Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Những hoạt động thực tiễn và lý luận của Hồ Chí Minh trong thời kỳ từ cuối năm c 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.31 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI : Những hoạt động thực tiễn và lý luận của Hồ Chí Minh trong thời kỳ
từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930

MỤC LỤC
Mục lục............................................................................................................5
Mở đầu ............................................................................................................6
NỘI DUNG
I.
II.

Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930 8
Hoạt động lý luận của Hồ Chí Minh từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930
. .............................................................................................................14


III.

Thời kỳ hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
Cách mạng Việt Nam............................................................................16

Kết luận..........................................................................................................20
Tài liệu tham khảo...........................................................................................21
LỜI CẢM ƠN.................................................................................................22

2



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam danh nhân văn hóa thế
giới. Người đã để lại cho dân tộc và nhân loại một di sản văn hóa đồ sộ, trong đó Tư
tưởng Hồ Chí Minh có một vị trí vơ cùng đặc biệt. Đó là thứ vũ khí lý luận vô cùng
sắc bén, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi
soi đường cho sự nghiệp cách mạn của nhân dân ta. Việc nghiên cứu những hoạt động
thực tiễn và lý luận của Hồ Chí Minh trong thời kỳ từ cuối năm 1920 đến đầu năm
1930 nhằm nghiên cứu học tập sâu hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó làm rõ q
trình hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng VN.
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích những sự kiện chính trong quãng thời gian hoạt động thực tiễn và lý luận
trong giai đoạn cuối 1920 – đầu 1930 của Hồ Chí Minh, qua đó làm rõ q trình hình
thành những nội dung cơ bản tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh xuất hiện
trong thời kỳ này, thấy được những thay đổi, phát triển trong những tư tưởng ấy so với
những thời kỳ trước
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về quãng thời gian nghiên cứu: từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930
- Về không gian nghiên cứu: theo phạm vi hoạt động của Nguyễn Ái Quốc. Trong đó:
từ 1920 đến 1930 – Người sống và hoạt động tại Pháp, tại Liên Xô (1923 – 1924),
Trung Quốc (1924 – 1927), Thái Lan (1928 – 1929) và thống nhất các tổ chức cộng
sản ở Trung Quốc (1930).
4. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập, phân tích các tài liệu và thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu: các cơng
trình nghiên cứu về tiểu sử, tư tưởng, cuộc đời và hoạt động của Hồ Chí Minh.
- Sử dụng nhiều phương thức, thao tác để tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề trong
luận văn như phương pháp sưu tầm thông tin, nghiên cứu lý luận dựa trên: Văn kiện
Đảng, Lịch sử Đảng quãng thời gian 1920 – 1930 về việc ra đời của Đảng, Cương lĩnh
chính trị đầu tiên. Các tác phẩm của Hồ Chí Minh: bài nói, phát biểu, kết luận, bài báo,


3


đặc biệt các tác phẩm tập hợp thành cương lĩnh chính trị đầu tiên (tập hợp trong Hồ
Chí Minh tồn tập), tài liệu về lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới có liên quan để hiểu
bối cảnh ra đời và phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh.

4


NỘI DUNG
I. HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN CỦA HỒ CHÍ MINH TỪ CUỐI NĂM 1920
ĐẾN ĐẦU NĂM 1930
Đây là thời kì mục tiêu, phương hướng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam từng
bước cụ thể hóa, thể hiện rõ trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản
Việt Nam

 THỜI KÌ Ở PHÁP ( 1921 – 1923 )
Năm 1921, Dưới ánh sáng của những nghị quyết của Quốc tế Cộng sản và Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc, vấn đề thuộc địa của Lênin, được sự
giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà hoạt động cách
mạng các nước thuộc địa của Pháp như Angiêri, Marốc, Tuynidi, Mađagátxca... thành
lập tại Pari Hội Liên hiệp thuộc địa, đoàn thể của những người dân bản xứ ở tất cả các
thuộc địa. Mục đích của Hội là giải phóng các dân tộc thuộc địa. Hoạt động của Hội là
tuyên truyền. Ngày 22-5-1922, Hội được nhà cầm quyền Pháp chính thức thừa nhận
như một tổ chức chính trị hoạt động cơng khai. Phiên họp đầu tiên của Hội diễn ra vào
18 giờ ngày 4-10-1921 tại nhà số 9, phố Valoa. Ngay khi mới thành lập, Hội đã có gần
100 hội viên là những người yêu nước của các dân tộc thuộc địa sống trên đất Pháp,
khơng phân biệt tơn giáo, chính kiến hay chủng tộc. Hội có bốn tiểu tổ trong đó có một

tiểu tổ Đơng Dương. Tổng Thư ký Hội là Mơngnécvin (Monnerville), sau đó là luật sư
Bơlơngcua (Bloncourt). Nguyễn Ái Quốc tham gia Ban Chấp hành và đóng một vai trò
quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Hội. Điều lệ Hội xác định đoàn kết là sức
mạnh; và mục tiêu của nó là sử dụng các hình thức đấu tranh cơng khai như báo chí,
nghị trường để lên án chủ nghĩa thực dân và đoàn kết các dân tộc thuộc địa trong sự
nghiệp giải phóng. Tun ngơn của Hội nhấn mạnh: "Đứng trước chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của chúng ta là thống nhất. Các bạn hãy nhớ lời kêu gọi
của Các Mác: Vơ sản tất cả các nước đồn kết lại!”.Cùng năm đó, ơng cùng một số
nhà cách mạng thuộc địa ra báo Le Paria (Người cùng khổ) và ơng chính là tổng biên
tập của tờ báo này. Tờ này ra được 38 số với mỗi số bán được khoảng 1000 tới 5000

5


bản, một con số thuyết phục vào lúc bấy giờ. Ngày 1/4/1922 báo ra số đầu tiên bằng ba
thứ tiếng Pháp, Ả rập và Trung Quốc. Đầu tiên báo lấy tiêu đề “Diễn đàn của các dân
tộc thuộc địa”, sau đổi là “Diễn đàn của vô sản thuộc địa”, rồi sau lại đổi là “Cơ quan
của nhân dân bị áp bức các thuộc địa”. Đây là lần đầu tiên nhân dân của nhiều nước
thuộc địa khác nhau có một tổ chức và một tiếng nói đấu tranh chung. Ngồi ra, ông
viết bài cho hàng loạt báo khác. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp do ông viết
được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập
đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Ông là trưởng Tiểu ban Đông
Dương của Đảng Cộng sản Pháp.
Năm 1923, với tư cách đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, ông ra tranh cử vào Hạ
viện Pháp, nhưng thất bại. Trong lần đầu tiên tham gia bầu cử Quốc hội đó, Đảng
Cộng sản Pháp giành được tất cả 1,2 triệu phiếu ủng hộ trên tổng số 5 triệu phiếu cử
tri, nhưng Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trượt chân dân biểu Quốc hội
Trong toàn bộ thời gian sống trên đất Pháp, ông trang trải cuộc sống bằng cách làm
việc nửa ngày. Thoạt đầu, ông làm thuê tại một tiệm rửa ảnh và được Phan Văn
Trường nhượng quyền cho thuê lại một căn phịng. Sau đó, ơng đi vẽ khốn cho một

xưởng vẽ truyền thần và thuê một phòng tại căn nhà số 9 ngõ Compoint, Quận 17,
Paris. Ông theo học dự thính tại Đại học Sorbonne và được coi là mọt sách tại Thư
viện Quốc gia Pháp.

 THỜI KÌ Ở LIÊN XÔ LẦN THỨ NHẤT ( 1923 – 1924 )
Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học
Phương Đông của Quốc tế cộng sản. Tại Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản ông được
cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
Ngày 23-6-1924, Nguyễn Ái Quốc tham gia phát biểu tại phiên họp thứ 8 Đại hội
5. Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản diễn ra tại Mátxcơva (Liên Xô) từ ngày 17-6
đến ngày 8-7-1924 với sự tham gia của 504 đại biểu của 49 đảng cộng sản và đảng
công nhân, thay mặt 1.319.000 đảng viên cộng sản trên toàn thế giới và 10 tổ chức
quốc tế.

6


Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội với tư cách là đại biểu tư vấn. Tại Đại hội,
Người trình bày đầy đủ lập trường, quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa.
Trong bài phát biểu tại phiên họp thứ 8, ngày 23-6, Nguyễn Ái Quốc cho rằng một
số đảng chưa hoàn toàn thấm nhuần tư tưởng về vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới.
Đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt
với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở thuộc địa. Người đấu tranh để thực hiện sự liên
minh mật thiết và trực tiếp giữa cách mạng các nước Tây Âu với phong trào giải
phóng ở các nước thuộc địa. Người nhấn mạnh luận điểm không thể đánh chết rắn
đằng đi, muốn đánh bại chủ nghĩa tư bản thì phải bắt đầu bằng việc tước đoạt các
thuộc địa của chúng, vì "hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ
nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp
nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ

nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng". Bên
cạnh đó, Nguyễn Ái Quốc cịn tham dự các đại hội quốc tế lớn. Nguyễn Ái Quốc tham
dự Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ I và được bầu vào Chủ tịch đồn Hội Nơng dân
quốc tế. Tại đây, Người kịch liệt tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với các thuộc địa,
nêu lên nỗi khổ cực của người nông dân và kêu gọi: “Khi các đồng chí được tổ chức
lại, các đồng chí cần phải nêu gương cho chúng tơi, giúp đỡ chúng tơi và dang rộng
cánh tay anh em đón chúng tơi để chúng tơi cũng có thể bước vào gia đình vơ sản quốc
tế”. Sau khi Lênin mất, với tình cảm chân thành và niềm xúc động mạnh mẽ, Nguyễn
Ái Quốc viết bài báo nhan đề Lênin và các dân tộc thuộc địa đăng trên báo Pravđa của
Liên Xô, ra ngày 27-1-1924. Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ III Quốc tế
Công hội đỏ, Đại hội lần thứ IV Quốc tế Thanh niên Cộng sản…
Trong thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tranh thủ viết bài cho các báo Nhân đạo
(L’Humanité), Đời sống công nhân (La Vie Ouvrière), Sự thật (Pravda), Người cùng
khổ (Le Paria), Thư tín quốc tế (Inprékor), Tạp chí Cộng sản vv.v.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm đến chiến lược quân sự của các nước lớn đối với
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Sau khi phân tích những động thái qn sự
của Nhật Bản ở đảo Yap, Mỹ tăng cường tàu chiến ở Thái Bình Dương, Pháp củng cố

7


hệ thống thuộc địa vành đai Thái Bình Dương, Nguyễn Ái Quốc dự đốn chính xác
rằng khu vực này "tương lai có thể trở thành lị lửa của cuộc chiến tranh thế giới
mới”

 THỜI KỲ Ở TRUNG QUỐC ( 1924 – 1927 )
Ngày 11 tháng 11 nǎm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu –
Trung Quốc, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ
Liên Xơ bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc. Thời gian này ông cũng gặp mặt
một số nhà cách mạng lão thành người Việt đang sống và hoạt động lưu vong trên đất

Trung Quốc, trong đó có Phan Bội Châu
Năm 1925, ơng (lúc này mang tên Vương) lựa chọn một số phần tử tích cực của
Tâm tâm xã, huấn luyện thêm và trên cơ sở đó, lập ra Cộng sản đồn, rồi tiếp tục dựa
trên Cộng sản đoàn mà thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (hay
cịn gọi là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên) vào 6/1925, thơng qua Chính cương,
Điều lệ và Chương trình hành động của Hội. Tơn chỉ và mục đích của Việt Nam cách
mạng thanh niên là “Hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mạng
dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng
thế giới, lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản".Hội này phái
người về nước vận động và đưa thanh niên sang Quảng Châu đào tạo. Cho
tới 1927, hội mở được 3 khoá gần 10 lớp huấn luyện, đào tạo 75 hội
viên, mỗi khóa chỉ kéo dài 2-3 tháng. Nguyễn Ái Quốc đứng lớp, Hồ
Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn phụ giảng. Việc làm quan trọng nhất của
hội trong thời gian này là cử được người đi học tại Đại học Phương
Đông (Liên Xô) và trường Qn chính Hồng Phố của Quốc dân Đảng
Trung Quốc. Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh cũng từng làm việc
hoặc học tập ở trường Hoàng Phố. Trần Phú, Lê Hồng Phong, Bùi
Cơng Trừng, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn,… là những
người được đưa đi đào tạo tại một trong hai trung tâm trên. Bên cạnh
đó, Người còn xuất bản báo “Thanh niên” bằng tiếng việt làm cơ
quan ngôn luận của Hội. Báo Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng

8


lập và trực tiếp chỉ đạo làm nhiệm vụ tuyên truyền tơn chỉ và mục
đích của Việt Nam cách mạng thanh niên, trình bày một số vấn đề cơ
bản về đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam,
về lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong 88 số đầu, Báo Thanh
niên tập trung vào giáo dục lòng yêu nước, khơi sâu chí căm thù của

nhân dân ta đối với đế quốc và phong kiến tay sai, đồng thời giới
thiệu Cách mạng Tháng Mười và nước Nga Xôviết. Từ số 89 trở đi,
báo bắt đầu nêu lên những nguyên lý cơ bản về xây dựng Đảng kiểu
mẫu, về nhu cầu phải thành lập chính đảng cộng sản ở nước ta, về
phương hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt
Nam. Báo in tại Quảng Châu, từ số 89 trở đi, trụ sở báo chuyển về
Thượng Hải. Một số lượng lớn Báo Thanh niên được bí mật đưa về
nước cũng như tới các trung tâm phong trào yêu nước của người Việt
Nam ở nước ngoài. Với nội dung ngắn gọn, thể loại đa dạng, lời văn
giản dị, trong sáng, báo đã góp phần giáo dục về đạo đức cách
mạng, tinh thần hy sinh cho cách mạng và tư tưởng cách mạng triệt
để của giai cấp công nhân
Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời báo chí cách mạng Việt Nam,
là tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt do người Việt Nam viết để phục vụ
sự nghiệp giải phóng của người Việt Nam, nói lên ý chí và nguyện
vọng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt
Nam. Báo giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vạch rõ con đường cứu nước chân chính của dân tộc Việt Nam.
Báo Thanh niên vừa là người tuyên truyền, cổ động tập thể, vừa là
người tổ chức tập thể và nó góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị
về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.

9


Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị
áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tơn
Dật Tiên, làm hội trưởng và ơng làm bí thư.
Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu(19251927). Lớp học được tổ chức tại số nhà 13/1 phố Văn Minh. Học sinh

là những thanh niên Việt Nam yêu nước, xuất thân từ học sinh, trí
thức, có người là tú tài nho học. Chương trình học phong phú, gồm
các vấn đề: cách mạng là gì? cách mạng thế giới, cách mạng Việt
Nam và phương pháp vận động cách mạng. Các bài giảng về cách
mạng thế giới, nhằm nêu cao tính triệt để của cách mạng Nga so với
các cuộc cách mạng tư sản Mỹ, Anh, Pháp, giới thiệu các tổ chức
cách mạng quốc tế. Về cách mạng Việt Nam, các bài giảng phân tích
sự áp bức, bóc lột của đế quốc Pháp đối với nhân dân Việt Nam, chỉ
ra lực lượng đấu tranh chủ yếu để đánh đổ đế quốc thực dân và
phong kiến là công nông và các tầng lớp lao động khác, cách mạng
Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân theo
con đường cách mạng triệt để của cách mạng vô sản. Về phương
pháp vận động cách mạng, có các bài về tuyên truyền, tổ chức, vận
động các tầng lớp nhân dân.
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp lãnh đạo và là giảng viên chính của các khố học. Người lấy
tên là Vương. Các giảng viên ngồi "đồng chí Vương", Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn…
cịn có một số cán bộ trong đồn cố vấn của Liên Xơ lúc đó cơng tác ở Trung Quốc
như: vợ chồng ông M.Bôrôđin, A.Páplốp; bà Liêu Trọng Khải,... Sau mỗi lần nghe
giảng, học viên chia tổ thảo luận, mỗi người nhắc lại điều mình hiểu, các đồng chí
khác bổ sung, cho đến khi nắm vững toàn bài. Lớp học cịn ra một tờ "bích báo" đăng
bài của học viên; đôi khi tổ chức diễn các vở "kịch cương", sinh hoạt văn nghệ hoặc
tham quan Trường Hoàng Phố, thăm mộ 72 liệt sỹ ở Hoàng Hoa Cương,..
Tổng số học viên cho đến tháng 4-1927 do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp huấn luyện là 75
người. Đại đa số học viên sau khi học tập đã trở về Việt Nam, Xiêm hoạt động cách

10


mạng, một số được gửi đi học tại Trường Đại học phương Đơng. Những học viên này
có đóng góp to lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh vào Việt Nam.
Tháng 5 năm 1927, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đặt những người cộng sản
ra ngồi vịng pháp luật, ơng rời Quảng Châu đi Hồng Kông, rồi sang Moskva. Tháng
11 năm 1927, ông được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên
đoàn chống chiến tranh đế quốc từ ngày 9 tháng 12 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927
tại Bruxelles, Bỉ. Sau đó, ơng cũng qua Ý.

 NHỮNG NĂM 1928, 1929
Mùa thu 1928, Hồ Chí Minh từ châu Âu đến Thái Lan, với bí
danh Thầu Chín để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt Kiều, đồng
thời móc nối một số thanh thiếu niên Việt Nam sang Thái Lan hoạt
động. Hồ Chí Minh chủ trương tuyên truyền cho kiều bào và tổ chức
họ vào những hội thân ái, tổ chức các buổi sinh hoạt văn hóa cho họ,
xin chính phủ Thái cho mở trường dành cho Việt Kiều, Hồ Chí Minh đi
(chủ yếu là đi bộ) và vận động hầu khắp các vùng có kiều bào ở Thái
Lan. Giống như tại nhiều nơi đã hoạt động, ông cho in báo - tờ Thân
ái.
Cuối năm 1929, Hồ Chí Minh rời Thái Lan, theo ngả Singapore để
sang Trung Quốc.

 ĐẦU NĂM 1930
Từ ngày 3/2 đến ngày 7/2, dưới sự dẫn dắt của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã nhất
trí thống nhất ba tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dân thành lấp Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Các văn kiện này trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, chỉ đạo tồn bộ tiến trình
cách mạng Việt Nam từ đó về sau.

11



II. HOẠT ĐỘNG LÝ LUẬN CỦA HỒ CHÍ MINH TỪ CUỐI NĂM 1920
ĐẾN ĐẦU NĂM 1930
Song song với hoạt động thực tiễn thì Hồ Chí Minh cũng đẩy mạnh hoạt động lý
luận chính trị qua một số bài báo đáng chú ý như: Vấn đề dân bản xứ, báo L’Humanite
8-1919, Ở Đông Dương, báo L’Humanite 4-11-1920, v,v…Trong thời gian này, Hồ Chí
Minh viết nhiều tác phẩm có giá trị như Đông Dương (1923-1924), Bản án chế độ
thực dân Pháp (1925), Đường kách mệnh (1927), Công tác quân sự của Đảng trong
nơng dân (1928) , Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt (1930).
Năm 1922,với sự ra đời của báo Le Peria (Người cùng khổ) và với ngòi bút sắc
bén, Người đã vạch rõ bản chất tàn bạo và phản động về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội của chủ nghĩa thực dân, phơi bày những hành động, thủ đoạn của bọn thực dân
Pháp cướp đoạt của cải, sức lực của quần chúng lao động ở Việt Nam và ở Đơng
Dương. Bóc lột gắn liền với đầu độc bằng rượu cồn, thuốc phiện và chính sách ngu
dân. Đó là phương pháp thống trị của thực dân. Và qua đó Người muốn thức tỉnh tinh
thần giải phóng dân tộc của nhân dân ở các nước thuộc địa
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng đẩy mạnh hoạt động lý luận chính trị qua việc viết
báo tích cực truyền bá chủ nghĩa Marx - Lenin vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước. Đặc biệt có thể kể đến các bài báo Người đăng trên các báo Đảng Cộng
sản Pháp, Đảng Cộng sản Liên Xô của Quốc tế Cộng sản và qua tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp viết bằng tiếng Pháp được xuất bản đầu tiên tại Thư quán lao động
(Libraire du travail) năm 1925 ở Paris. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp gồm 12
chương, trong đó có một số bài đã đăng trên báo Le Paria. Nội dung của tác phẩm
không chỉ tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế quốc Pháp đối với dân tộc Việt Nam cũng như
với các thuộc địa khác trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội mà điều quan
trọng là đã nêu lên những luận điểm cơ bản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa.
Ngồi ra tác phẩm cịn vạch rõ đối tượng cách mạng, lực lượng cách mạng và giai cấp
lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc; đặt rõ vấn đề giành độc lập phải đi đôi với sự
nghiệp thống nhất Tổ Quốc, khẳng định sự nghiệp đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, giải
phóng dân tộc là sự nghiệp của quần chúng nhân dân ở các nước thuộc địa. Một lần


12


nữa khẳng định cuộc cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường của Cách
mạng Tháng Mười Nga, đi theo đường lối của Quốc tế Cộng sản.
Không chỉ dừng lại ở đó Người cịn vạch rõ quan điểm, tổng kết kinh nghiệm các
cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ và nhất là từ kinh nghiệm của cách mạng Tháng
Mười Nga trong tác phẩm Đường cách mệnh, xuất bản năm 1927 ở Quảng Châu,
Trung Quốc. Tác phẩm Đường cách mệnh là sự chuẩn bị mọi mặt về chính trị, tư
tưởng, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung của tác phẩm đã
nêu lên những vấn đề cơ bản của đạo đức mới - đạo đức của người cộng sản. Đó là
phải có đức và tài, trí và dũng, tư cách và năng lực theo kiểu người cộng sản. Đó là
con người một lịng một dạ. Đó là con người có tổ chức, gắn bó với tổ chức, với đồn
thể. Đồng thời biết phát huy năng lực cá nhân. “Tư cách người cách mệnh” có giá trị
khoa học và giáo dục lớn đặt cơ sở cho đạo đức học ở Việt Nam. Tác phẩm Đường
cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Lý luận của tác phẩm không sách vở
mà vạch ra lý luận cách mạng Việt Nam thiết thực, tri thức lý luận cách mạng Việt
Nam đã được hiện diện trong tác phẩm rất mácxít nhưng cũng rất Việt Nam, dễ hiểu,
dễ tiếp thu, kết hợp rất tài tình phương pháp lịch sử và logic. Dùng lịch sử để nói lý
luận, từ Cách mạng Pháp đến Cách mạng Nga và kết luận ở Cách mạng Nga, rồi lấy lý
luận soi sáng thực tiễn Việt Nam, và kết luận: Chỉ có cách mạng vơ sản mới giải phóng
được dân tộc.
Và một trong những đóng góp quan trọng nhất trong hoạt động lý luận của Người
đó là khởi thảo văn kiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
vào năm 1930 tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng
sản Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Việt Nam nêu mục tiêu và con đường
cách mạng là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng đi tới xã hội
cộng sản”, “đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến An Nam và giai cấp tư sản phản cách
mạng”, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; khẳng định sự lãnh

đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; liên minh công nông là lực lượng nòng cốt; cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Chiến lược đoàn kết toàn dân
tộc thấm từng câu từng chữ của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Bản Cương
lĩnh chính trị đầu tiên đã thể hiện rõ sự vận dụng sáng tạo và phát tiển chủ nghĩa Marx

13


– Lenin trong việc giải quyết mối quan hệ giai cấp – dân tộc – quốc tế trong đường lối
cách mạng Việt Nam.
→ Mục tiêu, phương hướng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam từng bước được
cụ thể hóa, thể hiện rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt
Nam

III. THỜI KỲ HÌNH THÀNH NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1.

Thời kỳ từ cuối năm 1920 – đầu năm 1930 là thời kỳ hình thành những nội

dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam
Đây là thời kỳ mục tiêu, phương hướng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
từng bước được cụ thể hóa, thể hiện rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
⁎ Mục tiêu và con đường cách mạng là “ làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
Sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm ra “cái cẩm nang thần kỳ cho sự nghiệp cứu nước,
giải phóng dân tộc” - con đường giải phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vơ sản.
Con đường đó được Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng trong những văn kiện thông qua

tại Hội nghị hợp nhất ngày 3-2-1930 “làm tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách
mệnh để đi tới xã hội cộng sản”. Trong tác phẩm “ Đường Cách Mệnh”, Người cũng
chỉ rõ Cách Mệnh có hai giai đoạn là dân tộc Kách mệnh và thế giới Kách mệnh.
Theo Bác hai thứ Kách mệnh đó tuy có khác nhau, vì dân tộc Kách mệnh thì chưa
phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Cịn
thế giới Kách mệnh thì vô sản giai cấp đứng đầu đi trước. Nhưng 2 Kách mệnh ấy vẫn
có quan hệ với nhau. Hồ Chí Minh tập trung vào nhiệm vụ dân tộc Kách mệnh, từ đó
làm tiền đề để thực hiện nhiệm vụ thế giới Kách mệnh.

14


⁎ Đối tượng cách mạng: “đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và giai cấp
tư sản phản cách mạng”. Cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vơ sản có
quan hệ khăng khít; CMTĐ trước hết là một cuộc “ dân tộc cách mệnh”, đánh
đuổi giặc ngoại xâm, giành độc lập tự do
Xuất phát từ thực tiễn, Việt Nam trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn dân tộc với
thực dân Pháp và bè lũ tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân lao động
với địa chủ phong kiến. Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Người đã
xác định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn trước mắt là “dân tộc cách mệnh”. Theo Người, chúng ta cần
tiến hành Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng
vơ sản, tức là độc lập dân tộc đi tới CNXH, còn đánh đổ phong kiến
và giai cấp tư sản phản cách mạng.
⁎ Lực lượng lãnh đạo: Cách mạng muốn thành công phải do Đảng lãnh đạo. Nền
tảng tư tưởng của Đảng là cách mạng Mác- Lênin.
Trong tác phẩm Đường Cách Mệnh, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề “Kách
mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng Kách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân

tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững Kách mệnh
mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ
nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”.
Người cũng khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, Kách mệnh nhất
là chủ nghĩa Lênin”. Hồ Chí Minh ln ln coi trọng chủ nghĩa Mác
Lênin, chính chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc cơ bản nhất hình
thành tư tưởng của Người. Với vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận
ấy trong tất cả các thời kỳ cách mạng, Chủ nghĩa Mác-Lênin trở

15


thành “cốt”, trở thành nền tảng và kim chỉ nam cho mọi hành động
của Đảng.
⁎ Lực lượng tham gia của cuộc cách mạng giải phịng dân tộc là tồn thể dân tộc,
trong đó phải xây dựng khối liên minh cơng nơng là lực lượng lịng cốt.
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ,
Hồ Chí Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở
Đơng Dương. Theo Người "Để có cơ hội thắng lợi, một cuộc khởi
nghĩa vũ trang ở Đông Dương phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa
quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải
được chuẩn bị trong quần chúng... ". Các nhà lý luận kinh điển của
chủ nghĩa Mác- Lenin cũng đã từng khẳng định : cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân ; quần chúng nhân dân là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử . Hay như VI Lênin viết “Khơng có sự đồng tình
ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong giai
cấp của mình tức là đối với giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản

khơng thể thực hiện được”. Điều này chứng tỏ vai trị vơ cùng quan
trọng của quần chúng nhân dân lao động trong cuộc cách mạng vô
sản.
Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nơng dân, Hồ Chí
Minh cho rằng, nơng dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị
bần cùng hóa nên họ ln có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia
cách mạng. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc sự nghiệp phải có
sự tham gia của giai cấp nơng dân và là của tồn dân. Người khẳng
định "cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc
một hai người". Người cho rằng "Dân khí mạnh thì qn lính nào,
súng ống nào cũng khơng chống lại nổi". "Phải dựa vào dân, dựa
chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được". "Chúng ta tin
chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc". Người

16


lý giải rằng “dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ,
nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại cường quyền". Năm 1930,
trong Sách lược vắn tắt của Đảng , Hồ Chí Minh xác định lực lượng
cách mạng bao gồm toàn dân : Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai
cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng
dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo
tiểu tư sản, tri thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp, đối với
phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung
lập . Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh
vai trị động lực cách mạng của công nhân và nông dân. Người khẳng
định: công nông “là gốc cách mệnh". Trong tác phẩm Đường Cách
Mệnh , Người giải thích giai cấp cơng nhân và nơng dân có số lượng

đơng nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp bức bóc lột nặng
nề nhất, nên "lịng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng
quyết... công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một
cái kiếp khổ. Nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc"
⁎ Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới
Năm 1921, Hồ Chí Minh đã nêu rõ khả năng đó rằng: “Ngày mà hàng
trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ
sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lịng tham khơng đáy, họ sẽ
hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc,
họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Trong nhiều bài báo viết về chủ
nghĩa thực dân đặc biệt trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” Người
đưa ra luận điểm nổi tiếng: Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có hai
vịi, “một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi
khác bám vào giai cấp vơ sản ở các thuộc địa”. Vậy nên, “nếu người

17


ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu
người ta chỉ cắt một vịi thơi, thì cái vịi kia vẫn tiếp tục hút máu của
giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ
mọc ra”. Từ đó Người vạch rõ chủ nghĩa thực dân khơng chỉ là kẻ thù
của các dân tộc bị áp bức, mà đồng thời là kẻ thù của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động chính quốc. Người cũng đã nói bản chất
của chủ nghĩa thực dân là "ăn cướp" và "giết người". Vì vậy, chủ
nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai
cấp cơng nhân và nhân dân lao động tồn thế giới. Những quan điểm
của Hồ Chí Minh giúp thúc đẩy , tạo động lực cho các phong trào giải

phóng dân tộc của các dân tộc trên thế giới .

18


KẾT LUẬN
Tóm lại, với 10 năm hoạt động sơi nổi, từ cuối năm 1920 đến đầu
1930, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào vô sản trên
thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc
trong nước, Hồ Chí Minh đã hình thành những nội dung cơ bản tư
tưởng về cách mạng VN. Qua những hoạt động tích cực thực tiễn và
lý luận, Người đã xác định được mục tiêu, phương hướng cách mạng
giải phóng dân tộc Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với
“Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam” đúng
đắn và sáng tạo đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối và tổ
chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam kéo dài suốt từ cuối thế kỉ XIX
sang đầu năm 1930. Những tư tưởng đõ tiếp tục được Người vận
dụng vầ rèn rũa, cùng với sự kế thừa, phát triển và sáng tạo chủ
nghĩa Mac-Lênin định hướng con đường mà cách mạng Việt Nam phải
đi. Và ngày nay những tư tưởng đó vẫn rất đúng đắn và dẫn bước
chúng ta bước tiếp, tuy nhiên chúng ta vẫn cần phải bổ sung và phát
triển những nội dung tư tưởng ấy để có thể đáp ứng được nhu cầu
thực tiễn xã hội hiện tại.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mạch Quang Thắng ( 2019 ). Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ
Giáo dục và đào tạo.

2. Nguyễn Ái Quốc (1925). Bản án chế độ thực dân Pháp, Imprekor
3. Nguyễn Ái Quốc ( 1927 ). Đường Kách Mệnh, Chính trị quốc gia –
Sự thật
4. Nguyễn Ái Quốc ( 1930). Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt,
điều lệ vắn tắt

20



×