Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tác động của truyền thông với sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.37 KB, 8 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA TRUYỀN THÔNG
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỰC
TIỄN VÀ LÝ LUẬN NGHỆ THUẬT
Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật - dù ở đâu, thời kỳ
lịch sử nào cũng vậy - thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ
quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; những chính sách
chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ
thuật); những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.
Bài viết này chỉ bàn đến những thay đổi có tính chất cách mạng của
công nghệ thông tin đã ảnh hưởng đến sự phát triển của thực tiễn và lý
luận nghệ thuật như thế nào?
Hiện nay, nhờ các phương tiện truyền thông mới mà các cá nhân đã
vượt qua được tất cả các đường biên giới quốc gia và qua đó tiếp cận
được với tất cả những thành tựu của loài người trong đó có nghệ thuật.
Nói cách khác, những hạn chế về bối cảnh kinh tế, chính trị của một quốc
gia không còn có ý nghĩa quyết định quan niệm thẩm mỹ, cách hiểu về
nghệ thuật, các kỹ năng và trào lưu sáng tác hay phê bình của người dân
ở nước đó như xưa nữa. Vì vậy, chưa bao giờ cái mới trong nghệ thuật ở
Việt Nam lại xuất hiện nhiều như những năm vừa qua. Chỉ cần điểm qua
các sự kiện trong đời sống mỹ thuật ở những năm qua chúng ta sẽ thấy
rõ: Không gì trên thế giới có mà ta không có! Từ các trường phái tranh
hiện đại (với nhiều chủ đề, đề tài xưa nay vốn là “cấm kị”) đến video art,
đến installation, đến performence art, đến việc tổ chức sự kiện mang tính
quảng cáo (như những đêm thời trang do Tạp chí Đẹp tổ chức). Điều đáng
nói ở đây là, tất cả những cái được coi là mới trong thực tiễn nghệ thuật ở
Việt Nam như đã nêu ở trên đều không hoặc chưa được dạy trong các
trường nghệ thuật chính thống của ta. Vậy những tri thức ấy, những quan
điểm và kỹ năng sáng tạo nghệ thuật ấy được học từ đâu nếu không phải
từ Internet???
1. Việc sử dụng các phương tiện truyền thông mới ngày càng trở
nên phổ biến là một chỉ báo của một quá trình cá nhân hoá


(individualization), theo đó các cá nhân trong xã hội đều mong muốn được
thể hiện cái tôi của mình, được tự do trong suy nghĩ, sinh hoạt và hành
động. Chính quá trình cá nhân hoá đã thay đổi cơ bản các hình thức và cả
phương thức sinh hoạt văn hoá của người dân hiện nay: Mỗi cá nhân đều
có sự lựa chọn hay từ chối những hàng hoá văn hoá (vốn rất phong phú,
đa dạng) chứ không phải kiểu tiêu thụ hàng hoá là sản phẩm của thời kỳ
thông tin một chiều, áp đặt của các phương tiện và quan điểm truyền
thông truyền thống. Hơn thế nữa, sự sáng tạo văn hóa, nghệ thuật không
chỉ là đặc quyền của riêng ai, về nguyên tắc, hiện nay nó là quyền và cơ
hội của tất cả mọi cá nhân.
Không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà năm 2007, Tạp chí Time của
Mỹ đã bình chọn nhân vật xuất sắc nhất trong năm, và lần đầu tiên, ảnh
hưởng của các phương tiện truyền thông mới đã được thể hiện thông qua
việc nhân vật được bình chọn là YOU (bạn).
Trước hết, quá trình cá nhân hóa mạnh mẽ đã làm suy yếu đi sức
mạnh của những biểu tượng truyền thống (những biểu tượng từ lĩnh vực
chính trị đến nghệ thuật). Trước kia, mỗi một xã hội, mỗi một dân tộc
thường duy trì những giá trị và chuẩn mực văn hóa của mình, trong đó có
nền nghệ thuật, theo những biểu tượng riêng. Những biểu tượng ấy với tư
cách là các cấu trúc xã hội không chỉ thống nhất tâm trí và hành động của
các cá nhân trong một xã hội nhất định (theo cách đồng cảm- một thuật
ngữ khá quan trọng trong xã hội học), mà nó còn như là một áp lực xã hội
có tính chất mệnh lệnh. Điều đó dẫn đến một hệ quả tất yếu là: Những ai
không tuân thủ “mệnh lệnh” của những biểu tượng đó đều bị coi là “thiểu
số”, là “lệch chuẩn”. Chính hệ biểu tượng ấy, hệ giá trị ấy đã trở thành hệ
quy chiếu thẩm mỹ cho các hoạt động sáng tạo và tiêu dùng nghệ thuật.
Điều này giải thích tại sao chúng ta thường phân biệt các tác phẩm có
chất lượng nghệ thuật cao - thấp, bác học - bình dân… phân biệt thị hiếu
lành mạnh với thấp hèn, hoặc thị hiếu cao, tinh tế với thị hiếu thấp, dung
tục...

Khi nền kinh tế thị trường chiếm vị trí ưu thắng cùng với khi chủ
nghĩa cá nhân đã hình thành và phát triển thì những sở thích cá nhân,
những thị hiếu cá nhân nhằm thỏa mãn những nhu cầu cá nhân được đặt
lên hàng đầu: tôi thích gì tôi sáng tạo hay tiêu dùng cái đó không cần phải
quan tâm nhiều đến việc xã hội có thừa nhận nó hay không! Điều đó dẫn
đến một tâm lý khá phổ biến trong xã hội tiêu dùng hiện đại là “không đụng
hàng”, là dùng ”hàng độc”... Thậm chí điều này còn trở thành một giá trị
thẩm mỹ trong xã hội hiện đại: Một người sẽ được coi là “tỉnh” khi các sản
phẩm mà anh ta tiêu dùng có tính cá nhân hóa cao, ngược lại sẽ bị coi là
“quê”. Giá trị này lấn át cả các giá trị chính trị hay kinh tế (nó không phụ
thuộc nhiều vào việc đắt hay rẻ, có ý nghĩa lịch sử hay không, có ích lợi
hay không). Xuất phát từ thực tiễn này của xã hội, trong nghệ thuật đương
đại đã có những thực tiễn mới: tất cả những phân loại theo kiểu cao -
thấp, bác học - bình dân, truyền thống- hiện đại trong nghệ thuật dần dần
bị bác bỏ, thậm chí những ranh giới giữa nghệ thuật với đời sống thường
ngày cũng bị xóa nhòa.
Chúng ta thấy rất rõ xu hướng cá nhân hóa trong sáng tạo và tiếp
nhận, tiêu dùng nghệ thuật đương đại. Mọi tác phẩm nghệ thuật dường
như đều xuất phát từ tình cảm, kinh nghiệm cá nhân của người nghệ sỹ
hoặc hướng tới quá trình tiếp nhận đa nghĩa, bởi sự tiếp nhận- theo quan
điểm mỹ học mới- tuỳ thuộc vào nền văn hoá mà các cá nhân sở thuộc và
tuỳ thuộc vào khả năng phản ánh hiện thực thông qua hành động giải trình
ngôn ngữ (discourse) của chúng. Ngoài ra, những nhà lý luận nghệ thuật
còn đưa ra nhiều thuật ngữ để minh họa, diễn giải cho thực tiễn nghệ
thuật mới này. Đó là những thuật ngữ như “liên văn bản”, hay như “cái
chết của tác giả”, hay “trò chơi ngôn ngữ”.v.v..
Trong lĩnh vực nghệ thuật, luận điểm này tuyệt đối hoá vai trò cá thể
trong quá trình sáng tạo- tiếp nhận nghệ thuật- Đó hoàn toàn là một quá
trình chủ quan hoá. Nó hoàn toàn đối lập với quan điểm của chủ nghĩa
hiện đại, coi tác phẩm là trung tâm và mang tính khách quan, mà người

tiếp nhận nó phải hướng đến những giá trị được coi là khách quan đó.
Cũng cần phải thêm rằng, chính truyền thông mới tạo điều kiện cho
cách tiếp nhận nghệ thuật mới. Thời nay, thông qua Internet các tác phẩm
có thể đi thẳng, trực tiếp đến người tiếp nhận mà không cần phải qua bất
kỳ một trung gian nào (như giới thiệu, phê bình, kiểm duyệt). Như thế,
người tiếp nhận nghệ thuật được tôn trọng tuyệt đối, họ có thể cảm thụ và
bình giá tác tác phẩm bằng chính cảm quan của mình, bằng chính vốn
sống và kinh nghiệm sống của mình... Điều này cũng giải thích cho tính đa
nghĩa và đa chức năng của nghệ thuật đương đại.
2. Mặt khác, chính nhờ quá trình cá nhân hoá này, các cá nhân có
điều kiện kết nối với những người khác có cùng sở thích, thị hiếu cũng
như những quan điểm chính trị, xã hội và thậm chí cả những liên kết kinh
tế. Những liên kết này kiến tạo ra những cộng đồng đặc biệt (các nhà
nghiên cứu gọi là cộng đồng văn bản). Nếu như ở thời các phương tiện
truyền thông đại chúng cũ, các thông tin được truyền ra mang tính một
chiều- các cá nhân không có cơ hội tương tác, đặc biệt là những nhóm xã
hội “ở phía dưới” hay những nhóm “thiểu số”; thì nay, nhờ có các phương
tiện truyền thông mới, các nhóm thiểu số được “trao quyền”“tiếng nói” lớn
hơn đối với cộng đồng. Những kết nối ngược chiều này (mặc dù sự kết nối
chỉ ở dạng cộng đồng văn bản) đã tạo ra những sức mạnh thực tế làm yếu
đi sức mạnh của “vòng xoáy của sự im lặng” (spiral of silence)7. Có thể
nói rằng, chính các phương tiện truyền thông mới đã thúc đẩy tích cực vào
quá trình dân chủ hoá xã hội. Nhờ đó, sinh hoạt xã hội trở nên dân chủ
hơn, đa chiều hơn và đời sống văn hoá cũng trở nên phong phú và đa
dạng hơn, không còn mang tính một chiều nữa.
Các phương tiện truyền thông mới ra đời đã giúp phá bỏ “vòng xoáy
của sự im lặng” trong đời sống nghệ thuật ở Việt Nam. Giờ đây, hầu như
ai cũng có cơ hội nói những tâm tư, nguyện vọng và ý tưởng của mình bất
chấp ý kiến của họ có được xã hội chấp nhận hay không. Nếu không được
đăng tải trên những phương tiện truyền thông chính thống thì giờ đây mỗi

người đều có thể tự viết blog hay dùng YouTube để chia sẻ các hình ảnh
riêng tư, những ý tưởng độc đáo của mình. Dần dần, những cộng đồng
mạng được hình thành và nó có sức mạnh không kém gì những cộng
đồng khác trong xã hội. Rất nhiều ví dụ trên thế giới và ở Việt Nam cho
thấy, nhiều khi những ý kiến thiểu số trở nên thắng thế trong một bối cảnh
xã hội ngày càng cởi mở hơn đối với những ý kiến khác biệt. Các phương
tiện truyền thông đại chúng giờ đây đã tự nguyện hay “bị ép buộc” đăng tải
các ý kiến cá nhân để thoả mãn xu hướng chung toàn cầu.
3. Chính quá trình hóa cá nhân mạnh mẽ ấy trong xã hội đương đại
đã trở thành cơ sở để các nhà tư tưởng xem xét lại toàn bộ hệ thống giá

×