Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Vai trò quan hệ sản xuất trong nền kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.11 KB, 38 trang )

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ TỔ CHỨC ĐÀO TẠO NGẮN HẠN THEO ĐỊA
CHỈ TẠI CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO
Th.s Nguyễn Tiền Tiến
Đào tạo theo địa chỉ là định hướng mới và đang trở thành một phương thức hoạt động thường xuyên
của giáo dục nghề nghiệp, thể hiện rõ nét nhất của quan điểm đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội. Định
hướng đào tạo theo địa chỉ được thể hiện rõ nét trong Chỉ thị số 56/2008 ngày 03/10/2008 về Nhiệm vụ
trọng tâm của giáo dục đại học năm học 2008 – 2009, trong đó nhiệm vụ này được triển khai ở tầm vĩ
mô cũng như đối với từng cơ sở đào tạo. Chỉ thị ghi rõ nhiệm vụ đối với các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp: “Khuyến khích các trường ký kết các văn bản thoả thuận hợp tác trực tiếp với các doanh
nghiệp để đặt hàng hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa học, tạo cơ sở thực tập cho sinh viên, tiếp nhận
sinh viên khi ra trường”.
Đào tạo theo địa chỉ bao gồm đào tạo dài hạn và đào tạo ngắn hạn. Đào tạo dài hạn là hình thức đào
tạo theo hợp đồng giữa địa phương và nhà trường, có sự chấp thuận từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đào tạo ngắn hạn là hình thức đào tạo theo hợp đồng giữa nhà trường với địa phương hoặc các tổ chức
sử dụng lao động để bồi dưỡng nghề nghiệp và cấp chứng chỉ đào tạo. Bài viết này chỉ trình bày một số
ý kiến về tổ chức đào tạo ngắn hạn theo địa chỉ tại các cơ sở đào tạo.
Kết quả của đào tạo theo địa chỉ sẽ đáp ứng được nhu cầu của các tổ chức sử dụng lao động cả về số
lượng và chất lượng lao động; cung - cầu lao động phù hợp, tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền
bạc cho xã hội; hạn chế được lãng phí lao động do phải tìm kiếm, chờ đợi việc làm của những người
sau khi tốt nghiệp ra trường; các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chủ động hơn trong việc tạo nguồn đào
tạo.
Tuy nhiên, đào tạo theo địa chỉ gặp hiện nay tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp gặp một số khó khăn
nhất định. Trước hết, đây là hoạt động mới mẻ của những cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Thông thường
thì các tổ chức có nhu cầu tuyển dụng lao động sẽ tìm đến cơ sở giáo dục nghề nghiệp đặt hàng. Cơ sở
giáo dục nghề nghiệp đón nhận nhu cầu một cách thụ động và vì thế các đơn đặt hàng theo kiểu này
không nhiều. Do không chủ động nên cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ khó khăn trong việc xây dựng
chương trình, chuẩn bị nguồn lực để đào tạo. Thời gian thực hiện các đơn đặt hàng vì thế bị kéo dài.
Để thực hiện được nhiệm vụ của Ngành và phát huy được hiệu quả của đào tạo theo địa chỉ, đòi hỏi
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải đổi mới phương thức hoạt động tìm kiếm nguồn đào tạo.
- Trước hết, đào tạo theo địa chỉ phải trở thành hoạt động thường xuyên trong các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp, phải có định hướng rõ ràng từ ban lãnh đạo trường và được xây dựng cụ thể thành chỉ tiêu


kế hoạch hàng năm. Sau đó, phải giao nhiệm vụ rõ ràng cho bộ phận tạo nguồn đào tạo.
- Tiếp theo, là phải thay đổi trong hoạt động tìm kiếm nguồn đào tạo. Một mặt, phải chủ động xây
dựng các chương trình giáo dục, bồi dưỡng mà cơ sở giáo dục nghề nghiệp có khả năng; chủ động
chuẩn bị sẵn sàng các nguồn lực để đào tạo; chào hàng các chương trình giáo dục, bồi dưỡng đến các tổ
chức sử dụng lao động.
- Mặt khác, quan trọng hơn là phải xây dựng được mối quan hệ gắn bó với các tổ chức sử dụng lao
động. Trải qua một thời gian đào tạo, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đều đã có mối quan hệ nhất định
với các tổ chức sử dụng lao động. Tuy nhiên, phải thường xuyên củng cố để mối quan hệ đó trở nên
gắn bó mật thiết, quan hệ giữa tổ chức sử dụng lao động và cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực sự trở
thành quan hệ hợp tác, cùng có lợi trong quá trình phát triển. Đồng thời, phải tiếp cận và hình thành
mối quan hệ với các tổ chức mới thành lập, một xu thế biến đổi tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Từ
mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với tổ chức sử dụng lao động, cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ cùng tổ chức
sử dụng lao động phát hiện ra nhu cầu đào tạo cần thiết cho mỗi tổ chức.


- Sau khi thống nhất được nhu cầu cần đào tạo với tổ chức sử dụng lao động, bộ phận tạo nguồn đào
tạo sẽ chủ động trao đổi, đặt hàng với các Khoa/ Bộ mơn xây dựng chương trình, lựa chọn nội dung
đào tạo. Để chương trình, nội dung có tính thực tiễn cao, đào tạo được những kiến thức, tay nghề cần
thiết cho người lao động thì trong quá trình xây dựng, bộ phận tạo nguồn đào tạo phải thường xuyên
trao đổi với tổ chức sử dụng lao động.
- Để tổ chức đào tạo có chất lượng và phù hợp với điều kiện vừa làm vừa học của người lao động thì
phải bố trí lịch giảng dạy thật sự hợp lý, có tính linh hoạt, đồng thời phải biết tận dụng tối đa điều kiện
máy móc thiết bị hiện có của tổ chức sử dụng lao động để người học thực hành, thí nghiệm, giải quyết
được khó khăn hiện nay của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là thiếu máy móc thiết bị thực hành.
- Kết thúc mỗi khoá đào tạo, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và tổ chức sử dụng lao động phải từng bước
kiểm tra, đánh giá. Đánh giá đúng kết quả đào tạo sẽ tạo niềm tin cho tổ chức sử dụng lao động mở
rộng hình thức này đồng thời giúp cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp điều chỉnh, cải tiến nội dung, hình
thức đào ngày càng hồn thiện hơn.
Muốn thiết lập được mối quan hệ gắn bó mật thiết với tổ chức sử dụng lao động, bộ phận tạo nguồn
đào tạo theo hình thức này phải bố trí đủ số lượng, có khả năng trao đổi với tổ chức sử dụng lao động

về nhu cầu đào tạo; phải xây dựng kế hoạch tạo nguồn đào tạo cụ thể với các điều kiện đảm bảo, trong
đó quan trọng nhất là đảm bảo về kinh phí, được nhà trường đồng ý, phê duyệt để thực hiện.
Là một việc làm mới mẻ và khó khăn nhưng nếu tổ chức tốt hoạt động đào tạo theo địa chỉ sẽ là một
trong những cơ sở tin cậy để một cơ sở giáo dục nghề nghiệp phát triển vững chắc, đáp ứng nhu cầu xã
hội, thực hiện phương châm học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với xã hội.

TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU
Trương Thị Thanh Thuỷ
EU hiện là một thị trường rộng lớn và đâỳ tiềm năng đối với các nước Châu Á, trong đó có Việt
Nam. Đây cũng là thị trường chính của thuỷ sản Việt Nam hàng chục năm qua và có nhiều triển vọng
cho việc đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian tới. Điều này được minh chứng
qua các nhân tố sau:
Thứ nhất : Việt Nam đã bình thường hố quan hệ ngoại giao với Cộng đồng Châu Âu từ năm
1990. Hiệp định hợp tác với EU ngày 17 – 7 19995, tạo cơ hội thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ mối qua
hệ hợp tác với các quốc gia thành viên và cả cộng đồng trên mọi lĩnh vực hỗ trợ phát triển khoa học kỹ
thuật, đào tạo nguồn nhân lực, văn hoá xã họi, đầu tư kinh tế thương mại và đến nay, Việt Nam đã trở
thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Thứ hai : Việc ngành thuỷ sản Việt Nam đáp ứng yêu cầu cao của EU về vệ sinh an toàn thực
phẩm đã giúp sản phẩm thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang EU khơng những ngày càng tăng mà cịn
có chỗ đứng vững chắc ở các thị trường đòi hỏi khắt khe khác như Mỹ, Nhật Bản và Canađa.
Thứ ba : Do sản lượng thuỷ sản khai thác tự nhiên ngày càng giảm vì những quy định liên
quan đến bảo vệ nguồn lợi và môi trường, nên EU ngày càng phụ thuộc vào thuỷ sản nhập khẩu. Chính
vì vậy, thương mại cũng sẽ được ưu tiên trong chinha sách hỗ trợ của EU, giúp các nước phát triển
hiểu rõ hơn về WTO, các hàng rào kỹ thuật trong thương mại hoặc kiểm dịch động vật. Ngành thuỷ sản
Việt Nam có thể được lợi rất lớn do EU ưu tiên hổ trợ trong lĩnh vực kiểm dịch động vật. Ngoài ra EU
cịn dành quỹ hổ trợ thơng qua quỹ tín thác Châu Á, Quỹ đầu tư Châu Á. Việt Nam là một trong 178
nước dược hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập( GSP) với mức thuế thấp hơn 3,5% so với mức thúe
thông thường. Được hưởng GSP, thuế xuất khẩu thuỷ sản sang EU không những sẽ giảm, mà việc xem
xét mức thuế sẽ được thực hiện sau 3- 5 năm chứ không phải hàng năm như trước đây với số lượng mặt
hàng nhiều hơn. Hiện nay, tỷ lệ mặt hàng thuỷ sản được hưởng GSP lên tới 80%. Bên cạnh đó, người

tiêu dùng EU ngày càng tiêu dùng nhiều thuỷ sản hơn, vì họ cho rằng thuỷ sản là loại thực phẩm sạch


và bổ dưỡng. Đây là tín hiệu tốt cho xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào EU, hằng năm Việt Nam xuất
khẩu hàng trăm nghìn tấn hàng thuỷ sản gồm tôm, cá ngừ, nhuyễn thể hai mảnh vỏ và nhiều mặt hàng
cá đông lạnh các loại.
Thứ tư : Nếu trước đây rất khó thực thi các quy định về vệ sinh an tồn thực phẩm vì giữa các
nước khác nhau có những quy định khác nhau, thì bây giờ EU chỉ có một cơ quan quản lý duy nhất là
cục quản lý ATTPEU, một khuôn khổ luật pháp duy nhất và một cơ chế duy nhất là luật chung về thực
phẩm để có thể đảm bảo nếu xảy ra rủi ro liên quan đến an tồn thực phẩm thì chỉ trong vịng 1 giờ đã
được đệ trình lên cục quản lý an toàn thực phẩm EU. Nếu biện pháp đề xuất được đa số thành viên cục
quản lý an toàn thực phẩm EU ủng hộ, thì sản phẩm có mới nguy cơ đó sẽ bị triệu hồi khỏi các kênh
phân phối trên thị trường. Với những quy định mới này là hồn tồn có lợi, thứ nhất nó dễ áp dụng,
không phải nghiên cứu quá nhiều văn bản; thứ hai là mọi vấn đề rõ ràng hơn, các quy định về vệ sinh
an toàn thực phẩm đã được hệ thống hố và đảm bảo tính logic; thứ ba là khơng một nước thành viên
nào được quyền đặt ra thêm quy định riêng đối với hàng nhập khẩu.
Như vậy với các nhân tố nêu trên cùng với nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản có xu hướng tăng mạnh ở
các nước châu Âu, hàng trăm doanh nghiệp Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu và được phép xuất khẩu vào
thị trường EU sẽ tạo mọi nhiều cơ hội hơn để tăng cường xuất khẩu sang khối thị trường này. Hiện EU
là thị trường có mức tăng trưởng mạnh của thuỷ sản Việt Nam. Trong tương lai, mức tăng trưởng này
có khả năng tiếp tục tăng mạnh. Sự cạnh tranh với mức giá rẻ của các mặt hàng đảm bảo chất lượng và
an toàn vệ sinh thực phảm là yếu tố qyết định giữ vững thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam tại thị trường EU. Có thể khẳng định triển vọng xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp Việt
Nam sang thị trường này là rất tốt và ổn định trong các năm tới.
Tài liệu tham khảo:
- Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường EU năm 2007- 2008
- Xu hướng tiêu thụ thuỷ sản của EU năm 2008- 2009

THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ DU LỊCH VÀ VIỆC
SỬ DỤNG LAO ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP DU LỊCH TRÊN ĐỊA

BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Phạm Tường Hưng
Tổ Bộ Môn Du Lịch - Khoa QTKD
Đà Nẵng là thành phố có bờ biển dài và đẹp, được mệnh danh là một trong những nơi có bãi
biển đẹp nhất hành tinh. Trong những năm qua, chính quyền thành phố ra sức xây dựng Đà Nẵng trở
thành thành phố du lịch và là điểm đến khá lý tưởng cho du khách trong và ngoài nước. Với lợi thế về
điều kiện địa lý, tiềm năng về tài nguyên du lịch nên trong thời gian qua chính phủ và địa phương đã
quyết tâm nâng cấp, xây dựng mới cơ sở hạ tầng, quy hoạch nhiều tuyến điểm du lịch, tạo tiền đề thu
hút nhiều nhà đầu tư du lịch trong và ngoài nước. Chính vì thế, hệ thống khách sạn nhà hàng, các điểm
tham quan, khu nghỉ mát lại mọc lên sang sát bên nhau. Những doanh nghiệp (DN) này đã và đang
thu hút một lực lượng lao động (LĐ) có trình độ tay nghề khá đơng, ước tính khoảng từ 5000 đến 7000
LĐ trong tương lai.
Trước nhu cầu của thị trường LĐ như thế, nhiều gia đình trong và ngồi thành phố mong muốn
cho con em theo học “nghề du lịch” với kỳ vọng có được cơng ăn việc làm ổn định. Nắm bắt được tình
hình trên, trong những năm qua, trên địa bàn thành phố đã mọc lên rất nhiều cơ sở đào tạo nghề du lịch
kể cả công lập lẫn tư thục với các loại hình đào tạo rất đa dạng. Sự phát triển về số lượng cơ sở đào tạo


như thế đã tạo ra một tín hiệu lạc quan cho người học trong việc lựa chọn trường lớp và nghiệp vụ
chun mơn phù hợp với nguyện vọng của mình, mặt khác làm sáng sủa bộ mặt của thành phố du lịch
miền trung. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, khơng ít cơ sở dạy nghề vẫn cịn một số tồn
tại nhất định.
Thứ nhất, vì chúng ta khơng có bất kỳ tiêu chuẩn nào, do vậy việc đầu tư, quy hoạch của các cơ
sở đào tạo nghề du lịch cịn tùy tiện khơng dựa trên các tiêu chuẩn thơng lệ quốc tế, khơng thể nói mức
độ đầu tư hay phát triển ở các cơ sở là tốt hay xấu. Chính vì vậy, đã tạo kẽ hở cho nhiều người trục lợi.
Khơng ít cơ sở đào tạo có q nhiều cán bộ kinh tế và cán bộ trái ngành khác nghề nhưng lại thiếu cán
bộ có kinh nghiệm đào tạo nghề du lịch, có kiến thức kỹ thuật. So với hai đầu đất nước thì đội ngũ
giảng viên nghề du lịch ở thành phố Đà Nẵng vừa yếu lại vừa thiếu cả về trình độ chun mơn nghiệp
vụ lẫn kinh nghiệm thực tế trong công tác điều hành tổ chức phục vụ du lịch. Thêm vào đó, điều kiện
và cơ hội học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp thu những kiến thức và kỹ năng hiện đại còn

hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Một số cơ sở dạy nghề lại mời những nhân
viên đang làm việc ở một số khách sạn đến giảng dạy cho học viên với hình thức truyền đạt kiến thức
và kỹ năng theo kinh nghiệm thực tế tại đơn vị họ đang làm việc, chứ không dựa trên một chuẩn mực
chung mang tính khoa học nào cả. Đây chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự bất
cập và chênh lệch về trình độ nhận thức, kỹ năng nghiệp vụ của học viên ở các cơ sở dạy nghề. Bênh
cạnh đó, rất nhiều giảng viên còn cứng nhắc và thiếu linh động trong phương pháp đào tạo, cụ thể là
chỉ dừng lại ở việc “hướng dẫn học viên thực hành nghiệp vụ một cách máy móc”, chưa quan tâm đến
việc “định hướng cho họ phương pháp học thực hành có hiệu quả”, từ đó khơng kích thích tính sáng
tạo cho người học, hay nói cách khác người học luôn ở trạng thái “thầy đặt đâu, trị ngồi đấy”. Chính
phương pháp đào tạo như thế nên dẫn đến hệ quả là nhiều học viên trở nên nhàm chán trong học tập,
khi tiếp xúc với công việc thực tế lại bị bế tắc trong xử lý tình huống.
Thứ hai, theo quy định, học sinh có 70% thời gian thực hành nghề nghiệp, nhưng hiện nay
những văn bản quan tâm đến nội dung các vấn đề về thực hành nghề nghiệp bao gồm: chương trình,
giáo trình hướng dẫn thực hành, các tiêu chuẩn thiết bị, tiêu chuẩn tiêu chí nâng cao kỹ năng nghề, tiêu
chuẩn về cơ sở vật chất, tiêu chuẩn về kỹ năng nghề…còn khá hạn chế. Do thiếu kiến thức kỹ thuật cho
nên việc xây dựng chương trình đảm bảo liên thơng khơng đạt hiệu quả mà chỉ có lý thuyết sng. Việc
hiểu về liên thơng khơng có căn cứ khoa học dẫn đến khơng thể xây dựng được chương trình liên thơng
ở các bậc cao hơn.
Thứ ba, việc đào tạo nghề du lịch chưa định hướng theo nhu cầu của thị trường, nên mức độ
vận dụng kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp mà học viên được học ở nhà trường vào công việc thực tế
cịn ít, trái lại những kiến thức và kỹ năng “sơ đẳng “ mà thị trường cần vừa thiếu lại vừa yếu.
Thứ tư, việc đào tạo kỹ năng sống ít được các cơ sở dạy nghề quan tâm và chú trọng, tuy nó
khơng liên quan trực tiếp đến thao tác chun mơn nghiệp vụ, nhưng nó góp phần chuẩn hố nhân
cách, giúp học viên có thái độ đúng đắn với cơng việc mình đang làm, là cơ sở hình thành đạo đức
nghề nghiệp và tác phong trong công việc. Đây chính là yếu tố tạo ra giá trị tăng thêm trong phục vụ
cho khách hàng.
Thứ năm, điều kiện giảng dạy và thực hành của giảng viên và học viên còn bất cập xuất phát từ
nhiều lý do: Hạn chế về năng lực đầu tư; thiếu biện pháp và thiếu hiểu biết về kỹ thuật nên các thiết bị
được đầu tư chủ yếu là mua sắm theo ý đồ từng đơn vị nên chất lượng kém, thiếu sự đồng bộ về số
lượng và chủng loại từ đó dẫn đến thiếu tính thực tế. Yêú tố này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào

tạo tay nghề cho học viên.
Đó là thực trạng về đào tạo của các cơ sở dạy nghề du lịch, còn thực trạng về việc sử dụng
LĐ của các DN du lịch thì sao?
Qua quá trình tiếp xúc trực tiếp với các DN, chúng tôi nhận thấy rằng nhiều DN du lịch trên địa
bàn thành phố muốn tuyển dụng nhân viên đã qua đào tạo nghiệp vụ, song phần lớn họ đều cho rằng đa
số trình độ tay nghề của ngưòi LĐ chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của công việc tại đơn vị, do vậy


muốn sử dụng được thì phải đào tạo lại. Ngồi ra, trình độ ngoại ngữ của họ vẫn cịn yếu, kỹ năng giao
tiếp còn hạn chế. Thực trạng này dưới một giác độ nào đó phản ánh được hệ quả của phương pháp đào
tạo ở các cơ sở dạy nghề hiện nay. Tuy nhiên, những tồn tại trên các nhà tuyển dụng cũng phải gánh
một phần trách nhiệm của mình.
Chủ trương xã hội hoá kinh doanh du lịch là một việc làm rất đúng của nhà nước ta trong bối
cảnh hội nhập hiện nay. Tuy nhiên, để chính sách xã hội hoá kinh doanh du lịch gắn liền với mục tiêu
phát triển bền vững của ngành du lịch địa phương nói riêng và kinh tế của thành phố nói chung, địi hỏi
chính quyền địa phương, các cơ quan hữu quan cần thắc chặt hơn nữa khâu kiểm tra, đánh giá, thẩm
định và cấp phép kinh doanh cho các DN du lịch trên địa bàn thành phố. Có như vậy mới loại bỏ dần
những đơn vị kinh doanh cơ hội, manh mún, nhỏ lẻ. Vì đây chính là những yếu tố gây xáo trộn rất lớn
về thị trường LĐ trong ngành du lịch cả về số lượng lẫn trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Một thực tế
mà chúng ta thấy là do quy mơ kinh doanh của một số DN cịn hạn chế, nên khả năng chịu sự tác động
bởi tính thời vụ và sự cạnh tranh không ngang sức giữa các DN lớn nhỏ khác nhau là vấn đề không thể
tránh khỏi, từ đó ảnh hưởng ít nhiều đến tính bền vững của DN. Với tình thế trên một số DN nhỏ lẻ
khơng có nhu cầu sử dụng LĐ lâu dài, thậm chí họ ‘khơng cần tuyển dụng LĐ được đào tạo qua trường
lớp” mà chỉ tuyển dụng những LĐ phổ thơng có ngoại hình dễ nhìn và sẵn sàng chấp nhận được trả
một mức lương thấp. Chính làn sóng LĐ phổ thơng này đã làm mất đi khơng ít cơ hội làm việc của
những LĐ lành nghề, làm cho mặt bằng thu nhập của nhân viên phục vụ du lịch tại Đà Nẵng trở nên
thấp xuống. Thực trạng trên một mặt ảnh hưởng đến tinh thần và thái độ cống hiến của nhân viên đối
với doanh nghiệp, mặt khác làm nhiều học viên đang theo học ở các cơ sở đào tạo nghề du lịch trở nên
hoang mang, lo lắng, mất niềm tin về tương lai của nghề mà mình đang theo đuổi.
Vậy để phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn LĐ trong lĩnh vực du lịch, có khả năng đáp ứng

được u cầu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo chúng tơi các cơ sở dạy nghề, các DN du lịch và
cơ quan hữu quan của thành phố Đà Nẵng cần phải quan tâm đến những việc sau:
Một là, phát triển hệ thống đào tạo nghề du lịch có khả năng cung cấp cho xã hội một đội ngũ
LĐ đơng đảo, có trình độ cần thiết theo một cơ cấu thích hợp, có khả năng thích ứng nhanh với mọi
biến đổi của mơi trường có trình độ tồn cầu hóa ngày càng cao, đồng thời phải thường xuyên cập nhật
các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho đội ngũ LĐ trong du lịch của thành phố. Ngồi việc nâng cao
tính năng động, chủ động của các cơ sở dạy nghề du lịch, các hoạt động đào tạo gắn liền với địa chỉ sử
dụng, gắn với nhu cầu thực tiễn, nghĩa là phải chuyển từ "có gì dạy nấy" sang dạy nghề phải gắn với
nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội, đồng thời vừa tạo điều kiện, vừa tạo sức ép đối với đội ngũ cán bộ
giảng dạy phải tự nâng cao trình độ lý thuyết và tay nghề, buộc các cơ sở đào tạo cũng như các giáo
viên trực tiếp tham gia đào tạo, bồi dưỡng phải tính tốn hiệu quả của cơng tác đào tạo; thực hiện
những hình thức khuyến khích vật chất đối với giáo viên có trình độ cao.
Hai là, phải có chế tài đối với các nhà tuyển dụng, bằng cách nào đó để các DN cần tuyển dụng
LĐ phải đặt yêu cầu trước với các cơ sở đào tạo nghề và phải có đóng góp với nơi đào tạo LĐ cho
mình, chỉ có thế các DN mới trở thành người "cấy trồng", "thâm canh" chứ không phải là người "hái
lượm" như khơng ít DN hiện tại. Mặt khác, DN cần quan tâm đến đời sống của người LĐ, trả lương
hợp lý theo vị trí cơng việc họ đảm nhiệm, xây dựng văn hố DN. Vấn đề tạo mơi trường làm việc thân
thiện giữa cấp trên và cấp dưới cũng là điều rất quan trọng. Và chỉ có như vậy thì dịng chảy LĐ trong
nghề du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng mới ổn định, xã hội mới phát triển hài hoà.


VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA
Phạm Thị Hoa
Bộ mơn Lý luận chính trị
Đối với chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì “quan hệ sản xuất” là một trong những khái niệm cơ bản,
góp phần phản ánh cấu trúc và logic vận động của các hình thái kinh tế - xã hội. Lênin cho rằng: “Chỉ
có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất (QHSX) và đem những QHSX vào trình độ
của những lực lượng sản xuất (LLSX) thì ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát
triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. [1.163].

QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất). Trong
quá trình sản xuất nảy sinh nhiều mối quan hệ, nhưng ở đây ta chỉ xét ba mối quan hệ cơ bản mà
C.Mác coi đó là ba mặt của QHSX. QHSX gồm ba mặt cơ bản sau đây:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất: Nói lên rằng trong q trình sản xuất, người lao động
đang sử dụng những TLSX đó của ai, và ai là người có quyền định đoạt TLSX đó. Trong QHSX, quan
hệ sở hữu đối với TLSX đóng vai trị quyết định vì nó quyết định bản chất của QHSX.
- Quan hệ trong tổ chức quản lý và phân cơng lao động: Nói lên địa vị và vai trị của các tập
đồn khác nhau, nói lên sự trao đổi giữa các tập đoàn xã hội với nhau. Tuy phụ thuộc vào quan hệ sở
hữu đối với TLSX, nhưng trong thực tế quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân cơng lao động cũng có
vai trị rất quan trọng. Ngay cả khi chế độ sở hữu chưa có gì thay đổi, nhưng nếu có một phương thức
quản lý hợp lý thì sản xuất vẫn có bước phát triển.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động: Là cách thức phân phối kết quả sản xuất cho những
quan hệ với q trình đó, điều đó phụ thuộc vào quan hệ của họ đối với TLSX, nhưng nếu phân phối
công bằng sẽ thúc đấy quá trình sản xuất phát triển.
Ba mặt nói trên quan hệ hữu cơ với nhau, khơng tách rời nhau. Trong đó quan hệ sở hữu đối với
tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với những quan hệ khác. Bản chất bất kỳ QHSX nào cũng
đều phụ thuộc vào vấn đề TLSX chủ yếu trong xã hội giải quyết như thế nào.
QHSX có vai trị to lớn trong sự phát triển xã hội. Khi QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX tạo thành quy luật thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Cùng với quá trình phát triển của lực lượng
sản xuất, QHSX phù hợp đã thúc đẩy xã hội loài người lần lượt phát triển qua năm hình thái kinh tế xã hội: Công xã nguyên thủy (Cộng sản nguyên thủy), Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa
và Xã hội chủ nghĩa.
Vậy QHSX có vai trị như thế nào trong sự phát triển nền kinh tế trị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay?
Ở nước ta, nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định từ Đại hội
VII: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa” và được tiếp
tục khẳng định qua các Đại hội VIII, IX và X.
Do điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của nước ta còn thấp cả về LLSX và QHSX,
nên việc xây dựng từng bước QHSX mới để thúc đẩy sản xuất phát triển và xã hội phát triển là một yêu
cầu tất yếu. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH tính đan xen tác động lẫn nhau trong QHSX thể hiện ở
chỗ sự tồn tại của nhiều QHSX: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà

nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi đã phát huy tác dụng và đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát
triển.


Trong các thành phần kinh tế trên, Đảng ta đã xác định kinh tế nhà nước phải đóng vai trị chủ
đạo. Kinh tế nhà nước phải thực sự nắm giữ những ngành, những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, mũi nhọn
phải đi đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu qủa. Kinh tế nhà nước phải không ngừng
tăng cường, cũng cố và phát triển làm chỗ dựa để nhà nước thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết,
quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN. Cùng với kinh tế hợp tác (nòng cốt là hợp tác xã)
dần dần trở thành nền tảng của nền kinh quốc dân và chế độ xã hội mới. Đối với kinh tế tập thể, đây là
thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể về TLSX. Kinh tế tập thể phát huy được sức mạnh
tập thể mà từng cá nhân khơng thể có được. Kinh tế tập thể sẽ không ngừng củng cố và phát triển, cùng
với kinh tế nhà nước sẽ trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phải đổi mới kinh tế tập thể làm
cho nó trở nên đa dạng phong phú hơn, có như thế mới huy động vốn dưới nhiều hình thức và làm ăn
có hiệu quả hơn.
Một đất nước vừa phát triển theo định hướng XHCN lại vừa thừa nhận sự tồn tại và phát triển của
thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Điều đó khơng phải là nghịch lý, vấn đề đặt ra ở đây chúng ta sử
dụng nó như thế nào để nhanh chóng phát triển LLSX mà vẫn xây dựng đất nước theo định hướng
XHCN. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước được Đảng ta chủ trương áp dụng rộng rãi phổ biến các
hình thức kinh tế tư bản nhà nước để phát triển LLSX theo định hướng XHCN. Đối với các thành phần
kinh tế khác, Đảng ta xác định cần có sự hướng dẫn, hướng kinh tế cá thể, tiểu chủ theo lợi ích thiết
thân và nhu cầu phát triển, từng bước đi vào làm ăn hợp pháp một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh
cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Mặt khác, khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đi vào
con đường liên doanh với nhà nước, bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp, tạo mối quan
hệ hợp tác cùng có lợi cho chủ và thợ. Để thực hiện cơng nghiệp hố (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất
nước, chúng ta cần sử dụng kinh tế tư bản nhà nước như một công cụ hữu hiệu, bắt nhà tư bản phải cày
trên “mảnh đất vô sản” biến thành phần kinh tế tư bản nhà nước thành “một trợ thủ đắc lực cho
CNXH”. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi là thành phần kinh tế mới xuất hiện trong những năm gần
đây ở nước ta, sự phát triển của thành phần kinh tế này cho phép chúng ta tranh thủ được khối lượng to
lớn từ nước ngồi về vốn, cơng nghệ hiện đại, kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh tế, mở rộng thị trường

nước ngồi, giải quyết việc làm, trong nước, góp phần khai thác và sử dụng hiệu quả hơn tiềm năng
kinh tế ở nước ta.Vì thế, chủ chương của nhà nước là tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế
này phát triển; hướng vào xuất khẩu.
Như vậy, chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của Đảng ta thật sự khơi dậy
tiềm năng của các thành phần kinh tế. Tính tích cực chủ động sáng tạo của của nhân dân được phát
huy, sản xuất, kinh doanh phát triển và đã thật sự thúc đẩy LLSX phát triển, đời sống nhân ổn định và
phát triển. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết cho chế
độ mới thì việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống QHSX
phù hợp”.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển QHSX chúng ta cũng có những thiếu sót, đúng
như Đại hội VIII của Đảng ta đã đánh giá: “Trong thời gian qua việc lãnh đạo QHSX, vừa có phần lúng
túng, vừa có phần bng lỏng, chậm tháo gở các vướng mắc về cơ chế, chính sách, để tạo động lực và
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò trong
nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là chậm, chưa quan tâm tổng
kết thực tiễn, chưa kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác xã để hợp tác xã ở
nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn hình thức, cản trở sản xuất phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính
sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kinh
tế này, quản lý liên doanh với nước ngồi cịn nhiều sơ hở”. [4.65-66]. Vì thế, để phát triển QHSX khai
thác tốt vai trò của QHSX đối với sự phát triển kinh tế ở nước ta, cần phải có những giải pháp thích
hợp.
Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của QHSX trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta


Thứ nhất, việc xây dựng QHSX ở nước ta phải xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội của đất
nước, từ nhận thức tính quy luật từ nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn và những đặc điểm của thời
kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Thứ hai, trong xây dựng hoàn thiện QHSX mới cần chú trọng cả ba mặt: Chế độ sở hữu, chế độ
quản lý và chế độ phân phối:
- Về sở hữu, vẫn sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành

phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá
hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng
sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát
triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc, tránh nóng vội xây
dựng ồ ạt mà khơng tính đến hiệu quả như trước đây.
- Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế
hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý
kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và tồn thể
nhân dân.
- Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng hố các hình
thức phân phối. "Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng
thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”. Cơ chế phân phối
này vừa tạo động lực kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ,
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Thứ 3, phải duy trì tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta, tức là phải
thực hiện tăng trưởng kinh tế phải đi đơi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai
trị chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Tóm lại: Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa thể
hiện trình độ tư duy, và vận dụng của Đảng ta về quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây cũng chính là mơ hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
----------------------------------------1. V.I.Lênin- Toàn tập, tập 4. Nxb tiến bộ Mát- xcơ va, 1974. (tiếng việt)
2. Phan thanh Phố- Xây dựng QHSX trong thời kỳ đẩy mạng CNH, HĐH. Tạp chí cộng sản, số 2,
1998.
3. Trương Hữu Hồn. Tìm hiểu tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về quy luật phù hợp của QHSX với

LLSX. Tạp chí triết học, số 3, 1994.
4. Đảng cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1991
5. Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI. VII. VIII, IX và X.
6. Tạp chí triết học các số 2008.

SỬ DỤNG HÌNH TƯỢNG VĂN HỌC ĐỂ MINH HỌA
TRONG BÀI GIẢNG ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG


CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Trần Đình Bình
Bộ mơn Lý Luận Chính Trị

1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong giai đoạn hiện nay, việc dạy và học học phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản
Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trong các trường cao đẳng, đại học, góp phần bồi dưỡng niềm
tin, ý thức trách nhiệm của sinh viên với Đảng và dân tộc. Đồng thời, sinh viên sẽ vận dụng những
hiểu biết của mình về những chủ trương của Đảng trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội vào
hoạt động nghề nghiệp và cuộc sống.
Để nâng cao hiệu quả dạy và học đối với học phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, đã có nhiều phương pháp, nhiều sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng, trong đó việc sử
dụng hình tượng văn học để minh họa trong bài giảng là một việc làm cần thiết. Văn kiện Đại hội
lần thứ VI (12/1986) của Đảng đã khẳng định “khơng một hình thái tư tưởng nào có thể thay thế
được văn học và nghệ thuật trong việc tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con
người trong quá trình phát triển của cách mạng"( Trích Báo cáo Chính trị Đại hội VI).
Hình tượng văn học sở dĩ có sức thuyết phục cao là vì trong quá trình sáng tạo hình tượng, nhà
văn nắm bắt được bản chất trong nhiều sự vật, hiện tượng đồng loại để rồi từ đó làm nổi bật những
nét bản chất trong muôn vàn sự vật hiện tượng đồng loại, và rồi thể hiện những nét bản chất ấy qua
một hình tượng cụ thể. Sự thể hiện quy luật đời sống qua cái đơn nhất làm cho hình tượng vừa có

tính khái qt vừa có tính cụ thể. Mặt khác nhà văn bao giờ cũng tái hiện đời sống dưới ánh sáng lợi
ích và lý tưởng của một giai cấp, của một thời đại nhất định. Khi xây dựng hình tượng họ biểu hiện
trong đó một thái độ, một cảm xúc riêng, nghĩa là họ hiện thân vào hình tượng. Các ngành khoa học
khác phản ánh hiện thực khách quan bằng các khái niệm, phán đốn, những tiền đề định lý hoặc
cơng thức. Qua hình tượng phản ánh của các tác phẩm văn học đó, người đọc hình dung được cuộc
sống một cách cụ thể, cảm tính. Dưới ngịi bút của những nhà văn thực sự tài năng thì một nhân vật
là một điển hình. Đối với độc giả, mỗi điển hình là một “người lạ quen biết”.
2. SỬ DỤNG MINH HỌA.
Trong quá trình giảng dạy, bản thân đã sử dụng một vài hình tượng văn học tiêu biểu trong các
tác phẩm mà sinh viên đã được học ở chương trình phổ thơng để minh họa. Sau đây là một vài ví dụ
cụ thể.
Ví dụ 1: Khi nói về tình hình giai cấp và sự phân hoá giai cấp trong xã hội Việt Nam do sự tác
động bởi chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (Chương
I: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng – Xã hội Việt Nam
dưới sự thống trị của thực dân Pháp). Để minh họa người nông dân Việt Nam, do tác động của
chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân pháp và chính sách bóc lột của chính quyền
tay sai, giảng viên có thể minh họa số phận những nhân vật: chị Dậu (Tác phẩm Tắt Đèn - Ngơ Tất
Tố); Chí Phèo (Tác phẩm Chí Phèo - Nam Cao)…những người nông dân Việt Nam bị bần cùng
không những về cuộc sống vật chất mà cả tâm hồn. Chính sách bóc lột của thực dân Pháp và chính
quyền tay sai đã làm cho gia đình chị Dậu rơi vào cảnh khốn cùng, phải bán cả con gái và ổ chó để
lấy tiền nộp sưu cho chồng, cịn Chí Phèo từ một anh thanh niên nông thôn biết tự trọng nhân cách
đã trở thành kẻ chuyên “rạch mặt ăn vạ” lúc nào khơng hay.
Ví dụ 2: Một trong những khó khăn của cách mạng Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, đó là
nạn đói, một bức tranh nơng dân trong những năm bị cái đói hồnh hành của một phần tư đất nước,
cứ như rõ mồn một (Tác phẩm Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân). Nhân dân lao động bị đói, tiều tuỵ
đáng thương cứ hiện lên trước mắt. “Cái đói đã tràn về” trẻ con vì đói “chúng ngồi ủ rũ khơng buồn
nhúc nhích”. Một cọng rau cho đỡ đói cũng khơng, đâu tới hạt cơm hạt thóc... bởi thế những góc


tường, phố chợ người đói nằm “la liệt như ngã rạ” càng kinh tởm và đớn đau khi có “cái mùi gây gây

của xác người chết”. Nhân vật Tràng qua trang viết của nhà văn Kim Lân hiện lên với đầy đủ những
gì chân thật nhất của người nơng dân - người nơng dân bị đói khát: “Chiếc áo vắt trên vai, dường
như mỏi mệt, vật vã của buổi chiều đè nặng trên cái lưng to của hắn”.
Ví dụ 3: Nói về quan điểm sang tác, tư tưởng của tầng lớp trí thức trước và sau cách mạng
tháng Tám, giảng viên có thể gợi lên cho sinh viên thấy diễn biến tâm lý của người nơng dân: Chị
Dậu, Chí Phèo, Tràng (Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân) cũng là diễn biến tâm lý của nhà văn, đại
diện cho tầng lớp trí thức trước và sau cách mạng. Nếu như sự bế tắc trong tư tưởng của tầng lớp trí
thức tiểu tư sản trước cách mạng về con đường giải phóng nỗi thống khổ cho chính mình, cho thân
phận của người nông dân và dân tộc được thể hiện bằng hành động phản kháng của Chí Phèo đâm
chết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình và tiền đồ của chị Dậu tối đen như mực. Ngược lại, dù
trong những ngày đói khổ sau cách mạng tháng Tám, bà cụ Tứ (mẹ Tràng), Tràng và thị vợ mới
“nhặt” được, sau những bữa ăn cháo cám, Tràng nhớ lại lá cờ đỏ và đồn người đói đi phá kho thóc
Nhật mà “hắn” mới gặp hôm nào. Với Tràng, hạnh phúc muộn màn đến bất ngờ, lòng anh chứa chan
hy vọng về một sự đổi đời. Tâm trạng của các nhân vật này trong từng tác phẩm, đã nói lên sự thay
đổi trong quan điểm sáng tác của của nhà văn trước những thay đổi hiện thực của cuộc sống.
Ví dụ 4: Minh hoạ về quan điểm của Đảng xây dựng nền “văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc”, “bản sắc dân tộc” bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống, bền vững của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm. Đó là lịng u nước, ý chí tự lực tự cường,
tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết với cá nhân gia đình - làng xã - Tổ quốc…Tuy nhiên
trong thời kỳ mở cửa hội nhập hiện nay, những giá trị đó đã dần mai một, thay vào là những thói ích
kỷ, chạy theo đồng tiền, chức vị, phủ nhận những giá trị truyền thống. Tác phẩm “Mùa lá rụng trong
vườn” của nhà văn Ma Văn Kháng (1982), là một trong những tác phẩm "tiền trạm" của đổi mới mà ở
đó chứa đựng nhiều dự báo sáng suốt. Trong gia đình ơng Bằng xuất hiện hai con người nổi loạn muốn
hê tung tất cả, phủ định sạch trơn mọi chuẩn mực đạo đức truyền thống là Cừ và Lý. Họ chỉ biết chạy
theo dục vọng cá nhân, chạy theo đồng tiền, thoát ly truyền thống, phá vỡ mọi chuẩn mực đạo đức xã
hội… Chỉ khi đến được “miền đất hứa” thì Cừ mới tỉnh ngộ và nhận ra rằng “Mỗi người chỉ có thể
thuộc về một dân tộc nhất định”, “Phá vỡ đạo đức thì gặp ngay hung bạo. Khinh rẻ giá trị tinh thần thì
đời sống trống rỗng, hoang tàn”… Như người đi vào đường hầm, càng vào sâu càng bế tắc, Cừ đã chọn
cái chết nơi đất khách quê người để chuộc lỗi lầm của mình. Bản tính Lý là người thích quyền hành,
thèm sai khiến người khác, tự coi mình là quan trọng, là hơn người. Sự “năng động, tháo vát” của chị

bị lãnh đạo xí nghiệp lợi dụng triệt để. Lý nhầm tưởng những hành động “đi cửa sau” của mình là thức
thời, năng động phù hợp với xu thế thời đại. Chị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn hoá vừa thiếu một
người tri kỷ, định hướng nâng đỡ về tinh thần, lại chịu tác động mạnh mẽ những mặt trái của kinh tế thị
trường, khiến chị không cưỡng lại được sự cám dỗ vật chất, lối sống vị kỷ, thực dụng, bản năng.
3. Ý NGHĨA VÀ TÁC DỤNG
- Trước hết cần phải khẳng định rằng việc sử dụng hình tượng văn học trong dạy học học phần
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam góp phần khắc sâu sự kiện lịch sử và bản chất của
sự kiện lịch sử;
- Cũng cố những nhận định, lý luận của Đảng về những vấn đề của cách mạng Việt Nam: về xây
dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; Nghệ thuật vì nhân sinh…;
- Góp phần giáo dục tình cảm, niềm tin cho sinh viên. Sử dụng những hình tượng văn học để
minh họa một kết luận trong bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tác động
tích cực đến tâm lý, tình cảm của người học, đây cũng là một biện pháp để góp phần giáo dục cho sinh
viên. “Thiếu tình cảm của con người thì khơng bao giờ và cũng khơng thể có những tìm tịi của con
người về chân lý” (Lênin);
- Kích thích làm tăng sự hứng thú để tạo điều kiện đạt hiệu quả cao trong dạy học học phần;
- Tiếp tục phát triển khả năng khả năng thưởng thức, cảm thụ nghệ thuât và văn hóa đọc cho sinh
viên.


4. MỘT SỐ YÊU CẦU CƠ BẢN.
Việc sử dụng hình tượng văn học vào dạy và học học phần Đường lối cách mạng của Đảng
phải phù hợp với những yêu cầu sau:
- Rèn luyện kỹ năng có liên quan đến việc sử dụng các kiến thức đã học, ở đây là thưởng thức,
cảm thụ văn học;
- Sự phù hợp với trình độ, yêu cầu, điều kiện của sinh viên. Những hình tượng văn học được vận
dụng phải nằm trong khung chương trình văn học mà học sinh đã được học ở cấp II, cấp III;
- Phải bám sát những yêu cầu giáo dục và giáo dưỡng trong bài giảng Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với học sinh chứ không quá sa đà vào nghiên cứu tác phẩm văn học,
không biến giờ dạy thành những buổi nói chuyện về văn học sử, làm lỗng nội dung và nhiệm vụ của

bài học;
- Hình tượng điển hình phải phản ánh, minh họa một kết luận, một vấn đề cơ bản (đoạn văn nào
trong tác phẩm cần trích đọc, đoạn hội thoại nào của nhân vật cần trích dẫn), có sức hấp dẫn, thuyết
phuc để có tác dụng giáo dục cao, gây hứng thú đối với sinh viên.
- Để việc sử dụng hình tượng văn học vào hoạt động dạy và học đạt được kết quả cao, cần phải có
sự chuẩn bị có kế hoạch chu đáo, như lập bảng thống kê các tác phẩm văn học có hình tượng điển
hình phù hợp với nội dung các bài giảng trong học phần.
Những yêu cầu trên, được đúc rút từ kinh nghiệm bản thân, chỉ là cơ sở ban đầu cho việc xây
dựng, hình thành các biện pháp sư phạm sáng tạo và vận dụng phù hợp vào điều kiện dạy và học đối
với học phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tài liệu đã tham khảo:
1. UBKHXH&NV - Văn học - cuộc sống - nhà văn.HN.1978
2. Phương Lựu (chủ biên) - Lý luận văn học.HN.1997
3. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986)
4. Bộ GDĐT - Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Việt Nam. HN.2008
5. Giáo khoa ngữ văn lớp 8, 9 và 12 - NXBGD.

PHÂN BIỆT THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ TRANH CHẤP THƯƠNG
MẠI GIỮA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ TOÀ ÁN
Th.s Đặng Xuân Trường
Trưởng Bộ môn Cơ bản
Theo hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.2 mục 1 Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP ngày
31/7/2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn thi hành một số
quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại: "Khi được nguyên đơn cho biết bằng văn bản sẽ khởi
kiện yêu cầu Toà án giải quyết hoặc khi được Toà án thông báo về việc nguyên đơn đã nộp đơn kiện
yêu cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp mà trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn
bản của nguyên đơn hoặc thông báo của Tồ án bị đơn khơng phản đối (được coi là các bên có thoả
thuận mới lựa chọn Tồ án giải quyết vụ tranh chấp thay cho thoả thuận trọng tài)..." thì mặc dù trước
đó các bên đã có thoả thuận trọng tài, nhưng hiện tại vụ tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án nhân dân.

Hiện nay, đang có 2 quan điểm hồn tồn khác nhau đối với hướng dẫn trên đây của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:


- Quan điểm thứ nhất cho rằng, hướng dẫn trên đây của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao không phù hợp với quy định tại điều 5 Pháp lệnh trọng tài thương mại là "Trong trường hợp vụ
tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Tồ án thì Tồ án phải từ chối thụ lý,
trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu".
Quan điểm này cho rằng, nếu vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, mà thoả thuận đó khơng
thuộc trường hợp bị vơ hiệu, thì nếu một bên khởi kiện vụ án tại Tồ án, cịn bên kia khơng có ý kiến
bằng văn bản (dù có nhận được hay khơng thơng báo của ngun đơn hoặc của Tồ án về việc nguyên
đơn đã nộp đơn kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp), Toà án sẽ vẫn khơng khơng có thẩm
quyền giải quyết vụ tranh chấp này.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, hướng dẫn trên đây của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân dân
tối cao là phù hợp với thực tiễn, không trái pháp luật. Quan điểm này cho rằng, nếu vụ tranh chấp đã có
thoả thuận trọng tài, mà thoả thuận đó khơng thuộc trường hợp bị vơ hiệu, nhưng sau đó nếu một bên
khởi kiện vụ án tại Tồ án; cịn bên kia (khi nhận được thông báo của nguyên đơn hoặc của Toà án về
việc nguyên đơn đã nộp đơn kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp) khơng phản đối (bằng văn
bản) thì Tồ án có quyền thụ lý vụ án để giải quyết. Nếu đương sự có ý kiến bằng văn bản khơng đồng
ý với việc khởi kiện đó của ngun đơn (khơng đồng ý để Tồ án giải quyết vụ tranh chấp) thì Tồ án
phải thực hiện đúng quy định tại điều 5 Pháp lệnh Trọng tài thương mại và hướng dẫn tại tiểu mục 1.1
mục 1 Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tồ án nhân dân tối cao là "...khi có
người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại thì Tồ
án yêu cầu người khởi kiện cho biết trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thoả thuận trọng
tài hay khơng. Đồng thời Tồ án phải kiểm tra, xem xét các tài liệu gửi kèm theo đơn kiện để xác định
vụ tranh chấp đó các bên có thoả thuận trọng tài hay khơng. Nếu có căn cứ cho thấy vụ tranh chấp đó
các bên đã có thoả thuận trọng tài thì Tồ án căn cứ vào quy định tương ứng của pháp luật tố tụng để
trả lại đơn kiện cho người khởi kiện. Trong trường hợp sau khi thụ lý vụ án Toà án mới phát hiện được
vụ tranh chấp đó các bên đã có thoả thuận trọng tài, thì Tồ án căn cứ vào quy định tương ứng của
pháp luật tố tụng ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả lại đơn kiện và các tài liệu gửi kèm

theo đơn kiện cho đương sự"
Qua nghiên cứu, chúng tơi hồn tồn nhất trí với quan điểm thứ nhất. Bởi lẽ, trên thực tế, các bên
khi tham gia giao dịch thường lường trước khả năng có thể có tranh chấp phát sinh và cùng nhau thỏa
thuận một điều khoản về trọng tài hoặc đưa điều khoản mẫu về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài của
một tổ chức trọng tài nào đó vào hợp đồng (ví dụ: Mọi tranh chấp phát sinh giữa hai bên trước hết được
giải quyết thơng qua việc thương lượng, hồ giải. Nếu thương lượng, hồ giải khơng thành sẽ đưa vụ
tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Thái Bình Dương (PIAC) và
tuân theo quy tắc tố tụng trọng tài của PIAC). Do đó, thỏa thuận trọng tài chính là cơ sở pháp lý ràng
buộc các bên về việc các bên đã thống nhất lựa chọn trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp. Như
vậy, chỉ khi nào cả hai bên có một thỏa thuận lại về việc lựa chọn Tịa án thì Tịa án mới có thẩm quyền
đứng ra giải quyết vụ tranh chấp. Còn nếu một bên tự đứng ra khởi kiện u cầu tịa giải quyết (bên
khởi kiện có thơng báo về việc này cho phía bên kia hoặc Tồ án có thơng báo cho phía bên kia về việc
ngun đơn đã nộp đơn kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp ) thì mặc dù phía bên kia khơng
trả lời thì Tịa án cũng khơng được thụ lý để giải quyết vì lẽ sự "im lặng" của phía bên kia cũng là một
câu trả lời rằng: Hai bên đã thỏa thuận từ đầu lựa chọn trọng tài để giải quyết thì chỉ có cơ quan trọng
tài mới có quyền đứng ra giải quyết vụ tranh chấp giữa hai bên (trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận
rằng im lặng là đồng ý). Như vậy, qua hướng dẫn của TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định
của pháp lệnh Trọng tài thương mại chúng tôi nhận thấy Tịa án đang "ơm thêm việc" cho mình và có
thể gây phức tạp thêm cho việc xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp. Do đó,
TANDTC nên hướng dẫn thực hiện đúng tinh thần quy định tại điều 5 Pháp lệnh trọng tài thương mại
là: "Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Tồ án thì
Tồ án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vơ hiệu" và Tịa án chỉ được thụ lý giải


quyết vụ tranh chấp nếu cả hai bên tranh chấp có một thỏa thuận mới từ bỏ việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài và quay qua lựa chọn Tòa án là cơ quan sẽ đứng ra giải quyết vụ tranh chấp giữa hai bên.

MÃ SỐ MÃ VẠCH VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
Trương Bích Ngọc
Khoa Quản trị kinh doanh

1. Mã số mã vạch là gì?
Mã số mã vạch (MSMV)là một trong các công nghệ nhận dạng và thu thập dữ liệu tự động, có
thể đưa vào áp dụng trong đa ngành công nghiệp. Trên thế giới, MSMV đã được đưa vào áp dụng đại
trà từ hơn 30 năm nay trong bán lẻ cũng như trong suốt chuỗi cung ứng sản phẩm và trong các ngành
kinh tế khác như: Quốc phòng, y tế, giao thông vận tải, thể thao và truy tìm nguồn gốc…
Mã số mã vạch của hàng hóa:
MSMV của hàng hóa bao gồm 2 phần: Mã số của hàng hóa và mã vạch phần thể hiện mã số
bằng vạch để cho máy đọc.
- Mã số hàng hóa: Là một dãy con số dùng để phân định hàng hóa, áp dụng trong q trình
ln chuyển hàng hóa từ người sản xuất, qua bán buôn, lưu kho, phân phối, bán lẻ tới người tiêu dùng.
Mã số hàng hóa được xem như là “thẻ căn cước” của hàng hóa, giúp ta phân biệt được nhanh chóng
và chính xác các loại hàng hóa khác nhau.
Mã số hàng hóa có các tính chất sau:
+ Nó là con số duy nhất đặc trưng cho hàng hóa. Mỗi loại hàng hóa được nhận diện bởi một dãy
số và mỗi dãy số chỉ tương ứng với một loại hàng hóa.
+ Bản thân dãy số chỉ là một dãy số đại diện cho hàng hóa, khơng liên quan đến đặc điểm của
hàng hóa, nó khơng phải là số phân loại hay chất lượng của hàng hóa
- Mã vạch của hàng hóa: Là một nhóm các vạch và khoảng trống song song đặt xen kẽ, dùng
để thể hiện mã số dưới dạng máy quét (scaner) có thể đọc được.
Mã vạch có tính chất: Chỉ thể hiện các con số (từ 0 đến 9) với chiều dài cố định (13 hoặc 8 con
số)
2. Tình hình sử dụng mã số mã vạch ở Việt Nam:
Ở Việt Nam mới bắt đầu đưa công nghệ MSMV vào áp dụng từ năm 1995 đến nay, phần lớn
phục vụ cho hàng xuất khẩu và để phục vụ cho bán lẻ tại các siêu thị và cửa hàng tự chọn. Từ chỗ lúc
đầu chỉ có hơn 40 doanh nghiệp sử dụng MSMV đến nay ta đã có hàng vạn mặt hàng mang mã số 893
của quốc gia Việt Nam đang lưu thông trên thị trường trong và ngoài nước. Ngoài lĩnh vực kinh
doanh thương mại, ở Việt Nam MSMV đã bắt đầu đưa vào áp dụng trong các ngành khác như: Trong
hàng khơng để quản lí hành lí và hàng hóa, trong y tế để quản lí khám bệnh…Hơn nữa, MSMV cũng
đang được nghiên cứu triển khai áp dụng trong quản lí nhân sự (thẻ nhận dạng), trong truy tìm nguồn
gốc sản phẩm, hàng hóa và trong một số lĩnh vực khác như quản lí hậu cần, hoạt động hải quan.

Tính đến giữa năm 2008 đã có 7755 cơ sở của Việt Nam đăng kí sử dụng MSMV tại Tổng cục
Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng. Trong những năm gần đây, hàng năm có khoảng 1000 doanh
nghiệp mới đăng kí sử dụng MSMV. Tốc độ tăng trưởng số doanh nghiệp đăng kí sử dụng MSMV
hàng năm của Việt Nam là khá cao so với một số nước trong khu vực. Tổng số cơ sở sử dụng MSMV
trên tồn thế giới tính đến nay có khoảng hơn 1 triệu doanh nghiệp. Không phải sản phẩm nào cũng


cần sử dụng MSMV, những hàng hóa phần lớn là hàng tiêu dùng, thực phẩm bán lẻ…Và các vật
phẩm trong chuỗi cung ứng sản phẩm cần nhận dạng và thu thập dữ liệu tự động mới cần gắn MSMV
để quét nhận dạng và ghi nhận thơng tin dữ liệu. Ví dụ đối với các sản phẩm xây dựng như xi măng,
sắt thép không nhất thiết phải in MSMV trên bao bì và sản phẩm. Do đó việc đăng kí sử dụng MSMV
là tự nguyện, không bắt buộc. Tuy nhiên, khi muốn sử dụng MSMV đầu 893, cần phải đăng kí sử
dụng MSMV tại Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, theo đúng các qui định của Bộ Khoa
học-Công nghệ tại “Qui định về việc cấp, sử dụng và quản lí MSMV” ban hành kèm theo quyết định
số 15/2006/QĐ-BKHCN.
3. Để sử dụng mã số mã vạch cần tiến hành các bước:
Đăng kí với Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng để được cấp mã số doanh nghiệp.
Sử dụng mã số doanh nghiệp để lập mã địa điểm toàn cầu và các mã số cho sản phẩm và các
đơn vị đóng gói giao nhận, vận chuyển của cơ sở mình theo đúng các tiêu chuẩn Việt Nam hiện hành
Thể hiện mã số thành mã vạch và gắn trên vật phẩm theo đúng qui định về chất lượng mã
vạch và vị trí ghi mã vạch.
Quét mã vạch và kết nối với phần mềm quản lí trong máy tính để thu thập dữ liệu và xử lí
thơng tin dữ liệu theo u cầu thực tế.
4. Việc sử dụng mã số mã vạch có lợi cho doanh nghiệp:
Mở rộng được thị trường do đáp ứng nhu cầu bạn hàng, tức là bán hàng được vào siêu thị và
các thị trường cao cấp khác.
Thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng: Cung cấp đúng loại hàng, đúng chất lượng, đúng
thời gian, qua đó nâng cao được uy tín của doanh nghiệp.
Có được thơng tin chính xác do thu thập các dữ liệu tự động để ra các quyết định chính xác
trong quản lí, sản xuất và kinh doanh

Tiết kiệm được các chi phí khơng cần thiết trong khâu hậu cần và bán hàng. Sử dụng ít nhân
lực và tốn ít thời gian trong khâu kiểm kê tính tốn
Có điều kiện để hội nhập thương mại toàn cầu và quảng bá thương hiệu.
5. Việc các doanh nghiệp sử dụng mã số mã vạch có lợi cho người tiêu dùng:
Việc sử dụng MSMV để bán lẻ giúp thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng do: Được phục vụ
văn minh, được tính tiền nhanh và chính xác. Căn cứ vào cấu trúc của mã số, người tiêu dùng có thể
nhận biết và truy tìm được nguồn gốc xuất xứ hàng hóa khi cần thiết. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm của
Việt Nam có in MSMV nhưng chất lượng mã vạch khơng đảm bảo về kích thước, mật độ và các yêu
cầu khác về chất lượng nên trong thực tế cũng không sử dụng được. Khi mã vạch khơng qt được thì
người bán hàng phải gõ mã số trên bàn phím của máy tính để tính tiền, điều này có thể dẫn đến sai sót
và khách hàng phải chờ đợi lâu.

GIỚI THIỆU VỀ TIÊU CHUẨN IS0 9001
PHIÊN BẢN MỚI NĂM 2008
Ths. Nguyễn Tri Vũ
Hiện nay, hầu hết các chương trình giáo dục của Trường Cao đẳng Thương mại đều có học
phần về quản trị chất lượng, cả bậc trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng. Các học phần này có dẫn
chiếu và giới thiệu cho người học về Tiêu chuẩn ISO 9000 nhằm mục đích trang bị kiến thức cơ bản về
hệ thống quản lý chất lượng để vận dụng vào thực tiễn công tác sau khi ra trường. Nay, với sự ra đời
của bộ tiêu chuẩn mới ISO 9001:2008, Bản tin Khoa học gửi đến bạn đọc, chủ yếu là HSSV những
thơng tin tóm tắt về tiêu chuẩn này để tham khảo.


Sơ lược về Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 được Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế công bố năm 1987. Đây là bộ
tiêu chuẩn về hệ thống chất lượng; nó khơng phải là tiêu chuẩn hay qui định kỹ thuật về sản phẩm. Sự
ra đời của nó đã tạo ra một bước ngoặt trong hoạt động tiêu chuẩn và chất lượng trên thế giới nhờ nội
dung thiết thực và sự hưởng ứng rộng rãi, nhanh chóng của nhiều nước, đặc biệt là các doanh nghiệp.
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 là phương tiện hiệu quả giúp các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng
hệ thống đảm bảo chất lượng ở cơ sở mình, đồng thời cũng là phương tiện mà bên mua có thể căn cứ

vào đó tiến hành kiểm tra người sản xuất, kiểm tra sự ổn định của sản xuất và chất lượng sản phẩm
trước khi ký hợp đồng. ISO 9000 đưa ra các chuẩn mực cho một hệ thống chất lượng và có thể áp dụng
rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất , kinh doanh và dịch vụ. ISO 9000 hướng dẫn các tổ chức cũng như
các doanh nghiệp xây dựng một mơ hình quản lý thích hợp và văn bản hoá các yếu tố của hệ thống
chất lượng theo mơ hình đã chọn.
Triết lý của ISO 9000 về quản lý chất lượng là ''nếu hệ thống sản xuất và quản lý tốt thì sản
phẩm và dịch vụ mà hệ thống đó sản xuất ra sẽ tốt''. Các doanh nghiệp và tổ chức hãy “viết ra những gì
cần làm; làm những gì đã viết; chứng minh là đã làm và sốt xét, cải tiến”.
ISO 9000 có 8 ngun tắc: 1) Hướng vào khách hàng; 2) Sự lãnh đạo; 3) Sự tham gia của mọi
người; 4) Cách tiếp cận theo quá trình; 5) Cách tiếp cận theo hệ thống đối với quản lý; 6) Cải tiến liên
tục; 7) Quyết định dựa trên sự kiện; 8) Quan hệ hợp tác cùng có lợi.
Tính đến nay, ISO 9000 đã trải qua 4 lần công bố, bổ sung và thay thế là vào các năm 1987,
1994, 2000 và gần đây nhất là ngày 14/11/2008. Trong đó, ISO 9001:2000 đã thay thế cho bộ 3 tiêu
chuẩn ISO 9001, 9002 và 9003 (năm 1994). ISO 9001:2000 có tiêu đề là Hệ thống quản lý chất lượng Các yêu cầu, không gọi là Hệ thống đảm bảo chất lượng như lần ban hành thứ nhất và thứ hai. Tiêu
chuẩn ISO 9004:2000 cũng đồng thời được ban hành trên cơ sở soát xét lại tiêu chuẩn ISO 9004:1994.
ISO 9004:2000 được sử dụng cùng với ISO 9001:2000 như là 1 cặp thống nhất các tiêu chuẩn về hệ
thống quản lý chất lượng. ISO 9004:2000 đưa ra các chỉ dẫn về đối tượng áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng ở một phạm vi rộng hơn.

Phiên bản
năm 1994

Phiên bản
năm 2000

Phiên bản
năm 2008

Tên tiêu chuẩn


ISO 9000:1994

ISO 9000: 2000

ISO 9000: 2005

ISO 9001: 1004

ISO 9001: 2008

ISO 9003: 1994

ISO 9001: 2000
(bao gồm ISO 9001/
9002/ 9003)

ISO 9004: 1994

ISO 9004: 2000

Chưa có thay đổi

HTQLCL - Hướng dẫn
cải tiến

ISO 10011:
1990/1

ISO 19011: 2002


Chưa có thay đổi

Hướng dẫn đánh giá
HTQLCL/ Môi trường

ISO 9002: 1994

HTQLCL – Cơ sở & từ
vựng
Hệ thống quản lý chất
lượng (HTQLCL) – Các
yêu cầu

Mặc dù việc chứng nhận theo tiêu chuẩn ISO 9001 là không bắt buộc nhưng ước tính đến nay
đã có hơn một triệu chứng chỉ ISO 9001 đã được cấp cho các tổ chức thuộc các lĩnh vực tư nhân hoặc
nhà nước cho sản xuất và dịch vụ (kể cả giáo dục đào tạo) tại khoảng 175 quốc gia và nền kinh tế.
Những nét mới của Tiêu chuẩn ISO 9001:2008


Trên cơ sở những tiến bộ về quản lý chất lượng, những kinh nghiệm đã đạt được, Tiêu chuẩn
ISO 9001:2008, Quality management system - Requirements (Hệ thống quản lý chất lượng - Các u
cầu), là bản hiệu đính tồn diện nhất bao gồm việc đưa ra các yêu cầu mới và tập trung vào khách hàng.
(Tiêu chuẩn ISO 9004:2000, Hệ thống quản lý chất lượng - Hướng dẫn cải tiến, cũng đang được hiệu
đính và dự kiến sẽ được cơng bố vào năm 2009.)
So với phiên bản năm 2000, ISO 9001:2008 có sự tinh chỉnh, gạn lọc hơn là thay đổi tồn diện.
Nó khơng đưa ra các u cầu mới nào, vẫn giữ nguyên các đề mục, phạm vi và cấu trúc của tiêu chuẩn.
Nó vẫn thừa nhận và duy trì 8 nguyên tắc ban đầu của ISO.
ISO 9001:2008 chủ yếu là làm sáng tỏ các yêu cầu đã nêu trong ISO 9001:2000 nhằm khắc
phục những khó khăn trong việc diễn giải, áp dụng và đánh giá. Nó cũng có một số thay đổi hướng vào
việc cải tiến nhằm tăng cường tính tương thích (nhất quán) với tiêu chuẩn ISO 14001:2004 về hệ thống

quản lý môi trường. Những điểm tiến bộ mới của phiên bản 2008 là:
- Nhấn mạnh sự phù hợp của sản phẩm;
- Cải thiện tính tương thích với các tiêu chuẩn khác;
- Làm rõ hơn các quá trình bên ngồi;
- Diễn đạt rõ hơn các u cầu: 6.4 Môi trường làm việc; 8.2.1 Đo lường sự thỏa mãn của khách
hàng;
- Bổ sung tầm quan trọng của rủi ro;
- Quy định chính xác hơn các yều cầu: Tầm quan trọng của rủi ro; 5.5.2 Đại diện lãnh đạo; 6.2.2
Hiệu lực của các năng lực đã đạt được; 8.5.2. Hiệu lực của các hành động khắc phục; 8.5.3 Hiệu lực
của các hành động phịng ngừa.
Theo thơng báo chung của ISO và Diễn đàn công nhận quốc tế (IAF), tiêu chuẩn mới không
yêu cầu các tổ chức đã áp dụng ISO 9001:2000 phải có nhiều điều chỉnh cho HTQLCL đã được xây
dựng để có thể phù hợp với các yêu cầu trong ISO 9001:2008. Việc chuyển đổi theo tiêu chuẩn mới
cũng là một cơ hội tốt cho các tổ chức nhìn nhận lại thực trạng áp dụng các yêu cầu của ISO
9001:2000, từ đó thực hiện các hoạt động cải tiến nhằm nâng cao hiệu quả của HTQLCL. Các tổ chức
đã áp dụng HTQLCL theo ISO 9001:2000 có hai tiếp cận để lựa chọn cho chuyển đổi chứng nhận:
TUÂN THỦ hay CẢI TIẾN HIỆU QUẢ. Thời hạn để các tổ chức chuyển đổi từ ISO 9001:2000 sang
ISO 9001:2008 tối đa là 24 tháng (đến ngày 14/11/2010).
TUÂN THỦ nghĩa là thực hiện đúng và đầy đủ các yêu cầu của ISO 9001:2008. Cách tiếp cận
này phù hợp với các tổ chức đã hoàn toàn thỏa mãn với hiệu quả của việc áp dụng HTQLCL hiện tại,
hoặc với các tổ chức mới chỉ quan tâm đến việc được chứng nhận mà chưa thực sự coi trọng các giá trị
về quản lý và cải tiến chất lượng mà HTQLCL có thể mang lại.
Áp dụng ISO 9001:2008 theo cách tiếp cận CẢI TIẾN HIỆU QỦA thích hợp với các tổ chức mà hiệu
quả của HTQLCL còn thấp. Trong trường hợp này, chuyển đổi theo ISO 9001:2008 khơng chỉ là để
tn thủ mà cịn quan trọng hơn là áp dụng HTQLCL một cách thực chất, trên cơ sở thực hiện tốt yêu
cầu về cải tiến và nâng cao hiệu quả. Q trình này địi hỏi tổ chức phải thực hiện tốt nhiều việc hơn so
với cách tiếp cận tuân thủ.
Việc lựa chọn tiếp cận thứ nhất hay tiếp cận thứ hai cho dự án chuyển đổi HTQLCL theo ISO
9001:2008 là quyết định của mỗi tổ chức, phụ thuộc vào tình trạng của hoạt động quản lý chất lượng,
nhu cầu nội bộ và mong muốn của lãnh đạo tổ chức.

Để hiểu rõ hơn về ISO 9001:2008, các chuyên gia và tổ chức có thể nghiên cứu “Tài liệu giới
thiệu và hỗ trợ: Hướng dẫn các yêu cầu về tài liệu theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008” của Tiểu ban kỹ
thuật ISO/TC176/SC2 (thuộc Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế) theo địa chỉ
/>Việc tham khảo tài liệu này khơng chỉ hữu ích cho các đơn vị chuẩn bị hoặc đang xây dựng Hệ
thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008, mà cịn cung cấp nhiều thơng tin có giá trị


cho các tổ chức đang áp dụng HTQLCL mong muốn có những điều chỉnh cho phù hợp với các yêu cầu
của tiêu chuẩn mới.
Tại Việt Nam, Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC 176 đang tiến hành soát xét lại TCVN ISO
9001:2000, dự kiến phiên bản tiêu chuẩn quốc gia mới nhất TCVN ISO 9001 sẽ được công bố trong
năm nay.
PHÂN BIỆT HAI PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN HÀNG TỒN KHO:
KÊ KHAI THƯỜNG XUYÊN & KIỂM KÊ ĐỊNH KỲ
SV Nguyễn Thị Thương - Lớp: KT1.2
Đặt vấn đề: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp lựa chọn và áp dụng
1 trong 2 phương pháp hạch toán hàng tồn kho (theo nguyên tắc năm tài chính): phương pháp kê
khai thường xuyên (KKTX) & phương pháp kiểm kê định kỳ (KKĐK). Việc lựa chọn phải thích
hợp và phải thực hiện nhất quán trong niên độ kế toán. Vậy, lựa chọn phương pháp hạch tốn hàng
tồn kho có ảnh hưởng lớn đến tổ chức cơng tác kế tốn của doanh nghiệp. Để xem xét sự ảnh
hưởng của 2 phương pháp này đến tổ chức cơng tác kế tốn của doanh nghiệp, chúng ta cần phân
biệt 2 phương pháp hạch toán hàng tồn kho.
I/ Hàng tồn kho:
- Uỷ ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) là một tổ chức độc lập có mục tiêu nhằm đạt được sự
thống nhất trong các nguyên tắc kế toán mà các doanh nghiệp và các tổ chức trên thế giới sử dụng
để lập Báo cáo tài chính. Uỷ ban này đã xây dựng được hệ thống các chuẩn mực kế tốn cơ bản có
thể vận dụng ở các quốc gia khác nhau trên cơ sở tiêu chuẩn hố và hài hồ đáp ứng xu hướng tồn
cầu hố hiện nay đặc biệt là hài hồ và thống nhất trong việc lập và trình bày các báo cáo tài chính.
Vì vậy có nhiều quốc gia quan tâm đến việc nghiên cứu, xây dựng và công bố các chuẩn mực kế
toán quốc gia trên cơ sở vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế xem xét chuẩn mực kế toán quốc tế

về hàng tồn kho IAS 2 là căn cứ để có thể so sánh với chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS 2) và
những quy định kế tốn hàng tồn kho hiện nay từ đó có những phương hướng hồn thiện.
* Theo chuẩn mực kế tốn Việt Nam (VAS02):
Hàng tồn kho là:
- Những tài sản được giữ để bán trong kỳ sản xuất kinh doanh bình thường
- Đang trong quá trình sản xuất kinh doanh dở dang
- NVL, công cụ dụng cụ để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ.
Hàng tồn kho bao gồm:
- Hàng hoá mua về để bán: hàng tồn kho, hàng mua đang đi đường, hàng gửi đi bán, hàng gửi đi gia
công chế biến.
- Thành phẩm tồn kho và thành phẩm gửi đi bán.
- Sản phẩm dở dang: sản phẩm chưa hoàn thành và sản phẩm hoàn thành chưa làm thủ tục nhập kho
thành phẩm.
- NVL, công cụ dụng cụ tồn kho, gửi đi gia công chế biến và đã mua đang đi trên đường.
- Chi phí dịch vụ dở dang.
Đối chiếu IAS 02 & VAS 02:
Theo kế toán quốc tế IAS 02
1. Phương pháp đánh giá hàng nhập:
- Giá gốc hàng tồn kho gồm:
Tổng chi phí mua gồm:
+ Giá mua ghi trên hố đơn

Theo kế toán Việt Nam VAS 02
1. Phương pháp đánh giá hàng nhập:
- Đối với nguyên vật liệu, hàng hoá mua ngồi:
Giá nhập = giá mua + chi phí mua + chi phí
(thuế nhập khẩu, hao hụt trong định mức…)


+ Các chi phí mua

+ Giảm giá thương mại
Chi phí chế biến gồm:
+ Chi phí trực tiếp liên quan đến sản xuất sản
phẩm.
+ Chi phí sản xuất chung: Định phí và biến phí
- Phân bổ chi phí sản xuất chung
+ Phân bổ biến phí dựa trên tình hình sử dụng
thực tế máy móc thiết bị.
+ Phân bổ định phí dựa trên năng suất trung bình
của thiết bị sản xuất
2. Đối tượng lập dự phòng:
Chủ yếu là các loại hàng tồn kho dùng để bán.
Các loại tồn kho dùng để sản xuất chỉ lập dự
phòng khi bán các thành phẩm sản xuất ra từ các
loại vật tư đó giảm sút trên thị trường.
III/ Phân biệt

- Đối với thành phẩm, sản phẩm dở dang thì chi
phí bao gồm:
+ Chi phí ngun liệu trực tiếp
+ Chi phí nhân cơng trực tiếp
+ Chi phí sản xuất chung: được phân bổ trên
khối lượng sản xuất thực tế chứ không dựa trên
cơ sở năng suất hoạt động bình thường

2. Đối tượng lập dự phịng:
Tồn bộ các loại vật tư, sản phẩm hàng hoá tồn
kho.

1/ Phương pháp kê khai thường xuyên(KKTX):

a) Nội dung:
- Theo dõi thường xuyên, lên tục, có hệ thống;
- Phản ánh tình hình nhập, xuất, tồn của hàng tồn kho;
- Trị giá hàng tồn kho cuối kỳ = trị giá hàng tồn kho đầu kỳ + trị giá hàng nhập kho trong kỳ - trị giá
hàng xuất kho trong kỳ.
b) Chứng từ sử dụng:
- Phiếu nhập kho, phiếu xuất kho;
- Biên bản kiểm kê vật tư, hàng hoá.
2/ Phương pháp kiểm kê định kỳ (KKĐK):
a) Nội dung:
- Không theo dõi, phản ánh thường xuyên, liên tục;
- Chỉ phản ánh hàng tồn đầu kỳ và cuối kỳ, không phản ánh nhập - xuất trong kỳ;
- Trị giá hàng xuất kho trong kỳ = trị giá hàng tồn kho đầu kỳ + trị giá hàng nhập kho trong kỳ - trị
giá hàng tồn kho cuối kỳ. (cuối kỳ mới tính được)
(cuối kỳ kiểm kê, xác định hàng tồn kho; sau đó, kết chuyển trị giá hàng xuất trong kỳ)
b) Chứng từ sử dụng: chứng từ sử dụng như pp KKTX ;
- Tuy nhiên, cuối kỳ kế toán nhận chứng từ nhập xuất hàng hoá từ thủ kho, kiểm tra và phân loại
chứng từ theo từng chủng loại, từng nhóm hàng hố, ghi giá hạch tốn và tính tiền cho từng chứng từ.
c) TK sử dụng:


Số TK
151

152
(153)

154

155


156

157

611
(khơng
có số
dư)

Phương pháp KKTX
Bên Nợ
Bên Có
-hàng mua đang đi
-trị giá hàng mua
đường cuối kỳ chưa
đang đi đường về
về nhập kho
nhập
kho
hoặc
chuyển thẳng giao
cho khách hàng.
- trị giá hàng mua
đang đi đường kỳ
trước phát hiện thiếu
hụt ở kỳ này.
-trị giá thực tế
-trị giá thực tế xuất
NVL, ccdc nhập

kho;
kho;
-thiếu hụt khi kiểm
-trị giá thừa phát
kê;
hiện khi kiểm kê.
-chiết khấu TM được
hưởng khi mua
-chi phí trong kỳ
-giá thành thực tế sản
liên quan đến sản
phẩm nhập kho hoặc
xuất sản phẩm (đối
chuyển bán;
với DN sx sản
-trị giá NVL, hàng
phẩm)
hố gia cơng xong
nhập lại kho.
-trị giá thành phẩm
-trị giá thực tế thành
nhập kho;
phẩm nhập kho;
-trị giá thành phẩm
-trị giá thành phẩm
phát hiện thừa khi
thiếu hụt khi kiểm kê.
kiểm kê.
-trị giá hàng hoá
-xuất kho giao đại lý

mua vào(1561);
hoặc bán cho khách
-chi phí mua hàng
hàng;
hố (1562);
-trị giá hàng hoá phát
-trị giá hàng hoá
hiện thiếu hụt khi
phát hiện thừa khi
kiểm kê;
-các khoản chiết khấu
kiểm kê;
-trị giá hàng hoá bị
TM, giảm giá hàng
người mua trả lại
mua, hàng mua trả
nhập kho.
lại.
-hàng hoá, thành
-hàng hoá, thành
phẩm gửi bán cho
phẩm gửi bán và
khách hàng hoặc
được xác định là đã
gửi đại lý.
bán.

Phương pháp KKĐK
Bên Nợ
Bên Có

-kết chuyển trị giá
-kết chuyển trị giá
hàng mua đang đi
hàng mua đang
đường cuối kỳ.
đi đường đầu kỳ
sang TK611.

-kết chuyển trị giá
NVL, công cụ dụng
cụ cuối kỳ.

-kết chuyển trị giá
NVL, cơng cụ
dụng cụ đầu kỳ
sang TK611.

-kết chuyển chi phí
sản xuất kinh doanh
dở dang cuối kỳ.

-kết chuyển chi
phí sản xuất kinh
doanh dở dang
đầu
kỳ
sang
TK631.

-kết chuyển trị giá

thành phẩm tồn kho
cuối kỳ.

-kết chuyển trị giá
thành phẩm tồn
kho đầu kỳ sang
TK632.

-kết chuyển trị giá
hàng tồn kho cuối
kỳ.

-kết chuyển trị giá
hàng tồn kho đầu
kỳ.

-kết chuyển trị giá
hàng hoá, thành
phẩm gửi đi bán
cuối kỳ .

-kết chuyển trị giá
hàng hoá, thành
phẩm gửi đi bán
đầu
kỳ
sang
TK611
hoặc
TK632

-cuối kỳ, kiểm kê
xác
định
số
lượng, trị giá thực
tế hàng tồn kho
cuối kỳ:
Nợ TK156
Có TK611

-trong kỳ, hàng mua
nhập kho:
Nợ TK611
Nợ TK1331
Có TK111,112...
-Chi phí mua hàng
tính vào trị giá mua


(Nợ TK611)

-căn cứ vào kết
quả, xác định
tổng trị giá hàng
xuất bán:
Nợ TK632
Có TK611

d/ Sổ kế tốn:
- Là các tờ sổ theo mẫu quy định, dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo

đúng phương pháp của kế toán trên cơ sở số liệu của chứng từ kế tốn.
- Các doanh nghiệp khác nhau về loại hình, quy mơ và điều kiện kế tốn sẽ hình thành 1 hình
thức tổ chức sổ kế tốn khác nhau : sổ Nhật ký - Sổ cái, sổ Nhật ký chung và sổ cái, sổ Nhật ký
chứng từ…
V/ Ưu điểm và hạn chế:
* Đối với phương pháp kê khai thường xuyên:
- Ưu điểm:
+ Xác định, đánh giá về số lượng và trị giá hàng tồn kho vào từng thời điểm xảy ra nghiệp
vụ.
+ Nắm bắt, quản lý hàng tồn kho thường xuyên, liên tục, góp phần điều chỉnh nhanh chóng
kịp thời tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
+ Giảm tình trạng sai sót trong việc ghi chép và quản lý (giữa thủ kho và kế toán).
- Nhược điểm: tăng khối lượng ghi chép hằng ngày, gây áp lực cho người làm cơng tác kế
tốn. Tuy nhiên, nhược điểm này được khắc phục khi doanh nghiệp tin học hố cơng tác kế
toán.
* Đối với phương pháp kiểm kê định kỳ::
- Ưu điểm: giảm khối lượng ghi chép cho người làm cơng tác kế tốn.
- Nhược điểm:
+ cơng việc kế tốn dồn vào cuối kỳ.
+ công việc kiểm tra không thường xuyên trong tình hình nhập, xuất kho là liên tục sẽ gây
hạn chế chức năng kiểm tra của kế toán trong quản lý.
+ khó phát hiện sai sót nếu khi kiểm kê hàng thực tế nhập kho không trùng với ghi sổ kế
toán.
V/ Kết luận:
- Dựa vào ưu, nhược điểm của mỗi phương pháp hạch toán hàng tồn kho, DN có thể phân
tích sự ảnh hưởng của mỗi phương pháp đến tổ chức cơng tác kế tốn của DN, từ đó đưa ra
quyết định lựa chọn phương pháp hạch tốn thích hợp, mang lại hiệu quả trong cơng việc.
- Phương pháp KKTX thường áp dụng cho các đơn vị sản xuất (công nghiệp, xây lắp…) và
các DN thương mại kinh doanh các mặt hàng có giá trị lớn như xe hơi, máy móc…
+ Theo phương pháp này người làm cơng tác kế tốn có thể giúp chủ DN biết được mặt

hàng nào đang được tiêu thụ nhanh chóng để kịp thời mua thêm hàng nhập kho dự trữ và bán
hàng, hay mặt hàng nào bị ứ đọng, khó tiêu thụ để nhanh chóng tìm giải pháp tiêu thụ hàng, thu
hồi vốn; vì DN kinh doanh các mặt hàng có giá trị lớn, nếu để ứ đọng hàng nhiều sẽ dẫn đến ứ
đọng vốn lớn, kinh doanh không đạt hiệu quả.
+ Q trình hoạt động giữa kế tốn, thủ kho và phịng kinh doanh được diễn ra liên tục
thơng qua việc giao nhận các chứng từ.
- Phương pháp KKĐK thường áp dụng ở các DN kinh doanh mặt hàng có giá trị thấp, số
lượng lớn, nhiều chủng loại, quy cách…như các nguyên phụ liệu để may mặc (kim, chỉ, khuy
áo,…) và các đơn vị sản xuất ra 1 loại sản phẩm, hàng hố nào đó vì trong trường hợp này mới
tính được tương đối chính xác giá thành.
+ Vì các mặt hàng có nhiều chủng loại và có giá trị thấp nên nếu lựa chon phương pháp
KKTX sẽ mất nhiều thời gian của cơng tác kế tốn và có thể khơng mang lại hiệu quả vì độ
chính xác khơng cao;


+ Theo phương pháp này khối lượng công việc kế tốn dồn vào cuối kỳ lớn nên có thể gặp
nhiều sai sót và khó điều chỉnh;
+ Trong kỳ, chủ DN khơng thể nắm bắt tình hình tồn, nhập, xuất kho hàng hố của DN
thơng qua kế tốn dẫn đến chậm trễ khi đưa ra các quyết định.
- Lựa chon phương pháp thích hợp giúp cơng tác kế tốn được hoạt động thuân lợi hơn,
mang tính chính xác cao hơn và một phần giúp DN kinh doanh đạt hiệu quả dựa trên các báo
cáo của kế toán.
* Tài liệu tham khảo:
- Chuẩn mực kế toán quốc tế số 02 ( IAS 02 )
- Chuẩn mực kế toán hàng tồn kho ( VAS 02 )

MỘT VÀI ỨNG DỤNG CỦA MAPLE TRONG GIẢNG DẠY
TỐN CAO CẤP
Huỳnh Ngọc Tuấn
Bộ mơn Cơ bản

Maple là một hệ thống tính tốn trên các biểu thức đại số và minh họa toán rất mạnh mẽ
được phát triển bởi các nhà nghiên cứu của Đại học Waterloo (Canada) từ năm 1980 và được
thương mại hố bởi cơng ty Warterloo Maple Inc.(), phiên bản Maple
đầu tiên ra đời năm 1980, đến nay đã phát triển đến phiên bản 13 (2009) và ngày càng hồn thiện
hơn. Maple có cách cài đặt đơn giản, chạy được trên tất cả các hệ điều hành, cấu trúc linh hoạt dễ
sử dụng, đặc biệt có trình trợ giúp Help nên tạo điều kiện cho người dùng dể sử dụng. Từ phiên
bản 7 Maple đã cung cấp các cơng cụ trực quan, các gói lệnh tự học đối với tốn phổ thơng và đại
học. Với ưu điểm đó thì Maple trở thành sự lựa chọn sử dụng của nhiều nước trên thế giới.
Một số tính năng cơ bản của Maple như sau:
- Là một hệ thống tính tốn trên các biểu thức đại số;
- Có thể thực hiện hầu hết các phép toán cơ bản trong chương trình tốn học phổ thơng và
đại học;
- Cung cấp các cơng cụ minh họa hình học thuận tiện như: Vẽ đồ thị tĩnh hoặc động của các
đường, các mặt được cho bởi các hàm tùy ý trong nhiều hệ trục tọa độ khác nhau;
- Ngơn ngữ lập trình đơn giản và mạnh mẽ có khả năng tương tác với các ngôn ngữ khác như
Latex, Word, HTML,...
- Một công cụ biên soạn giáo án và bài giảng điện tử, thích hợp với các lớp học tương tác
trực tiếp;
- Một chương trình trợ giúp hiệu quả cho giảng viên và sinh viên trong việc dạy và học.
Trong nội dung của bài viết này, chúng tơi khơng có tham vọng trình bày hết những ưu việt của
Maple, chỉ trình bày một số vấn đề mà chúng tơi gặp trong q trình giảng dạy mơn Tốn cao cấp
tại trường Cao đẳng Thương mại.
Khi giảng dạy đến vấn đề hàm số, giới hạn của hàm số và xây dựng bài tốn tích phân
Riemann. Rõ ràng sẽ chẳng có hệ thống máy nào có thể thay giảng viên trình bày để sinh viên
hiểu được bản chất của hai vấn đề này, nhưng nếu khơng có máy thì người giảng viên cũng rất khó
khăn trong việc trình bày các vấn đề trên một cách tới nơi, tới chốn.
1. Hàm số và giới hạn của hàm số:
a. Hàm số



Hiện tại cách giảng dạy chung của các trường phổ thơng là lấy cái đích cuối cùng là vẽ
được đồ thị hàm số (rất nặng nề, thiếu đi tính thực tế vì lớp hàm số có thể khảo sát và vẽ được đồ
thị rất ít).
Do đó, khi dạy vấn đề này nên lấy hàm số khởi điểm nhẹ nhàng và dễ hiểu, minh họa đơn
giản vì hiện tại trong thực tế thì mọi hàm số đều vẽ được bằng máy.
Bây giờ chúng ta thử xét một hàm số mà đối với các bước “khảo sát” sẽ ngán ngẩm khi gặp
nó như: f ( x ) =

sin (cos x )
.
cos(sin x )

Nhưng đối với máy tính thì việc tính tốn các điểm rất đơn giản và muốn bao nhiêu điểm
đều có thể được. Chẳng hạn kết quả tính tốn được cho như bảng sau:

Nếu dùng máy chúng ta có một hệ thống tọa độ thì nó cũng sẽ tạo cho chúng ta một hình
dạng chung của đồ thị. Và đồ thị được vẽ như sau( nhờ máy):

b. Giới hạn của hàm số
Một vấn đề nan giải là người giảng viên làm sao trình bày cho sinh viên cảm nhận được
bản chất của giới hạn mà không nhất thiết phải đi quá sâu vào các định nghĩa khơ khan và khó
hiểu. Với Maple, giảng viên có thể minh họa cho sinh viên nhìn thấy bản chất của vấn đề.

⎛1⎞
⎝ x⎠

Ví dụ: Xét giới hạn của hàm số f ( x ) = lim x. sin ⎜ ⎟ , chỉ cần với lệnh sau, sinh viên sẽ
x →0
nhìn thấy quá trình tiến tới giới hạn của hàm số trên.
>picts:=[seq(plot([x*sin(1/x)*piecewise(x<-1/i,1,x<=1/i,0,1),x,-x],x=-0.5..0.5,

color=[red,blue,blue],discont=true,numpoints=1000),i=3..100)]:display(picts,insequence=true);


2. Bài tốn xây dựng tích phân Riemann
Tổng của tích phân Riemann là một khái niệm khá mơ hồ đối với những người mới tiếp
xúc lần đầu. Việc minh họa nó bằng tổng diện tích của các hình chữ nhật đã giảm đi phần nào tính
trừu tượng của nó, tuy nhiên hiện nay nếu khơng có sự hỗ trợ của máy thì một giảng viên cũng chỉ
có thể minh họa đến hình vẽ sau đây. Giả sử xét tổng Riemann của hàm số sau:

f ( x ) = sin (x 2 + x − 1) − cos (x 2 − x + 1) + 3

>with(student):
Middebox(sin(x^2+x-1)-cos(x^2-x+1)-3,x=-3..3,15);

Với hình vẽ này thì sinh viên khó có thể hình dung được rằng khi lấy một phân hoạch đủ
mịn thì diện tích hình thang cong bằng tổng của một số hình chữ nhật lộn xộn trên. Để thấy được
điều này thì ta cần đưa ra một dãy hình vẽ minh họa để thấy được quá trình xấp xỉ hình thang cong,
máy tính là cơng cụ lý tưởng nhất cho ta thực hiện ý tưởng trên bằng cách lấy bề rộng phân hoạch
bước sau bằng ½ bước trước, như thế chỉ cần qua 3 bước thì chúng ta thấy rất rõ quá trình xấp xỉ
một cách hoàn hảo.
>middlebox(sin(x^2+x-1) - cos(x^2-x+1) + 3, x=-3..3,30);
middlebox(sin(x^2+x-1) - cos(x^2-x+1) + 3, x=-3..3,60);
middlebox(sin(x^2+x-1) - cos(x^2-x+1) + 3, x=-3..3,120);


Để thuyết phục hơn chúng ta có thể đưa ra hàng loạt các ví dụ khác mà nếu khơng có máy
tính và phần mềm trợ giúp thì ta khó thực hiện được điều này.
Như vậy, Maple là một công cụ rất hữu ích cho những người học tốn, dạy tốn và làm
tốn nói chung. Nhờ có nó, chúng ta có thể đỡ vất vả hơn rất nhiều, công việc lao động trí óc sẽ đạt
được năng suất cao hơn, hiệu quả hơn.


ỨNG DỤNG PHẦN MỀM MICROSOFT EXCEL VÀO GIẢI BÀI
TOÁN QUY HOẠCH TUYẾN TÍNH
Th.s. Trần Thị Hịa
Khoa Kế tốn – Tài chính
Mục tiêu của việc giải bài tốn quy hoạch tuyến tính (QHTT) là tìm được phương án tối ưu và
vận dụng phương án đó vào thực tiễn. Tuy nhiên, trong thực tế công việc này lại khá phức tạp, gây
khơng ít khó khăn và lúng túng cho những đối tượng quan tâm đến nó. Tại sao chúng ta
khơng“trút gánh nặng” này cho Excel nhỉ? Bài viết này nhằm giới thiệu cách sử dụng phần mềm
ứng dụng Microsoft Excel để giải bài toán QHTT và rút ra các ý nghĩa kinh tế của chúng.
Để giải bài toán QHTT dựa trên phần mềm ứng dụng Microsoft Excel cần thực hiện theo trình
tự sau:
1. Các bước thực hiện
Bước 1: Lập mơ hình bài tốn (nếu bài tốn chưa lập mơ hình) 1 ;
Bước 2: Vận dụng phần mềm ứng dụng Microsoft Excel để giải bài tốn QHTT dựa trên mơ
hình ở bước 1;
Bước 3: Kết luận phương án tối ưu và giá trị của hàm mục tiêu (nếu có).
Tất nhiên, để thực hiện được bước 2 bạn cần phải có một máy tính có cài đặt sẳn phần mềm
này.
2. Ứng dụng Microsoft Excel để giải bài toán QHTT
Để hiểu rõ việc giải bài toán QHTT dựa trên phần mềm ứng dụng Excel, chúng ta hãy cùng
nhau xem xét ví dụ sau:
Cơng ty “Hoa Đà Lạt” cần trồng 4 loại hoa Cúc, Hồng, Lan, Huệ trên 3 mảnh vườn khác nhau.
Biết rằng diện tích đất hiện có ứng với mỗi mảnh vườn là 40 ha, 60 ha, 80 ha. Diện tích đất phải
trồng mỗi loại hoa theo kế hoạch là: Cúc: 50 ha, Hồng: 70 ha, Lan: 30 ha, Huệ: 30 ha. Ngoài ra, do
tính chất của các loại đất trồng khác nhau, nên hoa Hồng không thể trồng được trên mảnh đất thứ
nhất, và hoa Huệ không thể trồng được trên mảnh đất thứ ba. Biết thu hoạch (Lợi nhuận) ước tính
của từng loại hoa trên từng loại đất trồng như sau (trăm ngàn đồng/ha):

1


Nên đưa bài tốn về dạng chính tắc trước khi thực hiện bước 2


Hoa

Cúc
(50)

Hồng
(70)

Lan
(30)

Huệ
(30)

40

10

-

8

9

60


6

9

12

12

80

15

10

10

-

Đất

Yêu cầu: Lập kế hoạch trồng hoa sao cho công ty thu được lợi nhuận nhiều nhất.
Giải:
Bước 1: Lập mô hình bài tốn
- Tổng diện tích đất = 40 + 60 + 80 =180 = 50 + 70 + 30 + 30 = Tổng diện tích trồng hoa
- Gọi xij là số ha mảnh vườn i trồng loại hoa j, với i= 1, 2, 3 và j = 1, 2, 3, 4 tương ứng là Cúc,
Hồng, Lan, Huệ.
f = 10 x11 + 8x13 + 9x14 + 6x21 + 9x22 + 12x23 + 12x24 + 15x31 + 10x32 + 10x33 -> Max
x11
+ x13 + x14 = 40
x21 + x22 + x23 + x24 = 60

x31 + x32 + x33
= 80
x11 + x21 + x31
= 50
x22 + x32
= 70
x13 + x23 + x33
= 30
x14 + x24
= 30
xij ≥ 0, ∀i, j
Bước 2: Ứng dụng Excel để giải bài toán QHTT dựa trên mơ hình ở bước 1.
- Khởi động Exel
- Nhập dữ liệu vào bảng tính:
+ Cột A là giá trị có thể có của các biến. Trong ví dụ này ta có 10 biến cần tìm từ x11 đến x33
+ Cột B là cơng thức tính biểu thức vế trái của các ràng buộc
+ Cột C là giá trị vế phải của các ràng buộc
+ Cột D là cơng thức tính hàm mục tiêu
Ban đầu ta cho giá trị tuỳ chọn vào cột. Trong ví dụ này, các số liệu như ở bảng 1
Bảng 1
A

B

C

D
=10*A1+8*A3+9*A4+6*A5+9*A6+12*A7+12*A8
+15*A9+10*A10+10*A11


1

1 =A1+A3+A4

40

2

0 =A5+A6+A7+A8

60

3

1 =A9+A10+A11

80

4

1 =A1+A5+A9

50

5

1 =A6+A10

70


6

1 =A3+A7+A11

30

7

1 =A4+A8

30

8

1

9

1

10

1


×