Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Mot so bieu tuong trong ki Hoang Phu Ngoc tuong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.9 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Một số hình ảnh biểu tượng trong ký Hoàng </b>


<b>Phủ Ngọc Tường</b>



Trần Thị Thu Nga


Hoàng Phủ Ngọc Tường nhập sâu vào từng sự vật để chắt lắng, dâng tặng cho đời những dòng văn
ý nghĩa. Mỗi hình ảnh biểu tượng chứa đựng vẻ đẹp riêng mang chiều sâu của trí tuệ uyên thâm
triết học.


Đọc văn xi Hồng Phủ Ngọc Tường, ta thấy có những hình ảnh được tác giả nhắc đến nhiều lần.
Đó khơng chỉ là những hình ảnh ngẫu nhiên mà có sức ám ảnh lớn đối với tác giả và mang tính
biểu tượng cao như: hoa, cỏ, tiếng chim, lửa, dấu chân. Những biểu tượng đó có ý nghĩa sâu sắc
bởi qua đó, tác giả gửi gắm nhiều thơng điệp đến người đọc. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh và biểu
tượng trong văn xi Hồng Phủ Ngọc Tường có một vẻ đẹp riêng mang chiều sâu của trí tuệ uyên
thâm triết học của nhà văn. Đọc những dịng hình ảnh mang tính biểu tượng trên trang văn Hồng
Phủ Ngọc Tường ta như thấy đồng hiện tâm và trí của người nghệ sĩ đang nhập sâu vào từng sự vật
để chắt lắng, dâng tặng cho đời những dòng văn ý nghĩa.


Đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường, cùng với mộng, hoa cũng là một “báu vật của trời cho khi người
ta cịn trẻ”. Hoa khơng chỉ là sắc đẹp của thiên nhiên mà còn là linh hồn của biết bao kỷ niệm dọc
đời người. Năm tháng dần trôi nhưng nhà văn không bao giờ quên những bông hoa đã gặp trên
mỗi nẻo đường đi qua. Không nhắc đến hoa, tự tâm ông là nỗi nhớ da diết và cảm thấy đã có lỗi
đối với những người bạn tâm tình. Hơn bốn mươi lồi hoa từng nở trong ký Hồng Phủ. Cái tài
mang tính nghệ thuật của Hồng Phủ Ngọc Tường chính là ơng khơng chỉ ép lên trang văn những
xác hoa vô hồn mà mỗi bông hoa bừng nở là một nỗi niềm, một ẩn dụ về cuộc đời, số phận con
người. Hoa phù dung đổi màu thay sắc, sớm nở tối tàn là biểu tượng của cái đẹp mong manh, là
thời gian trôi chảy chóng mặt, cũng là tượng trưng cho cái hữu hạn của đời người trên trần ai
(trong Hoa bên trời). Bông ngũ sắc hoang dại ta vẫn thường thấy dọc ven đường và thờ ơ vơ tâm
thì với Hồng Phủ Ngọc Tường, nó là biểu tượng cho trí nhớ của đất (Bông hoa ngũ sắc). Bông
hoa dại nhỏ xíu, đỏ thắm mong manh bám trên đá là biểu tượng của sức sống và sự cống hiến hết
mình (Hoa bên trời). Hoa cỏ may là biểu tượng cho "cái lẽ có-và-khơng" (Sử thi buồn)...



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Khi ta lớn, cuộc hành trình đã mở
Trên dấu chân từng lớp người đi qua


Và những dấu chân người đi trước đã ám ảnh Hồng Phủ Ngọc Tường, nhà văn ln cảm nhận đó
là những dấu chân tự thuở nào xa xưa vĩnh hằng theo tháng năm, in dấu ở hiện tại và tương lai.
Trong không gian nghệ thuật của họa sĩ Lê Bá Đảng, ông đã nhận ra hình ảnh bàn chân như một
điểm sáng trung tâm của tác phẩm: “Đấy là bàn chân người Giao Chỉ, bởi dạng to bè đặc biệt của
ngón cái, và những dấu hà ăn lỗ chỗ trên gót vì dầm dề lâu năm trong nước mặn”; hay khi qua cầu
Long Biên, nhìn những dấu chân mỏng manh trên cát bến bãi sông Hồng, nhà văn cũng thấy:
“Những dấu chân có hai ngón cái chếch vào nhau của người Giao Chỉ đã in lên vùng bãi này từ lúc
nó mới bồi nên những lớp phù sa đầu tiên. Và mặc cho bao mưa lũ, nước triều, bao nhiêu kẻ xâm
lược muốn vùi xóa nó, những dấu chân nọ vẫn còn đấy, y nguyên tự tại trên mặt đất châu thổ như
một dấu ấn của vĩnh viễn” (Châu thổ ngàn năm). Bàn chân ở đây là biểu tượng cho lớp lớp người
Việt vượt qua mọi khó khăn gian khổ và cũng là sức mạnh trường tồn của dân tộc. Từ châu thổ
ngàn năm, đến miền cùng cuối đất nước, HPNT lại cảm nhìn thấy qua ánh đèn những dấu chân của
một đồn người: “Những cái bóng bập bùng của một dịng người vơ tận, súng với nóp mang trên
vai, dấu chân in cịn tươi trên mặt bùn rừng đước”. Đây là biểu tượng cho lớp lớp người Việt trên
hành trình bảo vệ Tổ quốc. “Dấu chân in tươi trên mặt bùn” của cha ông như kéo gần quá khứ và
hiện tại, xoá đi khoảng không mông lung vô ảo của thời gian, khỏa lấp vào đó là hơi ấm sự sống,
của tình người. Trên nẻo đường hành quân, những người chiến sĩ vẫn cảm nhận:


Người trước qua đây hành quân giết giặc
Người sau qua đây thấy dấu ông cha
(Tôi đi trên những con đường cũ)


Chỉ có những ai đã từng trải qua, từng trân trọng mới thấu hiểu được “sức nghìn năm khơi phục
giữa tâm hồn” khi đặt bàn chân mình vào dấu chân quá khứ. Trên những nẻo đường vắng heo hút
rừng suối trong chiến tranh: “Người lội suối không ai bảo ai, vẫn đặt bước đứng vào những phiến
đá thuận tiện cho bàn chân; người đi triền miên tháng năm, dấu dép cao su lõm sâu vào đá in rõ


mồn một con đường dài nghĩa quân. Người lính Lam Sơn thuở xưa chắc cũng lặn lội suối khe như
thời tôi, dáng dấp con đường vẫn chưa mở trong câu thơ Nguyễn Trãi: “Dấu người đi là đá mòn”.
Nước vẫn chảy ngày đêm trong lòng khe, không làm trôi đi những dấu chân người in trên đá” (Bản
di chúc của cỏ lau). Dấu chân vì thế không chỉ là biểu tượng cho dấu ấn lịch sử, sức mạnh dân tộc
mà còn là biểu tượng của sức mạnh vĩnh hằng. Người người đã qua đi, đã là gió là mây, là cát bụi
hư khơng và nước chảy đá mòn, còn dấu chân vẫn in hằn rõ nét không hề phôi pha. “Hỡi con
người có bàn chân nhỏ, sao có thể đi qua những biến động của lịch sử như gió thổi qua đại
dương?” (Cồn Cỏ ngày thường). Câu hỏi của nhà văn cũng đồng thời là lời khẳng định cho sức
mạnh của con người, của dân tộc Việt Nam. Đây không phải là vấn đề mới trong văn học nhưng
bằng cách xây dựng hình ảnh bàn chân với những biểu tượng như trên, Hồng Phủ Ngọc Tường đã
có cách nói riêng của mình. Khơng lời lẽ đại ngơn, hoa mĩ, chỉ qua một hình ảnh bình dị, nhà văn
đã khắc ghi trong tâm khảm người đọc một tình cảm dân tộc thiêng liêng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

lồng ngực của mình, lấy trái tim soi sáng đường cho mọi người tiến bước. Khơng hẳn có sự tương
đồng với Danko nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là người nghệ sĩ đã thắp lửa trái tim, tâm
hồn mình để đốt nóng sáng tình u cuộc sống đời thường và để đi, cảm, viết, rồi truyền đến người
đọc những tình cảm cao đẹp. Nhiều lần nhắc đến lửa nhưng mỗi lần, ánh lửa được tác giả miêu tả,
cảm nhận với những hướng nhìn khác nhau. Lửa là biểu tượng cho lịng u nước cháy bỏng: ngọn
lửa tự thiêu cháy mình của người cách mạng kiên cường (Miếng trầu đỏ); ngọn lửa điềm tĩnh, bé
bỏng từ cây đèn nhỏ đã thắp sáng cuộc đời chiến đấu của người chiến sĩ trong những đêm rừng tối
thẳm (Bản di chúc của cỏ lau)... Là biểu tượng cho ước vọng cháy bỏng của con người như: ngọn
lửa nhỏ bé từ chiếc đèn dầu người mẹ làng Trà (Miếng trầu đỏ) suốt mấy mươi năm trường vẫn
bền bỉ sáng không nguôi, cũng như cuộc đời của mẹ ln ấp iu, gìn giữ khát vọng sống mãnh liệt
của người Việt Nam; là ước vọng của những người dân Cồn Hến (Rất nhiều ánh lửa) khao khát
hướng đến ánh sáng tri thức qua từng buổi học đêm sau những ngày làm việc mệt mỏi... Lửa cũng
có khi là biểu tượng cho một nét văn hố khơng thể thiếu được mà nhà văn đã cảm nhận ra trong
món cơm hến dân dã quen thuộc xứ Huế (Chuyện cơm hến). Ánh lửa còn là biểu tượng cho nhịp
cầu nối giữa quá khứ và hiện tại: ánh lửa hiện về trong sâu thẳm tâm linh như một miền ảo ảnh
trên dòng Hương giang buổi chiều sương sa - ánh lửa trên con thuyền Phan Bội Châu thuở nào (Sử
thi buồn); “ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ” trong những đêm cố đô đầy sương


(Ai đã đặt tên cho dịng sơng?); ánh lửa của những bếp bản Thượng bập bùng trong ký ức sâu thẳm
khi Hoàng Phủ Ngọc Tường ngồi bên lửa trại trên đỉnh Bạch Mã (Ngọn núi ảo ảnh)... Ngọn lửa vì
thế khơng phải chỉ là hình ảnh thực mà nó cịn là quá khứ cồn cào, nóng bỏng, là hơi ấm của sự
sống luôn âm ỉ cháy sáng trong tâm hồn mỗi người. Nó chính là kỷ niệm, là máu thịt của cuộc
sống đời người một thời, là than đá của quá khứ cồn cào trong lòng đất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

vơ thủy vơ chung của thời gian. Nhìn dịng Hương trơi chảy, ơng nhớ đến xưa kia: "Có một người
Hi Lạp tên là Hêraclit đã khóc suốt đời vì những dịng sơng trơi đi q nhanh!”; hay khi đứng
ngắm dịng thác Xai-tơ-đó trên đỉnh Bạch Mã mải miết qua ghềnh, qua đá vọng âm hưởng bí ẩn từ
đáy sâu, ơng lại tự hỏi: “Dịng nước ư, chảy mãi thế sao, ngày đêm không nghỉ, chảy như sông
Thù, sông Tứ nơi quê nhà của ông Thánh đã ngồi viết Kinh Dịch...”. Thời gian với những quy luật
nghiệt ngã của mất - cịn ln là nỗi trăn trở của lồi người. Sơng đây đã chảy, đang chảy và vẫn sẽ
luôn chảy nhưng “một trăm năm mươi... chỗ tôi ngồi...”, bờ sông bồi lở, vật đổi sao dời, đời dâu bể
và cái gì cịn, cái gì mất? Đọc tác phẩm Thiên văn của Nguyễn Huy Thiệp, ta cũng thấy bi kịch đau
đớn này:


"Này nhé: này là dịng sơng
Định mệnh cứ cuồn cuộn chảy
Bồi và lở"


Thấu hiểu hơn ai hết, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhập thế, sống hết mình, hịa cái tơi của mình
vào dịng chảy cuộc sống để nâng niu trân trọng những giá trị đang hiện hữu. Mà có lẽ cũng vì thế,
ông mới yêu quý tha thiết “điệu chảy lặng lờ” như “điệu slow tình cảm” của sơng Hương khi nó
ngang qua thành phố...


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

đêm khuya thơm lạ lùng làm người ta nghĩ đến một nỗi bình n nào đó khơng có ở đời”; hay mãi
mãi trong tâm trí Hồng Phủ là hình ảnh: “Khi Đỗ ngủ say, Ngơ Kha đi nhặt đâu đó những cánh
hoa phượng vĩ hồng, đem rải quanh người anh, để khi anh ngủ dậy, cịn lại dấu vết một hình người
trên mặt cỏ”... Cỏ còn là biểu tượng cho tiếng nói của tâm linh bởi, có những điều người ta đã quên
đi nhưng cỏ vẫn lưu nhớ. Cỏ là trí nhớ sâu thẳm của đất đai, của miền tâm linh linh thiêng: “Đất


này thì tưới nhiều máu, nên cây cỏ hoa màu đỏ. Có nhiều điều quan trọng của mảnh đất này mà
con người đã quên đi cây cỏ nhắc lại”. Cỏ thấm máu nên cỏ là trí nhớ của đất; nhưng cũng vì thế
mà nhắc đến cỏ, người ta còn nghĩ đến sự bội bạc, lãng quên của con người vì cỏ cũng là biểu
tượng cho thế giới hoang tàn. Có những con đường khơng cịn ai đi, chỉ có cỏ lau bạt ngàn phủ lối,
nhưng cỏ mọc khơng nhanh bằng trí nhớ bội bạc của con người (Bản di chúc của cỏ lau). Thành
Cổ ghi dấu những cuộc chiến oanh liệt một thời, giờ là thế giới hoang của cỏ dại: "Lau lách, đót,
tranh, chuối hoang và trăm nghìn thứ cỏ trên trái đất, cứ sau một cơn mưa lại mọc lên tươi tốt phồn
vinh” và “phải cần đến một ngân sách có trách nhiệm của Nhà nước, nhưng điều đó dĩ nhiên khơng
có ai nghĩ tới”. Ngọn núi ảo ảnh Bạch Mã một thời huy hoàng giờ chỉ là một thế giới tan hoang
giữa rừng lau: “Khơng cịn gì cả ngồi mấy mảnh tường vỡ vùi ngập dưới lay sậy lút đầu” . Tuyệt
tình cốc in dấu những tháng ngày tuổi trẻ say mê đầy mộng của HPNT và bạn bè "bây giờ nhà xiêu
vách đổ, cỏ ống mọc lút cả chân thềm"... Cỏ còn là biểu tượng cho sự vơ thường của cái có có -
không không. HPNT đã nhận ra điều này khi ngắm những bơng hoa cỏ may tim tím hoang dại
trong chuỗi chuông ngân nga trên chùa Thiên Mụ (Sử thi buồn). Và, trong trong bài ký Chế ngự
cát, ta thấy cát lấp cỏ, cỏ bị vùi sâu dưới cát nhưng rồi cỏ lại mọc trên triền đê xanh tốt và: "Cả một
vùng cát mênh mông ven biển dậy lên trong sắc đẹp của cỏ hoa đồng nội”. Đó cũng là sự biến hóa
có có - khơng khơng theo vòng xoay của sinh - trụ - dị - diệt...


Qua việc tìm hiểu nghệ thuật xây dựng một số hình ảnh và biểu tượng như trên, chúng ta phần nào
thấy khá rõ tài năng, sự sáng tạo và vẻ đẹp tâm hồn của tác giả. Và, gấp trang sách lại, những hình
ảnh, biểu tượng đó cịn vương khắc mãi trong tâm trí người đọc, hay đó cũng chính là sức sống của
những trang ký sâu sắc! HPNT đã khẳng định tên tuổi của mình trong dịng ký Việt Nam hiện đại.
Tất cả không chỉ là lý thuyết, là câu chữ sáo rỗng mà đó là khối óc và trái tim của một người nghệ
sĩ chân chính. Đặc biệt, khơng dừng lại với những gì đã có, nhà văn vẫn ln gắng gượng với mọi
nỗi đau bi kịch để dâng cho đời những trang hoa đẹp tươi. Viết ký là viết tiếp trang văn của sự
sống, là trái tim còn đập và cuộc đời còn niềm vui, hạnh phúc. Viết bằng tất cả huyết lệ của một
đời con tằm nhả tơ, con yến nhỏ máu xây tổ. Viết bằng ngọn bút dũng cảm, bằng vốn sống và miền
tâm cảm, tâm linh ấp ủ trái tim thắm đỏ tình người, tình yêu Tổ quốc!


</div>


<!--links-->
Mot so bieu tuong can tham khao
  • 4
  • 382
  • 0
  • ×