Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Lich su hinh thanh lanh tho nuoc ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.63 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i><b>Tiền Cambri</b></i>


Các thành tạo địa chất thời kỳ Tiền Cambri cấu thành nên móng kết tinh và phức hệ uốn nếp hoặc lớp phủ


Paleozoi lộ ra ở khối Kontum, Phan Xi Păng, đới sơng Hồng có tuổi Arkei, Proterozoi hạ và thượng.[2]


<i><b>[sửa] Paleozoi</b></i>


<b>[sửa] Cambri - Ordovic hạ</b>


Các trầm tích Cambri - Ordovic hạ phân bố ở bắc Bắc bộ, tây Bắc bộ và bắc Trung bộ đặc trưng bởi các trầm tích
carbonat xen kẽ đá lục nguyên thuộc tướng biển nông, biển ven bờ chứa Bọ ba thùy.[3]


<b>[sửa] Odorvic - Silur</b>


Các trầm tích trong giai đoạn này phân bố ở các miền đông bắc Bắc bộ, bắc Bắc bộ, tây Bắc bộ, bắc Trung bộ,


Nam bộ, chủ yếu từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở ra phía bắc. Miền tây Bắc bộ đặc trưng bởi các trầm tích lục
ngun - carbonat cịn ở miền bắc Trung bộ chủ yếu là các trầm tích lục nguyên - phun trào.[4] Các trầm tích này
phủ bất chỉnh hợp lên các trầm tích cổ hơn.[5]


<b>[sửa] Devon</b>


Các trầm tích trong giai đoạn này phân bố ở đơng Bắc bộ, bắc Bắc bộ, tây Bắc bộ, bắc Trung bộ gồm các trầm
tích lục nguyên - carbonat phát triển liên tục với bề dày từ 1600 - 1800m đến 2200 - 2400m.[6]


<b>[sửa] Carbon - Permi</b>


Các trầm tích trong giai đoạn này phân bố ở đông Bắc bộ, bắc Bắc bộ, tây Bắc bộ, bắc Trung bộ và bắt đầu xuất
hiện phổ biến ở nam Trung bộ và Nam bộ. Các trầm tích trong giai đoạn này bị chi phối bởi hai chu kỳ tích tụ
liên quan đến hai ranh giới phân kỳ. Chu kỳ thứ nhất, các trầm tích chủ yếu là carbonat đơi khi có ít trầm tích lục


nguyên ở phần dưới.[7] Chu kỳ thứ hai xảy ra trong thời gian thành tạo tầng Veoschwagerina phổ biến khắp Việt
Nam và lãnh thổ kế cận đặc trưng bởi các trầm tích núi lửa.[8]


<i><b>[sửa] Mesozoi</b></i>
<i><b>[sửa] Kainozoi</b></i>


<b>[sửa] Paleogen - Neogen</b>


Các trầm tích Paleogen-Neogen (đệ Tam)chủ yếu phân bố trong các hố sụt, các vùng trũng trên lục địa hoặc trên
các thềm lục địa, đây là những kiến trúc được hình thành do hoạt động kiến tạo đứt gãy trẻ hoặc đứt gãy cổ tái
hoạt động phân bố kéo dài theo hướng tây bắc-đông nam.[9] Các trầm tích đặc trưng bởi chủ yếu bởi các thành tạo
lục địa và châu thổ, đôi nơi xem kẽ núi lửa,[10] với bề dày thay đổi từ vài chục mét đến 5000m.[9]


<b>[sửa] Đệ tứ</b>


Các trầm tích đệ Tứ phân bố chủ yếu ở các đồng bằng ven biển.[11]


<i><b>[sửa] Các sự kiện chính</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Do tất cả các yếu tố này mà các du khách hiện nay đến thăm vịnh Hạ Long khơng chỉ coi nó như là một trong
những kì quan của thế giới, mà cịn như một viện bảo tàng địa chất quý giá được bảo tồn một cách tự nhiên ngoài
trời trong 300 triệu năm gần đây.


Một số sự kiện đáng chú ý nhất là:


<b>Thời gian</b>


<b>Niên đại địa chất</b> <b>Sự kiện</b>


2.070.000.000



TCN cuối kỷ Tằng Xâm Thành tạo núi Nghĩa Lĩnh



570.000.000-500.000.000
TCN


đầu kỷ Cambri Khu vực mà ngày nay tạo thành vịnh Hạ Long, về cơ bản là <sub>đất liền, hứng chịu q trình </sub><sub>xói mịn</sub><sub> bởi mưa</sub>


cuối kỷ Cambri Khu vực này bị ngập lụt, khởi đầu cho sự tồn tại của vịnh Hạ
Long



500.000.000-400.000.000
TCN


kỷ Ordovic và


Silur


Khu vực Đông Bắc Việt Nam về cơ bản là biển sâu, hứng
chịu hoạt động kiến tạo địa tầng không ngừng


cuối kỷ Silur Đông Bắc Việt Nam trải qua pha chuyển động ngược lại để
tạo ra các dãy núi nằm sâu dưới nước



420.000.000-340.000.000
TCN



cuối kỷ Silur và
trong suốt kỷ
Đề-vôn


Khu vực này phải chịu sự xói mịn mạnh do khí hậu khơ và
nóng. Vào thời điểm này, Hạ Long là một phần của vùng đất
liền rộng tạo thành phần lớn biển Đông và thềm lục địa Trung
Hoa ngày nay


400.000.000
TCN


Địa tầng lục địa, được hình thành từ thạch quyển cứng và
giịn (hay lớp vỏ), dần dần chuyển động ngang qua hành tinh,
được tạo sức nổi do các chuyển động từ phía dưới, trong lớp
phủ của Trái Đất. Đơi khi các mảng kiến tạo tách ra thành
nhiều mảnh; sự kết hợp của các mảnh lục địa đã tan vỡ từ siêu
lục địa thời tiền sử gọi là Gondwana



400.000.000-200.000.000
TCN


Một vài mảnh của lục địa đã vỡ di chuyển lên phía bắc để va
chạm và hợp nhất với châu Á tại các vĩ độ cao, trong quá
trình tạo ra phần lớn khu vực ngày nay gọi là Việt Nam
cuối kỷ Đề-vôn Do hoạt động kiến tạo, khu vực Hạ Long và tồn bộ khu vực <sub>đơng bắc đã được nâng lên từ dưới sâu</sub>



340.000.000-255.000.000


TCN


cuối đại Cổ Sinh


và đầu đại Trung
Sinh


Dãy Trường Sơn đã nâng lên trong các va chạm diễn ra vào


giai đoạn này



340.000.000-240.000.000
TCN


kỷ Than Đá và


Permi


Vịnh Hạ Long: sự hình thành của lớp đá vôi dày trên 1.000 m.
Một biển nông và ấm đã được tái hình thành, nó tồn tại trong
khoảng 100 triệu năm. Nó tạo thành 2 loại đá vôi: lớp đá vôi


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Hanh vào giữa kỷ Than Đá và đầu kỷ Permi (dày 750 m). Hai
lớp đá vôi này tạo thành phần lớn các đảo của vịnh


trước


100.000.000
TCN



thời kỳ tân Tiến
Tạo, kỷ Phấn


Trắng - đại Trung


Sinh


Thành tạo núi Phan Xi Păng


67.000.000 TCN


cuối kỷ Phấn


Trắng và kỷ đầu


của đại Đương
Thời (đại Tân


Sinh)


Vịnh Hạ Long tồn tại trong môi trường đại lục núi cao do ảnh
hưởng của các pha kiến tạo sơn mạnh


giữa thế Cổ Tân


Vịnh Hạ Long: các chuyển động này vẫn liên tục và ổn định,
trong khi q trình xói mịn mạnh đã bắt đầu, và sau vài triệu
năm, dạng địa hình bán cao nguyên đã được tạo ra. Sự liên
tục của q trình xói mịn này đã chia cắt dần dần từng nấc


vùng cao nguyên thành các khối với độ cao tương tự như các
ngọn núi ngày nay



55.000.000-40.000.000 TCN


Muộn hơn, trong khi dãy Hy Mã Lạp Sơn đang dâng lên, khí
hậu Trái Đất bắt đầu dao động giữa các pha mát và ấm. Các
sông băng lục địa được tạo ra và rút lui và, tương ứng với nó
là nước biển rút xuống và dâng lên. Khi nước biển rút xuống,


thềm lục địa nông Sunda bị lộ thiên (ngày nay nó nằm dưới


các biển ở Nam Việt Nam)


50.000.000 TCN


Kiến tạo các sông Hồng, Lô, Đà với những đồi núi, đồng
bằng, đầm hồ, xuất lộ bộ mặt địa hình Vĩnh Phú, trong đó có
dãy đồi 99 con coi chầu về đất Tổ




26.000.000-10.000.000 TCN kỷ Tân Cận Sự phát triển của vùng lún Hạ Long


3.000.000 TCN


Rừng thường xanh ẩm ướt có thể đã tồn tại dai dẳng trên sườn
đông của dãy Trường Sơn mặc dù các dao động khí hậu là đột
ngột một cách gia tăng. Các rừng mưa nhiệt đới này có thể


cung cấp nơi cư trú cho các loài phụ thuộc vào rừng trong các
thời kỳ lạnh hơn, khơ hơn, mang tính chất mùa rõ nét hơn.
Với kích thước lớn như vậy, mà mơi trường sinh sống dọc
theo nó có thể mở rộng hay co lại theo thời gian, có thể giúp
giải thích tại sao, thậm chí trong vườn địa đàng của sự đa
dạng sinh học như vậy của Việt Nam, mà dãy Trường Sơn
vẫn lộng lẫy hơn phần còn lại của đất nước này



2.000.000-11.000 TCN


thế Canh Tân của


phân đại Đệ Tứ


Q trình xói mịn bắt đầu làm tan rã khu vực giàu đá vôi Hạ
Long, sau đó tạo thành vùng đồng bằng đá vơi là hoạt động
mạnh nhất


bắt đầu


1.800.000 TCN


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Hải Nam và khu tự trị Quảng Tây của Trung Quốc


khoảng 800.000
TCN


Một viên thiên thạch rơi xuống khu vực mà ngày nay là Việt
Nam, làm thay đổi hệ thống sinh thái của Đông Nam Á một


cách trầm trọng. Tuy nhiên, trong một khoảng thời gian tương
đối ngắn sau đó, trong khu vực có thể tìm thấy được các động
vật thuộc Họ Người. Các động vật này đã tìm được một đống
đá mới nhồi lên, rất tốt trong việc chế tạo đồ đá


600.000 TCN Người vượn đứng thẳng xuất hiện


200.000 TCN Người vượn thông minh xuất hiện


68.000-9.000
TCN


giữa và cuối thế
Canh Tân


Vịnh Hạ Long: đánh dấu thời kỳ khi các hang động nổi tiếng
của khu vực được tạo ra


giai đoạn văn hóa
Sơn Vi


Cách dãy biển tiến sau băng hà Vuyếc-mơ, tràn vào ngập toàn
bộ đồng đằng và vùng thấp ven đồi núi. Người nguyên thủy
Sơn Vi tạm lánh lên vùng núi Hịa Bình - Bắc Sơn


15.000 TCN


Các dải đồi hai bên bờ sông Thao có mấy chục thị tộc người
nguyên thủy cư trú. Họ là chủ nhân nền văn hóa hậu kỳ đồ đá
cũ Sơn Vi



đầu thế Toàn Tân


Các đảo của vịnh Hạ Long ngày nay về cơ bản là tàn dư của
các dãy núi này bị ngập lụt. Nước mưa chảy vào các kẽ hở
trong đá vôi đã được hình thành từ hoạt động kiến tạo. Quá
trình xói mịn đều đều này liên tục mở rộng các đường rạn vỡ
này, cuối cùng tạo ra các thành tạo đá của ngày nay


9.000-5.000


TCN thế Toàn Tân Vịnh Hạ Long: đáng chú ý vì sự dâng lên của biển


trước 5000 TCN


Nước biển rút khỏi đồng bằng. Sau đó trải hàng ngàn năm
mưa lũ thau chua rửa mặn và phù sa màu mỡ các con sông bồi
đắp làm hồi sinh thảm thực vật. Quần thể động vật như chim
thú, cá tôm nhuyễn thể trở nên sầm uất, tạo nên môi trường
sống hết sức thuận lợi cho con người


5.000-2.000
TCN


Chuyển động dâng lên của biển đạt tới đỉnh điểm và tạo thành
vịnh Hạ Long ngày nay


2.000-1.000
TCN



Với biển trong quá trình rút xuống đều đều, nền văn hóa Hạ
Long đã bắt đầu phát triển


đầu của cuối thế
Toàn Tân


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5></div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' />


BÀI 4 - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LÃNH THỔ VIỆT NAM (t1)
  • 11
  • 1
  • 4
  • ×