murakami, a modern Japanese novelist, is also familiar to many
Vietnamese readers. His works have been translated into more than 40 languages and they are
always on the best-seller list. The author’s achievements are mainly affected by his new diverse
and complicated artistic thought, which has some outstanding aspects. He desires to transform
the inner of Japanese Literature, advocates globalizing Literature in the future and wants to
change how to appraise and reflex the reality.

ThS. TRẦN THỊ DIỆU THÚY
Trường THCS & THPT Trung Hóa, Minh Hóa, Quảng Bình.
ĐT: 0122.4564296.




×